XUÂN Với TRUYỆN KIỀU * - Noi Voi Ngan Sau ...

Dec 01, 2024 log in
home
thơ
danh sách tác giả
nhạc
truyện ngắn
biên khảo,phê bình
điểm sách
phỏng vấn
quan điểm
sinh hoạt văn học
ban biên tập
tìm kiếm
thư tín
giới thiệu sách báo
Biên khảo, Phê bình
XUÂN với TRUYỆN KIỀU
Hải Bằng HDB - đăng lúc 02:08:17 AM, Feb 09, 2005 Thi Hào Nguyễn Du đã sử dụng bao nhiêu từ xuân trong Truyện Kiều?(Riêng tặng các bạn trẻ nặng tình với văn học dân tộc.)- Hải Bằng.HDB*Ai cũng đều biết: qua hết cảnh mùa đông lạnh lẽo, hoang vu, mùa xuân hiện ra lộng lẫy, huy hoàng với những tia nắng rực rỡ, bầu trời trong xanh, chim hót tưng bừng, cây cối lại đâm chồi, nẩy lộc, đơm hoa, và lòng người lại cảm thấy trẻ trung, sảng khoái. Vâng, xuân chính là thời điểm của thiên nhiên trong đó sức sống của vạn vật lại bừng lên bắt đầu một chu kỳ mới với tất cả những vẻ đẹp huyền nhiên của nó từ thuở nào. Và, ai cũng yêu mùa xuân vì mùa xuân là mùa gợi cảm nhất. Trong văn chương Việt, không biết bao nhiêu nhân vật đã viết về Chúa Xuân.Xuân Diệu, trong bài “Nguyên Ðán” ví tình yêu như mùa xuân:Xuân của đất trời nay mới đếnTrong tôi xuân đã đến lâu rồiTừ lúc yêu nhau hoa nở mãiTrong vườn thơm ngát của hồn tôiNhà thơ Ðông Hồ trong bài “Cô Gái Xuân” dài 68 câu, thi nhân đã dùng tới 12 chữ “xuân”:Trong xóm làng trên, cô gái thơTuổi xuân mơn mởn vẻ đào tơGió đông mơn trớn bông hoa nởLòng gái xuân kia vẫn hững hờNguyễn Bính là nhà thơ tình được nhiều người ưa chuộng, cũng trong thập niên ấy, qua bài “Thơ Xuân”, viết:Ðây cả mùa xuân đã đến rồi!Từng nhà mở của đón xuân tươiTừng cô em bé so màu áoÐôi má hồng lên nhí nhảnh cườiNhà thơ nghèo, trào phúng Tú Xương với bài “Xuân”, mô tả:Xuân từ trong ấy mới ban raXuân chẳng riêng ai, khắp mọi nhàDám hỏi những ai nơi cố quậnRằng xuân, xuân mãi thế ru mà?Xuân Giáp Thân (2004), nhà thơ Trần Khắc Phùng viết trong bài “Mùa Xuân và Quê Hương” (Giai Phẩm Xuân, Florida Việt Báo, trg. 137):Ta hỏi mùa xuân đã đến chưaCòn bao đêm nữa đến giao thừaCòn bao đêm nữa trời rung chuyểnÐể khắp quê hương gió đổi mùaRiêng đối với thi hào Nguyễn Du (1765-1820): qua 3254 câu thơ của Truyện Kiều, nhà thơ đã sử dụng tới 57 từ “xuân”. Tính trung bình thì cứ 60 câu thơ lại thấy xuất hiện từ “xuân”. Dường như chưa có một tác giả cổ, kim, đông, tây nào đã sử dụng từ “xuân” trong một tác phẩm văn vần hay văn xuôi nhiều đến như thế, và đặc biệt là nhiều mà không nhàm. Mỗi từ “xuân” được nhà thơ sử dụng cho một tình huống khác nhau. Và, hẳn là Nguyễn Du phải đã yêu Nàng Xuân (Xuân Hương?) lắm nên ngọn bút tài tình đã linh động thảo nên những xuân tứ muôn vẻ tuyệt vời qua những câu thơ trích dẫn sau đây:Trước hết, xuân là thời điểm đẹp nhất trong bốn mùa:Ngày xuân con én đưa thoiChị em sắm sửa bộ hành chơi xuânÐêm xuân một giấc mơ màngGiọt sương gieo nặng cành xuân la đàNgày xuân đã dễ tình cờ mấy khiNgày xuân càng gió, càng mưa, càng nồngÐêm xuân ai dễ cầm lòng