Xã Hội Học Ngôn Ngữ Về Giới: Sự Kì Thị Và Sự Chống Kì Thị đối Với Nữ ...

Xã hội học ngôn ngữ về giới: Sự kì thị và sự chống kì thị đối với nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ (Phần II)

Khi đọc đầu đề bài báo “Doanh nhân, anh là ai?” bất giác ta tự hỏi rằng, sao không phải “Doanh nhân, chị là ai?” hay có một từ nào đó trung tính cho “cả anh và chị”!

2. Ngôn ngữ phản ánh sự thiên kiến đối với giới nữ trong xã hội

2.1. Thiên kiến về giới tính là một vấn đề xã hội đang tồn tại và được biểu hiện ở trong sử dụng ngôn ngữ dưới các tên gọi như: ngôn ngữ kì thị giới tính (sexist language); ngôn ngữ thiên kiến về giống (gender-biased language); ngôn ngữ loại trừ về giống (gender-exclusive language); v.v... Ngôn ngữ thể hiện thiên kiến đối với giới tính được hiểu một cách đơn giản là sự coi thường, hạ thấp vai trò của một trong hai giới so với giới kia được phản ánh trong ngôn ngữ. Sở dĩ nói "một trong hai giới” là vì, bấy lâu nay, khi nói đến thiên kiến về giới, người ta thường chỉ nghĩ đến nữ giới, nhưng nếu xuất phát từ tư liệu ngôn ngữ thì không hoàn toàn như vậy. Ví dụ, khi nghe phát ngôn "Ông ta trông thế mà lèm bèm như đàn bà", thì cụm từ “lèm bèm như đàn bà" biểu thị nghĩa khái quát với ý xem thường về một tính cách của nữ giới "nói năng không chững chạc, chỉ chú trọng đến những cái nhỏ nhen, vụn vặt” (tức là, đàn bà hay lèm bèm). Nhưng khi nghe phát ngôn "Cô ấy trông thì xinh mà sao ăn nói gì mà cục xúc như bọn đàn ông ấy!" thì cụm từ “cục xúc như bọn đàn ông” thể hiện sự "kì thị" đàn ông với việc gán cho cho giới mày râu một tính cách chung "dễ cáu bẳn, thô bạo, thô thiển” (tức là, đàn ông thường ăn nói cục cằn, thô lỗ). Nhưng có lẽ, trong một xã hội còn mang nặng tư tưởng "nam tôn nữ ti" (nam thì được trọng còn nữ thì bị xem thường), “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (sinh được một đứa con trai coi như là đã có con, còn sinh tới mười đứa con gái vẫn coi như chưa có con) thì sự tập trung lớn nhất vẫn là sự coi thường nữ giới và sự coi thường này đã được phản ánh trong ngôn ngữ.

2.2. Không chỉ trong các ngôn ngữ phương Đông- ngôn ngữ mang tải đặc trưng văn hoá phong kiến của các nước này mà ở cả các ngôn ngữ phương Tây, sự coi thường nữ giới cũng được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ.

Trước hết, ngôn ngữ phản ánh vị thế thấp của nữ giới so với nam giới trong cả gia đình và ngoài xã hội. Điều này còn lưu lại trong các phát ngôn của tiếng Anh. Chẳng hạn, một thời, trong tiếng Anh chỉ có thể hỏi "What does your husband do?" (Chồng bà làm gì?) chứ không có quyền hỏi "What does your wife do?" (Vợ ông làm gì?). Và, nếu hỏi "What does your wife do?" (Vợ ông làm gì?) thì lập tức sẽ nhận được câu trả lời là, "She’s my wife, that’s what she does" (Bà ấy là vợ tôi, đó là công việc mà bà ấy làm) [R. Lakoff, 1973].

