Ý Nghĩa Của áo Lục Thù - Toàn Thua
Có thể bạn quan tâm
Chọn loại hàng
(ví dụ: màu sắc, kích thước)
Chất liệu
Vải Gấm đẹp,
Vải Phi bóng,
Vải Thường
Chi tiết sản phẩm
Gửi từ
LƯỢC GIẢI ĐẠI PHẬT ĐÃNH TỸ LÔ GIÁ NA QUANG MINH THẦN CHÚ √ Tiêu trừ nội chướng √ Tiêu trừ thần trùng, ngày giờ xấu √ Xa lìa cảnh giới địa ngục, ngã quỷ, súc sanh. Thần chú tỳ lô quán đãnh này rất có công năng tiêu trừ diệt tội, từ khổ ngày giờ xấu, tiêu trừ thần trùng áp đảo các cung xấu. Khi sử dụng bộ đồ tỳ lô ngày gia chủ nhờ Quý Thầy chú nguyện hoặc gia chủ thành tâmđọc niệm cho đủ số biến với tâm chí thành, tất nhiên Bộ đồ sẽ có oai lực giúp cho người đã mất được lợi lạc và siêu thoát. ÁN A MÔ - GIÀ VỈ LÔ - TÃ NẴNG - MA HẠ MẪU - NẠI RA MÔ NỈ - BÁT NẠP MA - NHẬP PHẠ LÃ - NHẬP PHẠ LÃ - BỐC LAI BỆ ĐA DÃ HỒNG (180 lần) Bộ sản phẩm gồm: - 1 mũ - 1 đôi tất chân - 1 áo dài - 1 mền Quang Minh - 1 khăn che mặt - 1 tờ hướng dẫn mô tả sản phẩm Chất liệu: Vải gấm / Vải Phi / Vải thường (bấm vào chữ "thêm vào giỏ hàng" để xem giá cho từng loại) Quy cách: 1 x Bộ Lục thù Phân phối tại: Văn hóa phẩm Phật giáo Tâm An Địa chỉ: TT Xuân Mai Chương Mỹ Hà Nội Tel: 0984 226 995
Xem tất cả
quynhanh386
Mua đồ của shop lần thứ hai rồi, nói chung mọi thứ okie, cảm ơn shop!
2022-01-11 23:15
july_phuongtrinh
Đã nhận được hàng. Shop uy tín. Giao đủ số lượng. Đánh giá chỉ mang tính chất kiếm xu
2022-03-12 02:20
nglinh4993
2021-12-10 12:33
Mua ngay
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 4, TG.2011, tr.65-68; tr.78-80; tr.114-117; tr.161-165)link sách: ĐVXP, tập 4
1.- BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI
Hỏi: Kính thưa Thầy! Bản thể tuyệt đối là gì? Người xả tâm sạch, có phải đạt được bản thể tuyệt đối hay không? Thỉnh Thầy chỉ dạy cho con được rõ.
Ðáp: Với trí hữu hạn của con người, mà đòi hiểu bản thể tuyệt đối của vạn hữu, cũng như dùng mắt thường mà muốn tìm thấy vi trùng trong ly nước. Do đó, cả thế gian hiện giờ, người ta xây dựng bản thể tuyệt đối bằng “tưởng tri”.
Bởi vậy, con người với trí hữu hạn không hiểu, lại không chịu không hiểu, rồi dùng tưởng tri để hiểu, nên hiểu sai tất cả, mà cứ ngỡ rằng mình là hiểu đúng, rồi đem truyền dạy cho người khác cũng hiểu như vậy. Từ đó thế giới tưởng thành hình, mọi người ai cũng tôn thờ và cung kính, xem như một thế giới vĩnh hằng bất biến của loài người.
Người xả tâm sạch, không phải đạt được bản thể tuyệt đối, mà chỉ mới làm chủ tâm mình (ly dục ly ác pháp). Ðối với đời sống hằng ngày, không còn phiền não đau khổ, thương, ghét, giận hờn, hận thù, v.v…
Trong bốn cái khổ của kiếp người, họ mới làm chủ được một cái, trên đường đi đến cứu cánh giải thoát, họ còn phải tu tập nhiều nữa.
Bản thể tuyệt đối, do các tôn giáo khác tưởng ra như: Ðại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Bà La Môn, v.v... Riêng đạo Phật biết đó là tưởng tri của loài người và của các tôn giáo khác, nên Ngài nhắm vào mục đích khác, để giải quyết bốn nỗi khổ của kiếp người “sanh, già, bệnh, chết”.
Sau khi giải quyết bốn cái khổ của kiếp người xong thì đức Phật xác định: “sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc làm đã làm xong, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Ðến đây nếu ai có hỏi: Còn có cái gì không? Nếu nói còn, tức là chấp thường, chấp ngã, nếu nói không thì chấp đoạn. Bởi vì, trí hữu hạn của con người, đừng nên hiểu xa hơn, mà chỉ biết tu tập như thế nào để thoát khổ của đời người là hạnh phúc lắm rồi. Theo mục đích của đạo Phật là như vậy, còn tìm hiểu thêm thì hiểu sai và hiểu sai thì lại sanh ra chấp đắm, tạo nhiều điều đau khổ và còn đau khổ nhiều hơn. Vì chính hiểu sai (vô minh) sự vật, nên đã lầm chấp thế giới hữu hình và thế giới vô hình là thật có, vì thế mới tạo ra muôn vàn đau khổ cho nhau.
Bây giờ đã thoát khổ mà lại hỏi, còn có khổ hay không thì thật là điên đảo. Không còn chỗ nói được, đã giải thoát hết kiếp khổ của đời người mà hỏi có còn gì không. Chỗ này trí phàm phu, ai hiểu sao cứ hiểu, còn người tu đến đó, có trí vô hạn thì hiểu rõ ràng, kẻ không tu mà muốn biết, cố tìm hiểu cũng chỉ tưởng hiểu mà thôi (hiểu sai bét), và sự hiểu sai đó tạo ra sự mê tín, lạc hậu của những con người cổ xưa, mà bây giờ chúng ta còn giữ mãi, không dám bỏ những cái sai đó, thật là ngu si điên đảo.
Trong thời đại văn minh khoa học như thế này, mà con người còn tin bản thể tuyệt đối. Cách đây 2548 năm (1997) Ðức Phật đã xác định, qua bài kinh “Pháp Môn Căn Bản”. Lúc bây giờ con người còn lạc hậu, dân trí còn thấp kém, sự hiểu biết chưa có khoa học chứng minh cụ thể, nên dùng tưởng tri quá nhiều, biến thành một thế giới siêu hình vĩ đại, điều khiển thế giới hữu hình, từ đó con người đã lạc vào thế giới mê tín, trừu tượng. Còn bây giờ chúng ta như thế nào? Cũng sống trong tưởng tri nữa sao? Cũng lạc hậu như những người xưa nữa sao? Trong khi khoa học tiến triển hiện đại hóa đời sống con người mà còn dại khờ, ngu ngốc để kẻ khác lừa đảo, lường gạt lặp lại những bài vở lỗi thời.
Ðời sống con người đầy đủ vật chất tiện nghi, bệnh đau có bệnh viện, có bác sĩ chăm sóc, có thuốc thang đầy đủ, cớ sao lại còn lạc hậu mê tín, tin vào cái thế giới siêu hình ấy, để tự làm khổ mình và người khác, phỏng có ích lợi gì. Thật là ngu si vô minh không chỗ nói.
Chân lí của đạo Phật là gì? Là tâm không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si là tâm không còn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, tức là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Ðó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự, là chân lí thứ ba của Phật giáo. Cho nên, Phật và A La Hán đều chứng đạt chân lí này, chứ không phải bản thể tuyệt đối mơ hồ của ngoại đạo.
2.- CẬN TỬ NGHIỆP
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong lúc nhà có người chết, tại sao lại phải phủ mặt, theo con nghĩ, khi người chết, có người mặt trắng, có người mặt xám, có người mặt vàng khè. Như thế tướng trạng của gương mặt thay đổi theo nhân quả của từng người. Cho nên phải đậy mặt lại, để cho người sống đỡ sợ hãi, phải không thưa Thầy?
Ðáp: Theo phong tục của mỗi dân tộc trên thế gian này có khác nhau. Riêng dân tộc Việt Nam khi có người chết, có tục lệ đậy mặt. Theo sách phong tục tập quán dân tộc Việt Nam, do Toan Ánh biên soạn, nhưng cũng không nói đến phong tục người chết đậy mặt. Trong kinh sách Phật giáo cũng không có dạy điều này, nhưng có dạy về cận tử nghiệp (nghiệp lực trước khi chết). Khi một người vừa tắt thở, các duyên trong thân ngũ uẩn chưa phân tán, tức là chưa hoại diệt. Nên lúc bấy giờ họ đang thị hiện một giấc mộng, giấc mộng đó báo cho biết, đây là nghiệp cuối cùng của họ trong kiếp này chuyển sang kiếp mới; giấc mộng đó cũng thể hiện một nghiệp lực, do huân tập nhân quả trải dài thời gian của một kiếp con người; giấc mộng đó cũng đang thực hiện một sức lực (nghiệp lực) tiếp tục tái sanh kiếp mới của con người, khi giấc mộng này vừa tan biến. Giấc mộng này vừa tan thì thân tứ đại cũng vừa dừng hẳn, nghĩa là thân tứ đại này không còn phục hồi lại được nữa.
Trong thời gian nằm mộng, thì gương mặt người chết biểu lộ qua màu sắc, hoặc những nếp nhăn, cau có, hung dữ hoặc hân hoan, vui mừng, hiền lành, v.v…
Như con đã nghĩ, người chết có khi mặt trắng bạch, có khi vàng khè hoặc có khi xám xịt, v.v... rồi trở lại bình thường giống như người đang ngủ. Không phải chỉ có sự thay đổi màu sắc và nếp nhăn mà còn nhiều tướng trạng hiện trên gương mặt ghê sợ như: trợn trừng mắt, há hốc miệng, mím chặt môi, cắn răng, như giận dữ, hoặc le lưỡi, hoặc nói lập bập trong miệng, có khi cười, có khi khóc, có khi gương mặt biểu lộ ra sự sợ hãi, cũng có khi gương mặt biểu lộ ra sự hân hoan, vui mừng và cuối cùng giấc mộng cận tử nghiệp tan biến, thì gương mặt kia trở lại bình thường như người đang ngủ. Nên tục lệ đậy mặt người chết có lẽ để cho người sống đỡ sợ.
Vậy, xin những bậc trí giả, các bậc Trưởng lão cao niên hiểu và biết rõ phong tục tập quán này xin mách dùm, chứ trong giáo lý của đạo Phật không có dạy điều này, chúng tôi xin cảm ơn trước.
3.- ÁO LỤC THÙ, ÁO HẢI HỘI
Hỏi: Kính thưa Thầy! Chúng con tâm còn hoảng loạn, trong lúc có người thân quyến ra đi, thật là lưu luyến kẻ ở người đi, lòng sầu bi, ũ dột. Lúc còn sống phải chuẩn bị mua sắm áo chết để mặc, “áo lục thù, áo hải hội” để khi chết mặc đi xuống địa ngục, quỷ sứ nhìn thấy, biết đó là đệ tử của nhà Phật, mà không hành án nặng, giảm khinh tội. Thưa Thầy, con chưa hiểu, xin Thầy chỉ dạy.
Ðáp: Ðạo Phật quả quyết và xác định không có thế giới siêu hình, thì làm sao có linh hồn mặc áo hải hội, áo lục thù đi xuống địa ngục.
Ðạo Phật chỉ có một thế giới con người đang sống, là thế giới tưởng tri, con người đang lầm chấp cho đó là thế giới có thật sự, nên tạo biết bao nhiêu nhân quả bất thiện, để rồi cũng phải chịu sống với bao nhiêu quả khổ đau, vui ít, khổ nhiều, còn kẻ nào tạo những điều cực ác, thì phải thọ lấy cảnh sống toàn khổ, đó là địa ngục trần gian, chứ không có địa ngục nào khác nữa; còn kẻ nào làm toàn thiện, không làm khổ mình, khổ người thì kẻ ấy có một cuộc sống an vui, hạnh phúc, đó là cảnh giới của chư Thiên; còn kẻ nào cũng sống toàn thiện như trên, mà biết xa lìa tâm ham muốn (dục), không làm khổ mình, khổ người thì tâm hồn thường thanh thản, yên vui, an lạc và vô sự, đó là Niết Bàn tại thế gian.
Ðối với đạo Phật, cảnh Thiên Ðàng, Ðịa Ngục và Niết Bàn đều ở tại thế gian không phải đi tìm nơi đâu xa cả.
1- Làm ác chịu quả khổ, đó là địa ngục tại thế gian.
2- Làm thiện hưởng phước báo an vui, hạnh phúc, tai qua nạn khỏi, sống cuộc đời đầy đủ, không thiếu hụt, muốn chi có nấy, đó là cảnh Thiên Ðàng tại thế gian.
3- Sống ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm, tâm hồn vô sự, thanh thản, trầm lặng, an lạc, đó là cảnh giới Niết Bàn tại thế gian.
Áo lục thù và áo hải hội là của các thầy cúng và các thầy phù thủy, bày đặt chuyện ra để lừa đảo, lường gạt những người không hiểu giáo lý đạo Phật chơn chánh, họ dựa theo một số kinh sách mê tín của Ðại Thừa, mà bảo với tín đồ, đó là lời Phật dạy: làm như vậy, cúng bái như vậy, sẽ có lợi ích và phước báo lớn.
Làm gì có quỷ sứ, ngưu đầu mã diện; làm gì có mười vua Diêm Vương ở cõi địa ngục hành hạ linh hồn tội nhân. Ðó là sự giàu tưởng tượng của những nhà văn viết tiểu thuyết thuộc loại hoang đường hư ảo như những tác giả kinh Ðịa Tạng, kinh Thập Vương, Tây Du Ký, Phong Thần, Hồi Dương Nhân Quả, Liêu Trai Chí Dị, v.v…
Trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật, có nói đến quỷ vô thường, quỷ la sát, là nói đến sự vô thường của thân tứ đại và các pháp ác, chứ không phải có con quỷ vô thường và con quỷ la sát thật sự, người đời không hiểu cho đó là có quỷ thật sự, ở cõi địa ngục Diêm La.
Trong kinh Thập Vương diễn tả mười cảnh địa ngục, có mười vị vua Diêm La Vương, có quỉ sứ, có ngưu đầu, mã diện, có phán quan, v.v... Ðó là một thế giới tưởng được vẽ ra, để lừa đảo tín đồ, khiến cho tín đồ quá sợ hãi. Do sự sợ hãi đó mà quý thầy Ðại Thừa bảo tín đồ làm sao thì làm vậy, không dám suy nghĩ đúng, sai những điều đã được dạy bảo, nên phải chịu hao tài tốn của rất nhiều về vấn đề cầu siêu, cúng vong, tiễn linh, trừ linh, trừ thần, v.v...
4.- CẦN XẢ BỎ MÊ TÍN
Hỏi: Kính thưa Thầy! Ðời thường của cư sĩ tại gia, chúng con thường xuyên phải va chạm nhiều vấn đề, nếu không cẩn thận thì phạm giới.
Hiện giờ, chúng con cứ lo tu tập sống đúng đạo đức nhân quả, những việc ma chay và cưới xin, nói chung là tất cả phong tục, tập quán đều có thể ảnh hưởng đến việc tu tập của chúng con không ít, mà trong giáo án của Thầy không có dạy. Vậy cúi xin Thầy từ bi lân mẫn chỉ dạy cho chúng con.
Ðáp: Là đệ tử của Phật, dù cư sĩ hay tu sĩ đều phải theo lời dạy của đức Phật, lần lượt xả bỏ không những thế giới siêu hình mà còn xả luôn cả thế giới hữu hình.
Bởi vậy, nếu đúng theo tinh thần của Phật giáo, thì trong gia đình người cư sĩ đệ tử của đức Phật, việc ma chay và cưới xin phải giản đơn và không sát sanh, không nên tổ chức linh đình, vì chung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người bất hạnh thiếu cơm ăn, áo mặc. Tổ chức đám tiệc thực phẩm trai tịnh, thanh khiết, trang nghiêm, thanh tịnh, không được làm ồn náo, ầm ĩ, ca nhạc phải khéo chọn những bài hát có ý nghĩa sâu kín của người Á Ðông, nói lên được sự hạnh phúc của đôi tân hôn với truyền thống Việt Nam, phải trang hoàng, thanh nhã, lịch sự, không quá cầu kỳ.
Tiệc ma chay không được trống kèn, ầm ĩ, ca, xướng, hát, táng tụng, hò hét, đàn địch, phải giữ gìn im lặng, trang nghiêm, cúng bái, tế lễ phải có ngăn nắp hết sức, phải có tôn ti trật tự hẳn hòi, cấm rượu chè bê bối say sưa trong đám tang cũng như trong đám cưới.
Tổ chức đám cưới, tuy có ca hát như trên đã nói, nhưng không được ca hát quá trớn, biết rằng đám cưới là đám vui, vui trong đạo đức lành mạnh của người dân Á Châu, cho nên phải chọn những bài ca chúc tụng, những bài ca có tình, có nghĩa, ca ngợi những lòng chung thủy, không được dùng những bài ca nhảm nhí, thương vay, khóc mướn, tình tứ bi thảm. Ðiều cấm kỵ nhất trong đám cưới cũng như đám tang, không được chè chén, say sưa, tiếng qua, tiếng lại, tranh luận hơn thua, hoặc la hét chửi mắng hoặc đấm đá nhau, v.v... Phải giữ gìn im lặng, trang nghiêm để bầu không khí thiêng liêng trong những giờ phút chia vui đám cưới, chia buồn đám tang.
Nếu tất cả mọi việc đều giữ được sự trang nghiêm, thanh tịnh và không làm theo sự mê tín, dị đoan của kinh sách phát triển dạy và phong tục tập quán dân gian, thì sự tu tập theo đạo Phật rất dễ dàng.
Nếu việc ma chay và cưới xin, đừng giết hại chúng sanh làm cỗ bàn, thì sự tu tập rất là an tịnh, tinh thần thoái mái, thanh thản và an lạc.
Do sự tổ chức ma chay và cưới xin đúng cách theo đạo Phật, thì mọi người trong gia đình đều được an vui, hạnh phúc. Vì tạo nhân làm điều thiện và đơn giản nên sau khi đám tiệc xong rồi, người trong nhà không có ai nợ nần và không có thấy máu chúng sanh đổ, nên tâm hồn thảnh thơi. Vì tổ chức làm đám giản đơn nên mọi người không mệt nhọc, không bề bộn cả nhà đều được khỏe khoắn, an vui.
Ở đời, người ta chạy theo những lời khen, chê ngoài miệng “Nhà đó tổ chức đám tiệc linh đình ầm ĩ, không có gia đình nào hơn được”, chỉ những lời khen rỗng tuếch đó, mà cả mọi người trong gia đình đều mệt nhọc và khổ sở, lại còn mang nợ nần khác nữa. Ðám tiệc xong có khi mọi người trong gia đình phải đau bệnh. Thật là vô minh, u tối chỉ có một lời khen hão mà con người từ xưa cho đến nay đều ngu si chạy theo danh hão đó, nên bảo sao đời người khổ là vậy.
Theo đạo Phật chỉ cầu sự giải thoát, còn tất cả phong tục tập quán, dù có truyền thống lâu đời thì cũng vẫn tổ chức rất đơn giản, không chạy theo xu hướng của người khác, cứ làm y theo sự đơn giản mà đức Phật đã chỉ dạy, còn tất cả những phong tục nào mê tín, lạc hậu thì mạnh mẽ, cương quyết không chấp nhận, đình chỉ, phá bỏ, nhất định không tổ chức những điều mê tín đó. Mục đích đập, phá như vậy là để giúp cho con cháu đời sau đỡ hao tài, tốn của một cách vô ích và phi lý.
Người cư sĩ, đệ tử của Phật, phải sáng suốt nhận định cái nào đúng có lợi ích cho mình, cho người và những việc làm nào không làm khổ mình, khổ người thì hãy duy trì và giữ gìn bảo vệ những phong tục đó để mang lại cho cá nhân, gia đình, xã hội và đất nước một sự an vui, thanh bình, trật tự, hạnh phúc và phồn vinh. Ngược lại, những phong tục mê tín, lạc hậu nào làm hao tiền, tốn của, chẳng ích lợi gì mà còn gây tai hại tạo nhân ác làm đau khổ mọi người và chúng sanh thì ta phải phá bỏ và dẹp sạch để làm lợi ích cho con cháu về sau, không bị ảnh hưởng cha truyền, con nối hoặc theo kiểu “Tổ tổ truyền nhau”.
5.- CÁCH TU TẬP
Hỏi: Kính thưa Thầy! Theo trong thời khoá con đã ghi sự tu tập của con, như vậy có đúng chưa, xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ?
Ðáp: Về phần tu tập con nên đọc kỹ lại những bài vấn đạo, thì sẽ biết rõ cách thức tu hành, Thầy xin tóm lược lại:
1- Ngồi nhiếp tâm trong hơi thở, phải ngồi kiết già, lưng thẳng, mắt nhìn xuống chóp mũi, mở một phần ba mắt.
2- Khi sức gom tâm, tập trung chưa cao, con nên kèm theo pháp hướng tâm, để nhắc nhở và dắt tâm: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở”, lượng với sức của mình tu tập từ 1 phút đến 5 phút, rồi xả nghỉ đi kinh hành; khi đi kinh hành cũng tu từ 1 phút đến 5 phút tỉnh thức trong bước đi, con nên kèm theo pháp hướng tâm, để nhắc nhở và dắt tâm: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
3- Ðợt thứ hai, con cũng tiếp tục tu tập như trên. Nên nhớ kỹ, Ðịnh niệm hơi thở mới đầu chỉ tu từ 10 hơi thở, rồi tăng dần lên 1 phút, từ một phút tăng lên 5 phút, từ 5 phút tăng lên 15 phút, tăng dần lên đến 30 phút rồi 1 giờ. Khi đến 1 giờ không nên tăng lên nữa, chỉ ở trạng thái trong 1 giờ đó, tập luyện pháp hướng tâm điều khiển sự sống, chết.
Ði kinh hành cũng vậy, khi đi 50 bước tỉnh thức, trong đó 10 bước có hướng tâm một lần: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành”, khi mới tu tập đi kinh hành, cũng nên đi với sức tu tập của mình, đừng đi quá sức, đi khoảng độ 1 phút, rồi dần quen mới tăng lên đến 30 phút, đến 1 giờ. Xả nghỉ 2 phút hoặc 5 phút rồi ngồi thiền trở lại, nương hơi thở tu tập, khi tu tập hơi thở xong, rồi lại tiếp tục đi kinh hành 50 bước nữa, cứ như vậy tu tập cho đến đúng 30 phút mới xả nghỉ luôn.
Page 2
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích SỐNG 10 ĐIỀU LÀNH, TG. 2011. tr. 126-137)link sách: SỐNG 10 ĐIỀU LÀNH
Kinh A-Hàm dạy: “Bệnh sắc dục dùng bất tịnh trị”.
Thực vậy, đứng trước sắc đẹp phụ nữ, khi tâm tham dục khởi, chúng ta phải dùng quán thân bất tịnh để đối trị. Nghĩa là phải suy tư quán xét cho thấu đáo tất cả vạn hữu đều có sắc tướng bất tịnh, dễ ô nhiễm, sinh ra mùi hôi thúi ghê tởm, dù cho chúng có những sắc tướng khêu gợi khiến cho tâm tham sắc dục dễ nổi lên cũng đều là bất tịnh. Muốn làm chủ được tâm tham sắc dục không có pháp môn nào để chế ngự hơn là kinh nghiệm bản thân. Phải trực tiếp mắt thấy tai nghe mũi ngửi mùi, tay sờ mó vào sắc tướng của đối tượng đang phơi bầy trước mắt ta những hình ảnh ghê tởm uế trược, hôi thúi và còn nhiều sự bất tịnh khác nữa. Nhờ có trực tiếp như vậy, nên khi vừa thấy sắc là ta thấy ghê tởm ngay liền.
Muốn chế ngự và hàng phục tâm sắc dục, điều tối quan trọng là phải thông suốt: Ở đâu có khoái lạc, ở đó có khổ đau. Sự đau khổ nhắc cho chúng ta thức tỉnh trong sự mong cầu khoái lạc.
Xét về thân và tâm của mình, từ xương, răng, da, tóc, đờm nhớt, máu mũ, thảy đều bất tịnh. Về phần tinh thần, ta cũng dễ bị ô nhiễm, dính mắc các sắc tướng vạn hữu; vì thế chúng ta càng khởi tâm tham dục lạc thì càng thọ vô lượng thứ đau khổ.
Người sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH phải thể hiện đúng MƯỜI ÐIỀU LÀNH của Phật dạy và còn phải nhìn thấu suốt thực chất sắc tướng của vạn hữu đang vây quanh chúng ta.
Người mang bệnh sân hận nặng muốn đối trị phải dùng từ tâm. Nghĩa là chúng ta phải biết đem lòng từ bi tha thứ và thương yêu những kẻ lầm lỗi, những người hung ác, gian tham, tật đố, v.v... Tại sao vậy? Vì họ là người thiếu giáo dục đạo đức, không được ánh sáng chân lý soi chiếu vào tâm tư họ nên đời sống họ luôn luôn bám chặt vào vật chất chịu nhiều thứ đau khổ.
Chúng ta là người sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH phải thấu rõ lý nhân quả, thường dùng chánh kiến và luôn thực hiện LÒNG THƯƠNG YÊU đối với mọi người. Nhờ vậy lòng đau khổ, sự giận hờn mới chấm dứt.
Ý thức được sự ích kỷ, nhỏ mọn của mình là thuốc độc giết chết tâm mình, chỉ có LÒNG YÊU THƯƠNG mới cứu chúng ta sống an vui.
Muốn trị bệnh ngu si mà không chịu học Phật pháp thì không làm sao có trí tuệ giải thoát, không thể làm chủ được tư tưởng của mình và thấu suốt được vạn hữu. Vả lại người ngu si không thể nào biết áp dụng phương tiện của đức Phật dạy. Bởi vậy kẻ ngu si không đủ trí hiểu biết luôn luôn sống một đời đầy đau khổ, sân hận, lúc nào cũng nô lệ cho vật chất.
Người sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH là phải biết dùng pháp môn quán của đức Phật đã giảng dạy suốt con đường “A Hàm” tức “Nhị Thừa”. Pháp môn này dùng để đối trị tất cả tư tưởng phiền não. Khi thấu suốt con đường quán của Nhị Thừa, chúng ta mới thấu rõ là tất cả hiện tượng vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ đều do duyên hợp tạo thành chớ không do một đấng vạn năng nào biến hóa ra.
Xét cho cùng tột về cuộc sống của chúng ta, ta mới thấy ngã không, người không và vạn hữu đều không. Kinh A-Hàm dạy: “Này Thích Ðề Hoàn Nhơn! Như vậy tất cả hiện tượng đều quy về không; không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ”.
Ở đây chúng ta nghe đức Phật dạy tất cả hiện tượng trong thế gian đều quy về không; không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ, thế mà mọi vật trước mắt chúng ta sờ sờ mà bảo là không thì hóa ra lời dạy kia phi lý và mâu thuẫn với chính nó hay sao?
Muốn rõ lý sắc không, chúng ta phải có sự tư duy cho tường tận mới thấy vạn hữu là không. Ví dụ, muốn dựng một cái nhà phải do nhiều thứ hợp lại như kèo, cột, vách, lá, phên, cửa, đòn dông hợp lại tạo nên một cái nhà. Nếu lấy một cây cột mà bảo đó là cái nhà thì không đúng.
Câu chuyện vua Malinda hỏi tỳ kheo Nagasena trong Kinh Malinda :
- Thưa Ðại Ðức! Quý danh Ngài là gì?
- Tâu bệ hạ! Người ta gọi tôi là Nagasena, nhưng không có thật tôi.
Nhà vua hỏi :
- Nếu không có thật NGÀI thì ai cúng dường, ai truyền giáo, ai tham thiền, ai thực hành giáo lý và ai tu chứng Niết Bàn? Vậy cái gì mới thực là Nagasena? Hay tóc trên đầu là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ! Không phải tóc là tôi.
- Lông nơi thân là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không.
- Vậy thì sự cảm xúc, sự nhận biết vui buồn là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không.
- Vậy thì ngũ uẩn, tứ đại là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không.
- Như thế ngoài thân còn cái gì là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không có cái thân nào khác ngoài Nagasena.
Vua Malinda hỏi xong, Nagasena hỏi lại:
- Tâu bệ hạ! Ngài đến đây bằng gì?
- Bạch Ðại Ðức! Trẫm đến đây bằng xe.
- Vậy bệ hạ có thể giải thích xe là gì chăng? Có phải gọng là xe chăng?
- Không phải thế.
- Cái trục lăn có phải là xe chăng?
- Bạch Ðại Ðức không.
- Hai bánh có phải là xe chăng?
- Cũng không.
- Vậy nhà vua nói các thứ đó có cái gì là xe không?
- Cũng không.
Câu chuyện vua Malinda cho chúng ta thấy rõ ràng Phật giáo chủ trương con người không có bản ngã. Sinh mạng của con người chỉ kết hợp do tứ đại và tâm thức. Hay nói một cách khác hơn, con người do duyên hợp bởi đời sống vật chất và tâm lý. Ðời sống vật chất gọi là sắc uẩn, đời sống tâm lý gọi là thọ, tưởng, hành, thức uẩn; gọi chung là Ngũ Uẩn.
Ðứng về phương diện không gian, vạn hữu trong vũ trụ vốn giả hợp; còn về phương diện thời gian thì vạn hữu vốn sanh diệt không ngừng; cho nên thân ngũ uẩn tạm có gọi là sanh mệnh chúng sanh, khi ngũ uẩn tan rã thì gọi là sanh mạng chúng sanh chấm dứt hay chết.
Vạn hữu mượn danh mà đặt tên, chớ không có thực tên, cũng như cái chúng ta thấy gọi là xe thì nó đâu có một bản thể chính yếu, ngoài các bộ phận như gọng, bánh, trục, căm, v.v… thì xe không thành hình được. Xe chỉ là một danh từ để chỉ sự kết hợp của các bộ phận ấy mà thôi. Tôn giả Tu Bồ Ðề còn giảng những ví dụ giải thích cho chúng ta thấy vạn hữu do duyên hợp tạo nên, khi hết duyên thì duyên tan, nó sẽ hoại diệt. Ví như cây cổ thụ xum xuê tàng lá, một cơn gió to cành lá phải xác xơ. Một vườn cây đang kết hoa nẩy nụ làm quả, một trận mưa đá, tuyết rơi làm hư hoại tất cả. Ðó là duyên tan. Một cơn mưa to trút xuống, các cây cành đang héo úa gặp mưa liền đâm chồi nẩy tược. Ðó là duyên hợp. Khéo quán xét chúng ta đào sâu vào sự bất động của vạn hữu, ta mới thấy rằng bệnh tật không từ đâu sanh, chẳng phải thân sanh mà cũng chẳng phải ý sanh. Vì thế, bệnh tật không phải do thân hay do ý, mà chính là duyên hợp tạo nên. Pháp do duyên mà có, duyên hợp là động, động thì pháp sanh.
Pháp pháp tự diệt, nghĩa là hết duyên thì pháp tự hoại diệt, tự trở về sự bất động của nó. Kinh A-Hàm dạy: “Này Thích Ðề Hoàn Nhơn! Pháp pháp loạn động, pháp pháp tự diệt. Ta trước kia mắc bệnh đau đớn khổ sở, ngày nay đã trừ được, không còn bệnh khổ”. Lời dạy của Tôn giả Tu Bồ Ðề, chúng ta nhận thức như thế nào? Có phải chăng khi suy tư quán xét liền thấu rõ cội nguồn của bệnh tật là hết bệnh chăng? Hay một duyên cớ gì mà ông Tu Bồ Ðề bảo bệnh ông đã hết?
Khi dùng pháp Quán để thấu suốt cội nguồn của bệnh tật, để rõ được nguyên nhân này chỉ do duyên hợp nhiều đời và cũng như ngay trong đời hiện tại đang tạo tác. Nhờ thấu rõ cội nguồn của bệnh tật, nên tâm tư không còn lo ngại sợ sệt, thường nhìn thẳng vào bệnh tật, lòng không chút sợ hãi lo lắng. Ðủ duyên hợp lại thành bệnh tật, khổ đau, vui buồn, thương ghét, giận hờn... Hết duyên tất cả phiền lụy đều tan hết.
Thấu suốt được lý này, hành giả phải chấp nhận bệnh tật, hoặc tai nạn. Không bao giờ sợ hãi và tìm cách trốn tránh. Lúc nào cũng vui vẻ trả nghiệp và luôn luôn tạo NGHIỆP LÀNH. Do lòng an vui chấp nhận các NGHIỆP KHỔ mà tinh thần dũng mãnh, can đảm chịu đựng những thử thách để rồi vượt qua, NGHIỆP KHỔ dần dần tan biến.
Nói đến duyên hợp, duyên tan mà không nói đến nhân quả là một điều thiếu sót quá lớn. Nhơn quả là do NGHIỆP LÀNH hay NGHIỆP ÁC mà có. Muốn đối trị quả khổ thì phải thấu lý nhân quả, tức là biết rõ quả THIỆN ÁC đang chủ động tác động vào đời sống con người, khiến cho con người cực khổ thất điên bát đảo.
Vậy chúng ta phải thường hằng sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH, phải cố gắng gieo NHÂN LÀNH. Khi NHÂN LÀNH đầy đủ thì sự phiền não, đau khổ sẽ chấm dứt. Muốn cứu nguy bệnh tật của thân, mưu tìm chân hạnh phúc cho gia đình thì phải sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH. Sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH là chuyển từ NGHIỆP ÁC thành NGHIỆP THIỆN, chuyển điều dữ thành điều lành, khiến cho đời sống chúng ta hoàn toàn được thuận duyên. Nhờ đó mà cuộc hành trình về XỨ PHẬT không còn trở ngại nữa.
Muốn sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH mà thiếu trí tuệ thì không bao giờ thực hiện được việc này. Muốn có trí tuệ chúng ta phải học Phật pháp, nhờ học Phật pháp trí tuệ mới sáng suốt, mới chánh kiến giải thoát, nhờ đó mà PHẬT PHÁP mới thấm nhuần. Nhờ đó, tâm chúng ta xuất hiện LÒNG YÊU THƯƠNG, nhờ LÒNG YÊU THƯƠNG mới dễ thực hiện đức nhẫn nhục, nhờ có đức nhẫn nhục chúng ta mới thể hiện sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH dễ dàng.
Chỉ có sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH thì quả ác mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.
Tóm lại, con người muốn thoát khỏi bệnh tật khổ đau, tai nạn hiểm nghèo thì không có phương tiện nào hay pháp môn nào mau chóng bằng pháp môn sống vớiMƯỜI ÐIỀU LÀNH. Dù thuốc hay thầy giỏi cũng không tránh khỏi thân bệnh, dù các bậc vua chúa hay các y sư giỏi nhất thế gian cũng không thoát khỏi bệnh tật và cũng phải chịu chung luật sanh tử.
Thế nên học PHẬT PHÁP mà biết khôn khéo áp dụng vào đời sống hằng ngày thì thân bệnh sẽ không còn nữa và tâm thường được an vui.
Chúng ta hãy nghe bài kệ của Tôn giả Tu Bồ Ðề để gắng công tu tập sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH:
“Hãy nói như lời nàyCăn bản thấy đầy đủNgười trí được an ổnNghe Pháp dứt các bệnh”(Kinh Tăng Nhất A-Hàm)
Chúc quý vị tu tập thành công để luôn luôn sống được an vui, hạnh phúc.
Sống với MƯỜI ÐIỀU LÀNH được viết ra thành sách là nhờ giúp cho con gái của bà Lâm Chưởng để thoát khỏi bệnh hiểm nghèo.
Tu viện Chơn Như, ngày 1 tháng giêng, năm Bính Dần, 1986.
Tỳ Kheo Thích Thông LạcKính ghi.
