Vòng đời Sản Phẩm - PHÂN TÍCH KINH TẾ
Có thể bạn quan tâm
Product life cycle
Khái niệm vòng đời của một sản phẩm được sử dụng một cách thông thường trong phân tích công ti, và đặc biệt là kể từ việc công bố một bài viết của Vernon (1966) trên tạp chí Quarterly Journal of Economics. Thật vậy, một sản phẩm bán chạy được là do quyết tâm của một tổ chức. Do đó phải có một khởi đầu cho sự thương mại hoá này, coi như sự ra đời trên thị trường. Thường người ta xem là nếu một sản phẩm thoả mãn được một người tiêu dùng thì sẽ có thể thoả mãn những người tiêu dùng khác, và điều này đưa đến một số sản phẩm được doanh nghiệp bán ra. Tuy nhiên việc nhân bội người tiêu dùng không phải là không có giới hạn và thường đến một thời điểm thống kê số hàng bán đạt đến đỉnh và ở thế ổn định. Như thế, nếu không có gì thay đổi trong cung thì một sụt giảm số bán sẽ tiếp theo sự ổn định, rồi tiếp đó là biến mất hẳn. Chính như thế mà lí thuyết vòng đời sản phẩm đã xuất hiện trong thế giới của khoa học kinh tế và quản lí.
Lí thuyết này xuất phát từ một quan sát đơn giản: một sản phẩm ra đời, tăng trưởng, sống, suy tàn và chết đi như một hệ thống sinh động. Lợi thế chính của khái niệm là tạo điều kiện dễ dàng cho việc dự báo, chỉ cho những nhà ra quyết định trong một doanh nghiệp đâu là những mức thành tựu thương mại họ có thể đạt được trong tương lai với sản phẩm của mình. Tuy nhiên, nếu khái niệm cơ bản là khá đơn giản thì những phát triển dẫn đến việc cấu trúc hoá lí thuyết phải tính đến một số lớn tham số. Phải vô cùng thận trọng vì không có một mô hình chung áp dụng nguyên si được cho mọi sản phẩm. Mặt khác không ai tránh được những điều kiện của môi trường có thể làm gián đoạn trước thời hạn đời sống của một sản phẩm, đó là chưa tính đến là ngay chính trong nội bộ của tổ chức có thể có những lí do để can thiệp vào đường biểu diễn vòng đời của một sản phẩm. Do đó, không thể có những xác suất chính xác về những tuổi thọ của sản phẩm. Cung sản phẩm là quá đa dạng và chịu những thay đổi thường xuyên, những điều kiện cạnh tranh cũng thay đổi và trong dài hạn tiến hoá của thị trường là không dự báo được.
Vòng đời của sản phẩm theo năm pha |
Gösta Mickwitz (1917-2003)
Những pha của đường biểu diễnvòng đời của sản phẩm
Độ dài và những đặc điểm của của mỗi một pha có thể thay đổi tuỳ theo đó là một sản phẩm thời trang, một sản phẩm gắn với một biến cố đặc biệt, một sản phẩm không bao giờ “lỗi thời”… Độ dài và những đặc điểm này cũng thay đổi tuỳ theo là ta phân tích một model đặc biệt hay cả một loại sản phẩm: một model có thể còn tăng trưởng trong lúc kiểu sản phẩm đó đang ở pha chín muồi hay ở pha suy tàn. Ngược lại, một model có thể suy tàn trong lúc sản phẩm vẫn còn ở trong pha tăng trưởng. Bởi thế hãy xem xét chính xác hơn điều gì đặc trưng cho những pha khác nhau của đường biểu diễn vòng đời của một sản phẩm.
Pha phát động. – Số bán hàng còn thấp, lợi nhuận thường là âm do những chi phí quan trọng để xây dựng tiếng tăm của sản phẩm và do chi phí cao (khấu hao chi phí nghiên cứu và trang thiết bị, chưa nắm vững bí quyết, khối lượng khiêm tốn, …). Rất nhiều vấn đề quản lí sản phẩm được đặt ra, dư sức biện minh cho sự cần thiết phải có một trưởng sản phẩm. Tỉ suất thất bại ghi nhận trong pha phát động là quan trọng. Như thế, từ 60 đến 75% những sản phẩm mới không đạt được những mục tiêu đề ra cho chúng. Đó là chưa kể tới những trường hợp đơn giản là không có những mục tiêu như thế.
Pha tăng trưởng. – Số bán hàng trở nên quan trọng hơn và tăng theo một tỉ suất gần như không đổi. Lợi nhuận trở thành dương (hiệu ứng tính kinh tế theo qui mô và hiệu ứng tập huấn trong nội bộ doanh nghiệp). Những vấn đề năng lực sản xuất và do đó những vấn đề đầu tư có thể đi kèm pha này của vòng đời, nhất là trong trường hợp sản phẩm gặt hái thành công. Mặt khác, cần phải đối mặt với một cạnh tranh ngày càng củng cố.