Trong tiếng Anh, yếu tố man được nhắc đến nhiều nhất và được người ta gán cho sự điển hình của sự đề cao nam giới và hạ thấp nữ giới. Man xuất hiện với tư cách là yếu tố tạo từ của các các danh từ nghề nghiệp "dường như chỉ để cho nam và chỉ có nam mới có thể làm được" theo mô hình "x+man": spokerman "người phát ngôn", congressman "nghị sĩ", saleman "thương gia",chairman "chủ tịch",...Không những thế, man còn "lấn lướt" đến mức từ dùng để chỉ nữ:woman/women cũng phải có man/ men. Thậm chí có người phải thốt lên rằng, ngay trong câu mở đầu “Bản tuyên ngôn độc lập” của Mĩ (The Decraration of Independence) “All men are created equal” (Mọi người sinh ra quyền bình đẳng) thì men được dùng như mankind (con người-mà con người lại cũng là man!). Có thể thấy, man tham gia hàng loạt các hoạt động khác với nghĩa "con người, người": humanism, humanitarianism, humaness, everyman , a man of men/ means/office/... Trong khi đó, quan niệm về thiên chức làm mẹ, làm vợ và làm các công việc nội trợ gia đình hay công việc phục vụ đối với nữ đã "truyền từ đời này sang đời khác như một di sản thông qua ngôn ngữ" (Miller và Swift, 1980). "Di sản" đó bắt đầu từ đời sống gia đình nơi mà tiếng Anh gọi là man and wife chứ không phải là man and women. Phải chăng, vì thế mà, chẳng hạn như, dưới các bức tranh do phụ nữ vẽ bao giờ cũng phải là women pioneer (nữ hoạ sĩ). Việc thêm woman (women) vào trước pioneer hàm ý như là quy định phạm vi nghề nghiệp của phụ nữ vốn chỉ là houwife "bà nội trợ", còn nếu "lấn" sang công việc của đàn ông thì phải có thêm woman (women) như một cách "đánh dấu". Mối quan hệ giữa không đánh dấu (unmarked) đối với nam giới và đánh dấu (marked) đối với nữ giới thể hiện ở từ tiếng Anh là mối quan hệ không đối xứng (asymmetry): Các từ chỉ chức danh của nữ được tạo thành bằng "thêm" hậu tố vào các từ chỉ chức danh của nam. So sánh: prince (hoàng tử)/ pricess (công chúa); actor (diễn viên)/ actress (nữ diễn viên); poet (thi nhân)/ poetess (nữ thi nhân);ambasador (đại sứ)/ ambasadress (nữ đại sứ); hero (anh hùng)/ heroine (nữ anh hùng);v.v...Có thể dẫn ra từ tomboy của tiếng Anh làm ví dụ điển hình cho sự lưu giữ của ngôn ngữ về sự coi thường nữ giới: trong tiếng Anh, tomboy có nghĩa là "cô gái thích các trò thô bạo, ầm ĩ", tức là, những cô gái có cá tính của nam giới như thích phiêu lưu, mạo hiểm, chủ động hơn là thụ động. Nếu nhìn từ góc độ thiên kiến về giới thì những người con gái được gọi là tomboy có vẻ bất bình thường-"đàn ông tính". Đó là lí do giải thích vì sao, boy "con trai" lại tham gia vào tạo nên từ tomboy.

Nhìn vào các ngôn ngữ phương Đông như tiếng Hán, tiếng Việt cũng có tình hình tương tự. Nếu trở về với những cách nói trước những năm 80 của thế kỉ XX có thể thấy rõ điều này: Khi nhắc đến một chức danh nào đó người ta mặc nhiên hiểu đó là nam giới, còn nếu dùng cho nữ giới thì phải thêm yếu tố nữ ở trước. So sánh:

- bác sĩ doctor / nữ bác sĩ women/lady/female doctor;大夫/女大夫

- luật sư lawyer / nữ luật sư women/female lawyer;律师/女律师

- thẩm phán judge / nữ thẩm phán women judge;审判/女审判

- diễn viên actor / nữ diễn viên actress;演员/女演员

- đại sứ ambasador / nữ đại sứ ambasadress;大使/女大使

- anh hùng hero / nữ anh hùng heroin; 英雄/女英雄

Rõ ràng, điều này phản ánh những nghề này"đương nhiên là của nam", nếu có nữ tham gia là cá biệt. Trong khi đó, một số “nghề” nội trợ lại “đương nhiên là của nữ”, nếu nam tham gia thì cũng là cá biệt. So sánh:

- nurse hộ lí / male nurse "nam hộ lí”

- housewife [gia đình chủ phụ], bà nội trợ / male house wife [gia đình chủ nam], “ông nội trợ”

Tuy nhiên, hiện nay đã không còn thấy hoặc ít thấy yếu tố nữ xuất hiện trước các từ chỉ nghề nghiệp (có chăng chỉ mang tính nhấn mạnh, cá biệt). Thực tế này không chỉ phản ánh sự thay đổi quan niệm của xã hội mà phản ánh thực tế sự thay đổi về vị thế xã hội của nữ giới, sự tiến bộ xã hội ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc. Mặc dù vậy, các từ “hộ lí”, “bà nội trợ” ở trong đời sống tiếng Việt vẫn luôn thuộc về nữ giới (còn “nam hộ lí’, “ông nội trợ” thì chưa thấy xuất hiện!).