được chăngCòn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màngThúy Vân chợt tỉnh giấc xuânChiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùngThưa hồng, rậm lục, đã chừng xuân quaSầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuânXuân, thu cắt sẵn hai tên hương tràCửa thuyền vừa cữ cuối xuânXuân, thu biết đã đổi thay mấy lầnXuân để mô tả về tuổi trẻ sung mãn, dung mạo xinh đẹp, và hình ảnh vui tươi:Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kêLàn thu thủy, nét xuân sơnMột chàng vừa trạc thanh xuânNửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hươngXuân, lan; thu, cúc, mặn mà cả haiCũng liều bỏ quá xuân xanh một đờiNhững mình nào có biết xuân là gì!Tin xuân đâu dễ đi về cho năngTiếc hoa những ngậm ngùi xuânLòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàngNgày xuân em hãy còn dàiNgày xuân lắm lúc đi về với xuânBốn bề xuân tỏa một nàng ở trongKhóa buồng xuân để đợi ngày đào nonCát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanhChữ tình ngày lại thêm xuân một ngàyTrai tài, gái sắc, xuân đương vừa thìVương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngàyPhòng xuân trướng rủ hoa đàoDưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuânChừng xuân tơ liễu còn xanhKhúc đâu êm ái xuân tìnhVườn xuân một cửa, để bia muôn đờiXuân còn được dùng để chỉ người thuộc phái đẹp:Một nền Ðồng Tước khóa xuân hai KiềuLượng xuân dù có hẹp hòiXuân đường kíp gọi Sinh về hộ tangGối yên đã thấy xuân đường đến nơiLại vừa gặp khoảng xuân đường lại quêLiệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuânRạng ra gởi tới xuân đườngXuân đình thoắt đã dạo ra cao đìnhCỗi xuân tuổi hạc càng caoXót thay huyên cỗi, xuân giàXuân huyên chợt tỉnh giấc nồngXuân huyên lo sợ xiết baoXuân già còn khỏe, huyên già còn tươiTrước lầu Ngưng Bích khóa xuânCành xuân đã bẻ cho người chuyên tayChúa xuân đành đã có nơiChúa xuân để tội một mình cho hoa (57)Tại sao Nguyễn Du đã sử dụng từ xuân nhiều như thế? Có một động cơ nào khác ngoài cái tình chan chứa yêu thiên nhiên? Có người nói đến mối tình văn bút của nhà thơ đối với nữ sĩ Xuân Hương. Người nghệ sĩ tài hoa nào mà không có những rung động trước những vẻ đẹp ố sắc, tài ca, ngâm, thi văn đặc biệt là của nữ giới?Nhưng trước hết tưởng cũng nên trở lại tìm hiểu Nguyễn Du là ai bởi vì các tài liệu mới tìm ra được trong vài thập niên gần đây đã cho ta hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ thiên tài này mà các tài liệu giáo khoa còn ghi nhận sơ sài, chẳng hạn, mối giao lưu văn bút đầy tình cảm giữa ND với Nữ Sĩ họ Hồ; những sự vụ liên quan đến cuộc hành trình đi sứ ; và ND lập gia đình vào năm 1786 hay 1796, cùng với từ Tố Như có đúng là tên tự hay chỉ là một từ ngữ thông thường như nhà biên khảo Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh lập luận trong cuốn Hồ Xuân Hương, Nàng là Ai (xb: 2000).Nguyễn Du (1765-1820, Bích Câu, Thăng Long) vốn dòng dõi gia đình khoa bảng. Cha là Nguyễn Nghiễm (Tiên Ðiền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) và anh là Nguyễn Khản đều đỗ tiến sĩ làm quan với Triều Lê mạt; bố vợ là Ðoàn Nguyễn Thục (Quỳnh Côi, Thái Bình). Bản thân ND thì thuở nhỏ được sung sướng và được tập ấm và gọi là Cậu Bẩy Chiêu nhờ cha là Tể Tướng trong triều Lê. Nhưng chẳng bao lâu thì cha mất (1775), rồi mẹ cũng mất (1777) đúng vào thời điểm Nguyễn Huệ đem quân đánh Gia Ðịnh giết Nguyễn Phúc Dương và Nguyễn Phúc Thần. Cuộc sống phải nương tựa nơi nhà các anh và ND chỉ thi đậu Tam Trường (Tú Tài) lúc 18 tuổi (1782), nhưng tài nghệ văn chương thì vượt trội các nhân tài đương thời. Năm 1786, ND giữ chức Chánh Thủ Hiệu tại Thái Nguyên (thời Chúa Trịnh) và có lẽ đã lập gia đình vào thời gian này (1786: 22 tuổi). Vì dòng họ có người chống lại Nhà Tây Sơn nên cơ nghiệp họ Nguyễn Tiên Ðiền bị tiêu tán: “Hồng Lĩnh vô gia, huynh đệ tàn”. Cho tới khi Vua Gia Long thống nhất, ND được vời ra làm quan năm 1809 (44 tuổi), lãnh chức Cai Bạ (ngang với Bố Chánh sau này) tại dinh Quảng Bình. Năm 1813, ND được thăng Cần Chánh Ðại Học Sĩ và được cử đi sứ Trung Hoa. Năm 1815 ND được thăng Hữu Tham Tri Bộ Lễ. Năm 1820, vua Minh Mạng nối ngôi Gia Long, ND lại được cử làm chánh sứ sang Trung Hoa cầu phong. Chưa đi được thì ND qua đời vì bạo bệnh, thọ 55 tuổi và an táng tại cánh đồng Bầu Ðá, xã An Ninh, Quang Ðiền, Thừa Thiên. Năm 1824, con trai của ND là Nguyễn Ngũ dời mộ ND về Tiên Ðiền, Nghi Xuân, Nghệ Tĩnh.Tóm lại, vì tao loạn và gia đình sa sút: “Mười miệng đói kêu ngoài cõi Bắc; Một mình bệnh rụi góc thành Nam”, ND đã không thể hoàn thành sự nghiệp thi cử như ý muốn. Cái mặc cảm phải ăn nhờ, ở đậu cộng với sự thua kém về khoa bảng và nghịch cảnh phải làm quan với một triều chính ông không quy phục tất đã khiến cho một con người tài hoa, thông đạt Phật, Lão, Khổng học như ND, không thể không mang một tâm sự đầy u uất và tất phải mượn ngòi bút, câu thơ để giãi tỏ tấm lòng. Thật là: “Vui là vui gượng kẻo là. Ai tri âm đó mặn mà với ai?” Và, vào thời tao loạn đó, cái chí hướng của ND có thể không chỉ đóng khung trong con đường làm quan mà có thể là còn mơ xa nữa khi muốn “Chi bằng riêng một biên thùy. Sức này đã dễ làm gì được nhau?” Và Truyện Thúy Kiều của ND là một đại kiệt tác trong đó biểu lộ tài nghệ vượt bực của ND về tả cảnh, tả tình, tả người, tả tâm lý, biện bác, và những kiến thức sâu rộng về triết lý và đạo đức. Trải qua gần 300 trăm, Truyện Kiều là một tác phẩm phổ cập nhất trông dân gian dưới nhiều hình thức như: giáo khoa, ca ngâm, kiều lẩy, tuồng, phim, tranh Kiều, tập Kiều (chắp nhặt những câu thơ trong Kiều thành một bài thơ. Coi “Hoa Xuân” trong phần Phụ Lục ở cuối bài). v.v. Người ta thường nhắc lại hai câu trong bài “Ðộc Ký Tiểu Thanh” của NDBất tri tam bách dư niên hậuThiên hạ hà nhân khấp Tố NhưKhông biết ba trăm năm hậu thếCó