Pha chín muồi. – Số bán hàng tăng ngày càng chậm và cuối cùng đạt tới đỉnh điểm. Lợi nhuận là cực cao, cạnh tranh trở nên nguy hiểm hơn vì không có công ti nào có thể phát triển mà không gây thiệt cho những công ti khác. Điều này biện minh cho những nỗ lực thương mại quan trọng và chú ý hơn đến những nghiên cứu thị trường.
Pha bão hoà. – Số bán hàng chững lại và chỉ có những dao động nhỏ. Khoản lời thường là lớn và cần triển khai mọi việc để đẩy lùi thời điểm pha suy tàn.
Pha suy tàn. – Trong pha cuối này số bán hàng giảm. Khoản lời lớn ban đầu sẽ bị bào mòn do một phân bố ngày càng không thích hợp của những chi phí cố định. Như thế cần phát triển những hệ thống kiểm tra quản lí nhằm làm hiện lên rõ ràng thời điểm mà sản phẩm không còn có lợi đối với doanh nghiệp. Trong trường hợp này, cần ra quyết định từ bỏ sản phẩm, trừ khi quyết định này có thể tác động xấu đến số bán hàng những sản phẩm có lời khác của doanh nghiệp.
Những kiểu quyết định phải lấy nhằm tạo ra hay tránh những điểm chuyển hướngcủa đường biểu diễn
Trong pha phát động. – Mục tiêu tiếp thị là tạo nên tiếng tăm cho sản phẩm và tạo điều kiện dễ dàng để thử sản phẩm. Bởi thế quyền lợi của doanh nghiệp là thương mại hoá một sản phẩm cơ bản, ở một giá tương đối cao (kiểu chi phí cộng một khoản lời), với một phân phối có chọn lọc, quảng cáo ưu tiên cho một tiếng tăm có chọn lọc nhằm thu hút người tiêu dùng tiềm tàng dùng thử sản phẩm.
Trong pha tăng trưởng. – Doanh nghiệp phải làm tất cả để tăng thị phần. Thường điều này được tiến hành thông qua việc mở rộng gam sản phẩm và dịch vụ gắn với sản phẩm. Do đó giá cả phải là một giá thâm nhập thị trường, phân phối được mở rộng, quảng cáo nhằm việc tối đa hoá tiếng tăm chung của sản phẩm và quảng cáo đại trà là giới hạn.
Trong pha chín muồi. – Đối vói doanh nghiệp mục tiêu ở pha này của vòng đời sản phẩm là làm mọi cách để tăng lợi nhuận vừa duy trì được thị phần của sản phẩm của mình so với thị phần của các nhà cạnh tranh. Có thể làm được việc này thông qua một số nhãn hiệu và model. Tất nhiên giá cả phải có tính cạnh tranh và mạng lưới phân phối càng rộng hơn là ở pha tăng trưởng. Quảng cáo phải nhấn mạnh đến sự phân biệt hoá và góp phần giữ chân khách hàng trung thành.
Trong pha bão hoà. – Mục tiêu tiếp thị là duy trì mức bán hàng ở mức hiện hành lâu nhất có thể để đẩy lùi thời điểm suy tàn của sản phẩm. Để làm việc này, quyền lợi của doanh nghiệp là tận dụng sự trung thành của khách hàng. Đây là việc tiếp tục những hành động được chủ trương trong pha chín muồi và phải chú ý đến khoản lời, vì pha này phải mang lại lợi nhuận cho công ti.
Trong pha suy tàn. – Mục tiêu tiếp thị là giảm chi phí và thu càng lâu dài càng tốt trước khi loại trừ sản phẩm (trừ khi việc loại trừ này có ảnh hưởng quan trọng đến việc bán những sản phẩm khác đặc biệt có lời). Về mặt sản phẩm, vấn đề là thu hẹp gam, giảm giá, triển khai lại việc phân phối có chọn lọc với những chi phí quảng cáo hạn chế và tất nhiên là tối thiểu nhất.
Vòng đời sản phẩm và lí thuyết phổ biến sản phẩm
Everett M. Rogers (1931-2004)
Do đó phân bổ này một cách xấp xỉ theo một phân phối chuẩn, thể hiện sự thâm nhập cộng dồn của một sản phẩm dưới dạng một tiến hoá hình chữ “S”. Có thể gọi đó là đường phổ biến sản phẩm.Đường này phản ảnh tiến hoá cơ bản của việc bán một sản phẩm như là kết quả của quá trình chấp nhận-bắt chước (tỉ số thử sản phẩm cộng dồn) và quá trình mua lại-thay thế (tỉ suất đổi mới có kì hạn của sản phẩm) đặc trưng cho sản phẩm. Cho hầu hết những sản phẩm công nghiệp và những sản phẩm tiêu dùng lâu bền, thành tố thứ nhất thường lấn thế. Đối với những sản phẩm tiêu dùng thông thường, thường đều có cả hai thành tố. Như thế, theo chúng tôi, việc sử dụng chuẩn tắc lí thuyết phổ biến nhằm mục đích theo dõi một sản phẩm mới là một trong những công cụ mạnh nhất mà các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có trong tay để quản lí tốt hơn pha phát triển thương mại sản phẩm này, đặc biệt là việc kiểm soát sự phổ biến hay đo đạc những hiện tượng gia tăng thị phần và hiện tượng thay thế ….
Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế
Raymond Vernon (1913-1999)
Khái niệm vòng đời quốc tế của sản phẩm với năm bước nối tiếp nhau như được mô tả trên đây thể hiện rõ ràng sự dịch chuyển của việc định vị những trung tâm sản xuất chính khi sản phẩm này càng phát triển trên bình diện thế giới. Trong trường hợp này, sự suy tàn của sản xuất trong một nước không trùng khớp với sự suy tàn của cầu do cầu có thể còn mạnh nhưng đi kèm với với việc dịch chuyển địa bàn sản xuất. Để nối kết vòng đời quốc tế của sản phẩm với vòng đời của sản phẩm cần ghi nhận mô hình của Mickwitz được trình bày ở trên. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là lí thuyết này được thiết kế từ 1966. Kể từ đó, sự phát triển của những nước công nghiệp, việc các nước công nghiệp cấp hai của những năm 1950 và 1960 đuổi kịp Mĩ đã khiến cho luận điểm này ngày càng phức tạp hơn. Thêm vào đó còn có việc di dời một số công đoạn của quá trình sản xuất đến những vùng địa lí mới (impartition) thay vì toàn bộ quá trình chế tạo sản phẩm đã làm xuất hiện của những công đoạn của quá trình sản xuất của một số sản phẩm chứ không còn là những vòng đời quốc tế sản phẩm toàn diện nữa. Và mặt khác, những chiến lược quốc tế hoá của các công ti thường cũng góp phần làm nổi lên việc đa diện hoá địa bàn sản xuất rải rác trên thế giới của nhiều sản phẩm.
Để kết luận, cần nêu lên là những phương pháp trên đấy các công ti dựa vào để quản lí tốt hơn sản phẩm của mình trong giai đoạn giới thiệu sản phẩm và tăng trưởng của doanh thu đặt cơ sở trên một mô hình hoá động động thái mua-mua lại-thay thế, hay được chấp nhận-bắt chước-phổ biến đặc trưng trong thời gian cho hành vi của những người sử dụng tiềm tàng một sản phẩm. Những phương pháp này trước tiên dẫn đến việc: phát hiện những hiện tượng làm cho việc thâm nhập thị trường chậm lại hay tăng tốc; đo đạc và phân tích những hiện tượng của cầu sơ cấp, cầu thay thế và cầu ăn tươi nuốt sống do sản phẩm sinh ra; xác định những những mục tiêu bán hàng cho phép khai thác tốt hơn động thái của thị trường.
Patrick HETZEL
Giáo sư đại học Panthéon-Assas (Paris 2)
Nguyễn Đôn Phước dịch
® Cung và cầu (qui luật); Đổi mới; Kinh tế thị trường; Lí thuyết mới về thương mại quốc tế; Phân biệt hoá sản phẩm; Tính cạnh tranh; Thời gian.
Nguồn: Dictionnaire des sciences économiques, Claude Jessua, Christian Labrousse và Daniel Vitry (đồng chủ biên), PUF, Paris, 2001.
Từ khóa » Học Thuyết Vòng đời Sản Phẩm Quốc Tế Của Vernon
-
Lí Thuyết Về Vòng đời Sản Phẩm (Product Life Theory) Là Gì? Các Giai ...
-
Lý Thuyết Về Vòng đời Sản Phẩm Là Gì? - VietnamFinance
-
Vòng đời Sản Phẩm Quốc Tế Là Gì? Các Pha Của ... - Luật Dương Gia
-
Lý Thuyết Về Vòng đời Sản Phẩm - Dân Kinh Tế
-
[PDF] Lý Thuyết Vòng đời Sản Phẩm Trong Hội Nhập Kinh Tế
-
Vận Dụng Lý Thuyết Về Vòng đời Quốc Tế Của Sản Phẩm - 123doc
-
LÝ THUYẾT VÒNG đời Sản PHẨM - Tài Liệu Text - 123doc
-
Lý Thuyết Vòng đời Sản Phẩm (product Life Theory) Là Gì ?
-
Lý Thuyết Chu Kỳ Sống Quốc Tế Của Sản Phẩm
-
[PDF] KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP - Zing
-
Hướng Đi Của Vòng Đời Sản Phẩm | Nhật Ký Chú Cuội
-
[PDF] Chương 5: Chiến Lược Sản Phẩm Quốc Tế
-
Cac Chiến Lược Kinh Doanh Quốc Tế
-
[PDF] MÔN HỌC: TÀI CHÍNH CÔNG TY ĐA QUỐC GIA ĐỀ TÀI: