Viêm Phổi Thuỳ

VPT thường xảy ra ở những người có cơ địa kém như người già, trẻ em suy dinh dưỡng, có các bệnh mạn tính, giảm miễn dịch, nghiện rượu, suy dưỡng hay các bệnh phổi có từ trước như viêm phế quản mạn, giãn phế quản, hen phế quản... Bệnh thường xuất hiện lúc thay đổi thời tiết, gặp nhiều vào mùa đông xuân là thời kỳ có tỉ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cao nhất. Viêm phổi do phế cầu có thể xảy ra thành “dịch” ở các nhà trẻ, mẫu giáo, trường học... hoặc cũng có thể mắc bệnh lẻ tẻ trong các khu dân cư.

Phế cầu xâm nhập vào phổi qua đường hô hấp là do hít phải các dịch tiết ở họng. Phế quản gây nhiễm khuẩn phù nề xuất tiết các phế nang và tổn thương lan rộng vào các phần phổi kế cận.

Biểu hiện bệnh

VPT  do phế cầu là bệnh thường gặp nhất. Trẻ em hay mắc bệnh. Một ca bệnh VPT  do phế cầu thường diễn biến qua các giai đoạn như sau:

Ở giai đoạn khởi phát: Thường khó phát hiện vì các triệu chứng không điển hình. Bệnh thường xuất hiện đột ngột với các triệu chứng: sốt cao 39 - 400C, bệnh nhân rùng mình, rét run. Đôi khi có các hiểu hiện: Rối loạn tiêu hoá như nôn, đau bụng (thường là đau phía bên phải vùng thấp nên dễ nhầm với viêm ruột thừa). Bệnh nhân bị vật vã kích thích, có thể lên cơn co giật toàn thân nhất là ở trẻ nhỏ, nhưng chọc dò tuỷ sống nước não tuỷ bình thường về cả phương diện sinh hóa và tế bào. Các triệu chứng hô hấp chưa rõ, trẻ chỉ có dấu hiệu viêm long đường hô hấp trên như sốt, ho nhẹ và chảy nước mũi...

Giai đoạn toàn phát: Sau 2 - 3 ngày, trẻ sốt cao 30 - 400C, khó ngủ, tình trạng kích thích vật vã khó chịu. Một số bệnh nhân có thể hốt hoảng, co giật toàn thân, mặt đỏ, khó thở, tím tái. Các triệu chứng hô hấp ngày càng rầm rộ. Trẻ ho nhiều, ho từng cơn, ho khan sau đó có thể có đờm. Trẻ có thể kêu đau ngực, nằm nghiêng về phía bên tổn thương, đầu gối co lên ngực. Có thể khó thở, nhịp thở nhanh, tím tái quanh môi, biểu hiện tình trạng kích thích, đôi khi lại mê sảng, li bì. Khám thấy hội chứng đông đặc, gõ đục nhẹ một vùng, rung thanh tăng khu trú, nghe có tiếng vang phế quản hoặc tiếng thổi ống. Có thể nghe ran ẩm to, nhỏ hạt. Triệu chứng cận lâm sàng: Chụp Xquang phổi thấy điển hình là mờ hình tam giác, đỉnh ở phía trong (phía rốn phổi), đáy ở phía ngoài (phía nách) hoặc là hình mờ đậm, đều có bờ rõ khu trú ở một phân thuỳ hay một thuỳ phổi. Trên phim chụp Xquang phổi có thể thấy những đám mờ hình thể khác nhau như hình chữ nhật, hình thang, băng dài hoặc hình ê - ke... Xét nghiệm máu thấy: Số lượng bạch cầu tăng cao, tỉ lệ đa nhân trung tính tăng cao 70 - 80%. Tuy nhiên nếu thấy bạch cầu giảm dưới 5000/mm3 là tiên lượng xấu. Nuôi cấy dịch tị hầu, hay dịch phế quản để xác định phế cầu khuẩn.

Nếu được điều trị sớm bệnh tiến triển thuận lợi, nhiệt độ giảm dần, các triệu chứng cơ năng, thực thể giảm nhiều và khỏi bệnh nhanh trong khoảng 7 - 10 ngày. Nhưng trẻ còn mệt mỏi biếng ăn một vài ngày sau.

Trái lại nếu không được điều trị kịp thời, sốt sẽ kéo dài 1 - 2 tuần, ho, khó thở, tím tái, mạch nhanh, huyết áp giảm, nhiệt độ cơ thể tăng cao rồi đột ngột hạ thấp, trẻ ra mồ hôi nhiều, đái nhiều. Sau một vài ngày bệnh thoái lui. Tiên lượng VPT ở trẻ em diễn biến tốt, tỉ lệ tử vong thấp. Tuy nhiên cũng có thể gây nên những biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.

Và cách phòng

Bệnh viêm phổi là một trong những bệnh nhiễm trùng đường hô hấp phổ biến nhất. Ngày nay nhờ vào nhiều loại kháng sinh mới, mạnh nên tỷ lệ biến chứng và tử vong giảm nhiều. Để phòng bệnh, giảm biến chứng phải nâng cao thể trạng, giữ ấm trong mùa lạnh, không hút thuốc lá, phòng ngừa và điều trị sớm, tận gốc các nhiễm trùng ở đường hô hấp trên, các đợt cấp của bệnh phổi mạn tính, điều trị sớm và theo dõi sát giai đoạn sớm của nhiễm trùng đường hô hấp, tránh lây lan. Sử dụng vaccin phòng bệnh do virus gây nên, dùng thuốc chống virus.

Từ khóa » Chẩn đoán Viêm Phổi Thùy