người thương khóc Tố Như chăng?Người khóc hẳn đã có. Nhưng giờ đây, vẫn khóc vì đã lâu rồi, áng thơ làm rạng danh văn học Việt Truyện Kiều đã không còn được đem ra bình giảng rộng rãi trong các hoc đường và ngày một trở nên xa lạ với tuổi trẻ.Trong quãng đời từ 20 tuổi đến 40 tuổi, ND đã từng giao lưu văn bút đặc biệt là với những kỳ nữ trong đó có Hồ Xuân Hương. Nhưng trước hết xin nhắc tới kỹ nữ gẩy đàn mà ND đã được gặp mặt và nghe tiếng đàn khi ở nhà anh là Nguyễn Nễ đang làm quan với nhà Tây Sơn khoảng năm 1793. Hai mươi năm sau, năm 1813, nhân chuyến đi sứ, ND có dịp trở lại Thăng Long, nghe được tiếng đàn xưa, và nhận ra người gẩy đàn chính là kỹ nữ tài sắc ngày xưa. ND ngậm ngùi vì thấy sắc đẹp một thời của kỹ nữ từng làm lung lạc người nhìn nay đã tàn phai. Tố Như tiên sinh đã cảm tác ra bài “Người Gẩy Ðàn Ðất Long Thành” với ghi chú: “Người ta trong cõi trăm năm, những vinh, nhục, buồn, vui thật khôn lường được. Sau khi từ biệt nàng, trên đường đi, cảm thương vô hạn, nên làm bài ca này để ghi lại mối cảm hoài sâu xa.” Trích vài câu như sau:Tuổi hăm mốt nõn nà, lộng lẫyGió xuân êm hây hẩy hồng đàoMen tô duyên não nùng saoNỉ non tiếng thấp, tiếng cao tuyệt vờiÐặc biệt với Hồ Xuân Hương, theo tài liệu biên khảo của Tiến Sĩ Phạm Trọng Chánh, thì ND đã viết cho nữ sĩ XH 6 bài, còn XH viết cho ND 14 bài. Nhưng XH thực sự là ai? Rất có thể đã có người ngụy tạo thơ gán cho bà để trêu chọc khiến cho chuyện về người nữ sĩ tài ba chữ Nôm ấy như muốn trở thành huyền thoại.Thực sự nếu XH đã khóc chồng là ông Phủ Vĩnh Tường bị án tử hình với câu:Cán cân tạo hóa rơi đâu mấtMiệng túi càn khôn thắt lại rồiVà nếu thật sự XH quyết định “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung; kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” để chấm dứt cuộc sống làm lẽ đầy hẫm hiu với Tổng Cóc bằng những câu:Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!Thiếp bén duyên chàng có thế thôiNòng nọc đứt đuôi từ đây nhéNghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôiThì XH phải là người tài, có nhan sắc, và thích nói thẳng. Chẳng hạn, với vài chàng văn dốt mà XH gọi là ngọng:Một đàn thằng ngọng đứng xem chuôngNó bảo nhau rằng “ấy ái uông”Và XH cũng lấy làm tiếc cho phận làm đàn bà của mình:Ví đây đổi phận làm trai đượcThì sự anh hùng há bấy nhiêu?Vì thế, không lạ gì mối giao lưu tình cảm văn bút giữa ND và XH đã thật là thắm thiết:ND viết: “Tây Hồ vươn cảnh đã hoang vu”XH đáp: “Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa”XH viết: “Cây có vầng xanh tỏ tấm lòng”ND đáp: “Một vầng trăng sáng tỏ tình ta”Vâng, XH phải là người vừa có tài, có sắc, vừa đáng kính nể nên ND mới hạ bút viết:Hái sen chớ đụng ngóNăm sau hoa chẳng sinhRõ ràng hai nhà thơ đã “mến nhau vì sắc, trọng nhau vì tài” và cả hai đều là những nhà thơ lãng mạn tiền phong của nền văn học Việt ở thế kỷ 18. Nhưng cũng chính cái tính chất lãng