Phản ánh quan niệm trọng nam khinh nữ, có thể thấy cả những thiên kiến hẹp hòi và khắt khe đối với nữ giới còn in đậm trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong tiếng Anh chỉ có sự phân biệt cách gọi đối với người phụ nữ chưa chồng (Miss) và có chồng (Mirs), trong khi đó thì phái nam lại không có sự phân biệt này (Mr). Trong các ngôn ngữ ở phương Đông như tiếng Hán, tiếng Nhật, tiếng Việt,...chỉ có tiết phụ (người đàn bà thủ tiết khi chồng chết) mà không có tiết phu (người đàn ông thủ tiết khi vợ chết); chỉ có từ ghép "goá phụ/quả phụ " (người phụ nữ chết chồng) mà không goá phu/quả phu ( người đàn ông chết vợ); chỉ có trinh nữ (người con gái còn trinh trắng) mà không có trinh nam (người đàn ông còn trinh trắng) [trong tiếng Việt có cách nói khác: “gái tân “và “trai tân chỉ người chưa kết hôn];... Cũng vậy, sự coi thường nữ giới thể hiện cả tong cảm thức ngôn ngữ. Ví dụ, khi nghe phát ngôn “He is a bachelor/spinster” (Anh ấy là người độc thân) thì là "chuyện bình thường", nhưng nếu nói “She is a spinster” (Cô ấy là người đọc thân) thì như có ý lăng nhục. Lí do "đánh dấu" cho phụ nữ về cuộc sống hôn nhân đã được giải thích rằng, đây là sự biểu hiện rõ quan niệm "đàn bà là sở hữu của đàn ông bao gồm cả tư cách là chồng hay là cha". Điều này càng thể hiện rõ hơn khi người phụ nữ trong xã hội Việt Nam trước đây (và vẫn còn có thể bắt gặp ở một số vùng nông thôn hiện nay) lấy tên của chồng để gọi thay cho tên của mình (vợ). Cũng vậy, cách gọi tên con trai là trưởng nam thay cho tên của bố, mẹ cũng là một biểu hiện của "quyền uy” đàn ông. Ví dụ, trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, dường như cái tên “Đào” chỉ xuất hiện một hai lần khi đọc "bạ tịch", còn đâu tất cả đều được gọi là Dậu (tên của chồng). Trong tiếng Việt, chỉ có cách gọi bà giáo(gọi người đàn bà mà có chồng làm nghề dạy học), bà nghè (gọi người đàn bà mà có chồng "có học vị ông nghè"), bà lí (gọi gười đàn bà mà có chồng làm lí trưởng), nhưng lại không có cách gọi ngược lại (như "ông giáo" khi vợ là giáo viên, ‘ông tiến sĩ” khi vợ là tiến sĩ,...). Vì thế mà những cách gọi như“bà chủ tịch”, “bà tiến sĩ” hiện nay có thể có hai cách hiểu: 1/ người phụ nữ ấy đang đảm nhận chức vụ chủ tịch; là tiến sĩ; 2/ người phụ nữ ấy là vợ của ông chủ tịch, là vợ của ông tiến sĩ). Đây cũng là dấu ấn của sự thiên kiến trong nghề nghiệp đối với nữ giới. Ở các ngôn ngữ Ấn Âu cũng có những dấu ấn này ( ví dụ, phản ánh trong việc người phụ nữ khi xuất giá, thì đổi họ theo họ của chồng...). Có thể dùng một câu tiếng Hán khá quen thuộc với người Việt để khái quát “dấu ấn” về vai trò của phụ nữ trong mối quan hệ với nam giới trong gia đình được thể hiện trong ngôn ngữ, đó là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử “ (khi chưa đi lấy chồng thì phải nghe theo cha, khi đi lấy chồng-làm vợ thì phải nghe theo chồng, khi chồng chết rồi thì phải nghe theo con trai).

Sự coi thường nữ giới phản ánh trong ngôn ngữ còn thể hiện ở sự "lấn lướt" của các đại từ ngôi thứ ba he, him, his, himself vốn là chỉ dùng cho nam (còn she, her, hers là dùng cho nữ) nhưng lại được sử dụng một cách trung tính (cho cả nam và nữ). Ví dụ:

He laughs best who laughs last (Ai cười sau cùng người ấy cười tốt nhất; Cười người chớ vội cười lâu/ Cười người hôm trước hôm sau người cười). Trong câu này, he dùng cho cả nam lẫn nữ.

Everybody does his bit (Ai cũng đều cố gắng làm hết bổn phận của mình). Trong câu này đã dùng his mà không phải hers.

Everyone knows what’s best for him (Mỗi người đều biết cái gì tốt nhất cho bản thân). Trong câu này đã dùng him mà không phải là her.

When a baby cries, it mean that he is tired or hungry.

(Khi đứa trẻ khóc có nghĩa là nó bị mệt hoặc bị đói). Trong câu này đã dùng he mà không phải là she.

Trong tiếng Việt sự chú ý tập trung vào các từ như cậu, hắn, thằng, hắn,...vốn là dùng cho nam nhưng được dùng cho cả nam và nữ. Ví dụ, trong phát ngôn "Cậu có đi chơi với mình nhé?" thì cậu được dùng cho cả nam và nữ. Từ thằng trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa là "từ dùng để chỉ từng cá nhân người đàn ông, con trai thuộc hàng dưới hoặc ngang hàng, với ý thân mật hoặc không tôn trọng" nhiều khi trong cách nói khẩu ngữ lại được dùng trung tính cho cả nam và nữ (Bây giờ đến luợt thằng nào ? được dùng trong cuộc chơi có cả nam và nữ). Trong khi đó, tương đương nghĩa với thằng để dùng cho nữ, trong tiếng Việt có từ con (và tạo nên tổ hợp ghép thằng con [nào]...), nhưng con chỉ được dùng cho nữ mà thôi. Có thể tìm thâý cách dùng tương tự với các từ khác như thầy giáo/ thầy (dùng cho cả cô giáo và thầygiáo); anh ta luôn được dùng với nghĩa trung tính (Ví dụ: Đứng trước một vấn đề như vậy, anh ta phải tự chọn cho mình một giải pháp an toàn). Khi đọc đầu đề của một bài báo về ngày doanh nhân Việt Nam “Doanh nhân, anh là ai?” chúng tôi chợt nghĩ rằng, sao lại không thể ghi “Doanh nhân chị là ai?” và liệu có thể tìm một từ nào trung tính hơn?

Nhấn mạnh sự coi thường nữ giới được phản ánh trong ngôn ngữ còn phản ánh ở chỗ, bất cứ một sức mạnh tiêu cực hay đáng sợ nào cũng đều có tên phụ nữ. "Những thái độ chướng mắt, coi thường và ghê tởm đối với bản năng giới tính của phụ nữ đã tạo nên một vốn từ vựng khổng lồ mang tính đối xử chống phụ nữ mà không có từ điển nào có thể liệt kê hết" (Dunn và Miller). Ví dụ, các trận cuồng phong đều được đặt tên phụ nữ: Hazel (1954), Diane (1955),Audrey (1957), Flora (1963), Cleo (1964), Hilda (1964), Dora (1964), Betsy (1965), Carol(1965), Edna (1968), Agnes (1972), Gloria (1985), Janet (1995), Marilyn (1995), Joan (1988),Diana (1990), Fran (1996), Allison (2001), Iris (2001), Lili (2002), v.v...Cũng theo Dunn và Miller, khoảng cuối thế kỉ XIX, nhà khí tượng học người Australia tên là Clement Wragge đã lấy tên của phụ nữ để đặt cho tên của cơn bão từ. Giải thích điều này, Dunn và Miller cho rằng, Clement Wragge đã lấy tên một nhân vật chính trị mà ông ấy không thích. Do vậy, dùng tên của nhân vật chính trị kia để đặt tên cho cơn bão là nhằm công khai mô tả nhân vật chính trị đó là người "gây nên sự túng quẫn" (as "causing great distress") hay " lang thang có mục đích khắp Thái Bình Dương" (wandering aimlessly about the Pacific"). Việc sử dụng tên của phụ nữ để đặt cho các cơn bão đã được mô tả trong cuốn tiểu thuyết "Cơn bão" ( Storm) của G. R. Stewart do nhà xuất bản Ranson xuất bản năm 1941: "Trong suốt Đại chiến thế giới II, tên của phụ nữ đã được sử dụng rộng khắp trong các cuộc bàn luận về vẽ bản đồ thời tiết, trong các dự báo thời tiết, đặc biệt là các nhà khí tượng không quân và hải quân khi vẽ biểu đồ về sự di chuyển của các cơn bão ở vùng biển Thái Bình Dương" .

Có thể làm sáng tỏ thêm nội dung vừa nêu trong chữ Hán.

Chữ Hán là chữ tượng hình. Vì thế có thế thấy đặc điểm thiên kiến về giới trong chữ viết. Ví dụ, hai chữ nữ 女và nam 男. Chữ nữ 女 là chữ tượng hình, mô tả “người con gái ngồi quỳ, hai tay đặt trước ngực”. Đó là cách ngồi của phụ nữ Trung Quốc thời xưa và cũng là tính cách của phụ nữ qua chữ viết: khiêm tốn và nép mình.

Chữ nam 男là chữ tượng hình, là do hai chữ ( chính xác là bộ) điền 田và lực 力hợp thành:Điền 田là ruộng, hình chữ trông như bốn mảnh ruộng ghép vào nhau (thực ra chữ này đã giản hoá đi nhiều, Giáp cốt văn có tới 12 ô, từ Kim văn trở đi được giản hoá thành bốn ô). Lực 力 là nông cụ cày xới đất, chính là “cái cày ( chữ Kim văn trông như hình cái cày) và muốn cày được phải có sức, nên sau này lực力 vốn nghĩa là cái cày đã chuyển nghĩa thành “sức, sức lực, sức mạnh”. Như vậy, có thể thấy, cày cuốc (việc đồng áng) là công việc nặng nhọc nên chỉ có nam mới đảm nhận được. Đó là nam: sức mạnh và quyền lực.

Nhưng điều đáng lưu ý là, trong hàng loạt các chữ Hán có bộ nữ 女thì có thể thống kê được những từ mang nghĩa thấp hèn, xấu xa, đáng ghét. Ví dụ: 奴 (nô: nô lệ), (tì: người hầu, nô tì), 奸(gian: không thật thà, gian giảo), 妄(vọng: hão huyền, ngông cuồng, cuồng vọng), 娼(xướng: kĩ nữ, gái điếm),(lam: tham, tham lam), 妖(yêu: yêu quái), 嫉 (tật: đố kị, ghen ghét),妓(\kĩ: kĩ nữ, gái điếm),妒 (đố : đố kị, ghen ghét), 耍 (xoạ: giở trò), 怒 (nộ: cáu, khùng, nộ khí, phẫn nộ),。。。

Chữ "Nữ" trong tiếng Hán

Có thể thấy, cùng với sự khác nhau về sử dụng ngôn ngữ giữa nam và nữ để làm nên "phong cách ngôn ngữ nữ giới" và "phong cách ngôn ngữ nam giới" thì ngôn ngữ còn phản ánh những thiên kiến về giới tính. Lần giở về lịch sử loài người cho thấy, với hai giai đoạn mẫu hệ và phụ hệ, dường như đây là sự phân công xã hội: ở giai đoạn mẫu hệ, phụ nữ đóng vai trò quyết định và địa vị của nữ là địa vị chi phối. Cùng với sự phát triển của xã hội, xã hội phụ hệ đã thay thế xã hội mẫu hệ. Với những công việc có khả năng tạo ra nhiều của cải vật chất, vị thế của người đàn ông ngày một nâng cao. Cùng với đó, giành hầu hết thời gian cho việc sinh con đẻ cái và công việc gia đình, vị thế của người phụ nữ đã chuyển từ địa vị chi phối sang bị chi phối. Tất cả những biến đổi xã hội đã được phản ánh trong ngôn ngữ. Đây là lí do tạo nên mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính: ngôn ngữ là dữ liệu để nghiên cứu giới và giới là nhân tố xã hội (nhân tố ngoài ngôn ngữ) để giải thích các hiện tượng ngôn ngữ có liên quan đến hay chịu tác động của giới. Từ đây, dẫn đến một vấn đề thứ hai: vậy, muốn chống (hay xoá bỏ) thiên kiến đối với nữ nhằm góp phần bình đẳng nam nữ thì có cần phải chống (xoá bỏ) ngay cả trong sử dụng ngôn ngữ hay không? và liệu có chống (xoá bỏ) được không và chống (xoá bỏ) bằng cách nào?

(Còn nữa)

Từ khóa » Giải Nghĩa Lèm Bèm