mạn trong thơ của ND cũng như của Hồ Xuân Hương không mấy làm hài lòng các nhà nho bảo thủ đương thời, nên đã có câu:Ðàn ông chớ đọc Phan TrầnÐàn bà chớ đọc Thúy Vân, Thúy KiềuTóm lại, Hồ Xuân Hương, theo những tài liệu và lập luận của Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn và Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh, không phải là một nhân vật huyền thoại trong văn học. HXH có tên là Hồ Phi Mai mà Nguyễn Du rất ngưỡng mộ tài sắc và ví HXH với hoa sen tươi đẹp, và so sánh HXH với Tiểu Thanh qua bài “Ðộc Tiểu Thanh Ký” , một người đẹp trong tiểu thuyết Tầu. Nguyễn Du đã để lại cho đời tác phẩm bất hủ ố Truyện Kiều. Con người tài hoa ấy chẳng gặp thời tất phải bất đắc chí. Hồ Xuân Hương cũng để lại nhiều áng thơ nôm đa dạng trào lộng tuyệt vời. Số phận cả hai cùng đầy nỗi truân chiên. Cả hai cuộc đời ấy đã diễn ra như để minh chứng thuyết “tài mệnh tương đố” hay “hồng nhan đa truân” của nhà nho ngày trước mà ND đã nêu ra trong câu thơ khai đề của Truyện Kiều:Trăm năm trong cõi người taChữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhauCon người có số mệnh không? Ðiều này thuộc phạm vi tin hay không tin mà thôi. Tuy nhiên, thực tiễn nhất trong đời vẫn là con đường Trung Ðạo:Có trời mà cũng có taChữ tâm kia mới bằng ba chữ tàiNguyễn Du đã tỏ ra yêu mùa xuân, nhắc nhở vô vàn tới xuân, âu cũng có thể là vì cuộc đời của con người thi sĩ tài hoa ấy trải qua đã chẳng có những mùa xuân như ý muốn. Hải Bằng HDB*Phụ LụcHOA XUÂN(Tập Kiều)- Ðào Nguyên (VA)*Ngày xuân con én đưa thoiCành lê trắng điểm một vài bông hoaChơi hoa đã dễ biết hoaSầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuânDưới đèn tỏ rạng chén xuânHoa xuân ong củ mấy phân chung tìnhChừng xuân tơ liễu còn xanhBóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trờiNgày xuân em hãy còn dàiPhẩm đề xin một vài lời thêm hoaXuân thu cắt sẵn hương tràThềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàngÐêm xuân một giấc mơ màngDưới hoa đã thấy có chàng đứng trôngÐêm xuân ai dễ cầm lòngThang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoaCửa sài vừa ngỏ then hoaXuân đình thoắt đã dạo ra cao đìnhKhúc đâu êm ái xuân tìnhTrên đào nhác thấy một cành kim thoaNặng lòng xót liễu vì hoaMười phần xuân có gầy ba bốn phầnVinh hoa bõ lúc phong trầnChữ tình ngày một thêm xuân một ngày(Cỏ Thơm, 2004, # 26, trg. 45)* Coi: Hồ Xuân Hương, Nàng là Ai của Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh, xb. 2000. Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang. Thổn thức bên trong mảnh giấy tàn. Son phấn có thần chôn vẫn hận. Văn chương không mệnh đốt còn vương. Nỗi hờn kim cổ, trời khôn hỏi. Cái án phong lưu, khách tự mang. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa. Người đời ai khóc Tố Như Chăng? (Vũ Tam Tập dịch nôm).
Created by Hiep Nguyen, Sept. 2003
vietbang.com Đóng lại

Từ khóa » Chừng Xuân Tơ Liễu Còn Xanh