Page 3
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 8, TG.2011, tr.81-99)link sách: ĐVXP, tập 8
LỜI PHẬT DẠY:
1- Có lòng tin.2- Biết xấu hổ với những điều sơ suất.3- Tự thẹn với những việc làm ác.4- Học rộng hiểu nhiều.5- Nỗ lực dứt ác, tu thiện.6- Những điều đã học, phải ghi nhớ mãi không quên.7- Tu về trí tuệ.
CHÚ GIẢI:
1.- CÓ LÒNG TIN
Ðức Phật dạy: Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Ðộng Tâm và Sơ Thiền thì trước tiên, chúng ta phải đặt trọn lòng tin sâu xa nơi đức Phật và giáo pháp của Ngài. Ngài đã dạy như thế nào giải thoát là thật sự có giải thoát, có làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi. Lòng tin ấy sẽ giúp chúng ta tiến bước mà không bao giờ chùng bước, dù trên bước đường tu tập, có nhiều gian nan thử thách chúng ta cũng không nản lòng và thối chuyển. Ðó là pháp môn thứ nhất để chúng ta ly dục, ly ác pháp.
Nếu thiếu lòng tin thì con đường đạo Phật, chúng ta không thể đi đến nơi, đến chốn được, vì nó là con đường tự lực chứ không tha lực, cho nên lòng tin được đứng hàng đầu trong các pháp tu tập, nhưng muốn có lòng tin bền bỉ thì sự tu tập phải có kết quả, nếu không kết quả thì tu sĩ và cư sĩ Phật giáo sẽ biến thái giống như các tu sĩ Bà La Môn giáo (cúng bái, tụng niệm, ngồi thiền, niệm chú, bắt ấn, v.v... ) và làm những việc mê tín khác.
Người tu sĩ và cư sĩ tu không kết quả, sẽ mất lòng tin, nên dễ bị thế tục hóa, khiến cho Phật pháp càng ngày, càng suy thoái và Phật giáo mất.
2- BIẾT XẤU HỔ VỚI NHỮNG ÐIỀU SƠ SUẤT
Ðức Phật dạy: Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh và Sơ Thiền thì phải biết xấu hổ với những điều làm sơ suất tạo ra cảnh khổ mình, khổ người.
Làm người ai mà không có những việc làm sơ suất, nhưng có những kẻ làm sơ suất lại không biết xấu hổ sửa sai những lỗi lầm của mình, mà còn vỗ ngực xưng tên.
Ví dụ: Như các vị tỳ kheo phạm giới, phá giới, ăn uống phi thời, sống trong nhung lụa sang giàu, chùa to, Phật lớn, tu hành chưa tới đâu, thuyết giảng lung tung, lừa đảo lường gạt nhiều người, bằng cách cầu siêu, cầu an làm những điều mê tín, v.v... Thậm chí, có những vị tỳ kheo có cả vợ con, thế mà không biết xấu hổ, không chừa bỏ, sửa sai thì thử hỏi, Phật pháp còn gì và tu hành như vậy, thì làm sao ly dục, ly ác pháp được. Ðây là phương pháp thứ hai mà đức Phật đã dạy chúng ta ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh và nhập Sơ.
3- TỰ THẸN VỚI NHỮNG VIỆC LÀM ÁC
Ðức Phật dạy: Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh và Sơ Thiền thì phải tự thẹn với những việc làm ác.
Ví dụ: Có người bị người khác chửi mắng, mạ nhục tâm sanh tức giận, lúc bấy giờ người ấy rất khổ đau, trạng thái khổ đau đó là ác pháp, tức là vì pháp ác bên ngoài tác động, chúng ta không đủ sức kham nhẫn nên pháp ác trong tâm ta phát khởi, nếu một người tu theo đạo Phật thì phải tự thẹn với lòng mình và tự trách mình. Tại sao mình lại ngu si để những pháp ác sanh khởi làm khổ mình? Tại sao mình lại điên đảo quá độ để cho tâm duyên theo nhân quả ác của người khác dẫn mình vào bước đường khổ đau?
Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh và Sơ Thiền mà bị pháp ác tác động, không ly ác pháp trong tâm thì làm sao nhập Bất Ðộng và Sơ Thiền được, do đó đức Phật dạy: “Phải tự thẹn với lòng mình” vì mình quá yếu hèn không ngăn được ác pháp trong tâm, để chịu khổ đau, đó là dại dột của một con người quá ngu si, không sáng suốt.
Người biết tự thẹn là người biết cố gắng khắc phục mình, biết sửa lỗi mình, biết chiến đấu lại tâm mình, v.v...
Người không biết tự thẹn là người không biết xấu hổ với mình, không biết cố gắng khắc phục tâm mình, không biết sửa lỗi mình và cũng không biết chiến đấu lại tâm ác của mình, để rồi phải chịu suốt một đời khổ đau và tiếp tục trong muôn đời khổ đau. Ðây là phương pháp thứ ba đức Phật dạy chúng ta biết tự thẹn khi làm việc ác để tâm ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh và nhập Sơ.
4- HỌC RỘNG HIỂU NHIỀU
Ðức Phật dạy: Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh và nhập Sơ Thiền thì phải học rộng hiểu nhiều. Học rộng hiểu nhiều nghĩa là gì? Học rộng hiểu nhiều nghĩa là phải hiểu rõ đường lối tu hành chân thật của đạo Phật, nếu không học rộng hiểu nhiều về đạo Phật thì dễ bị người khác lừa đảo bằng những giáo pháp của ngoại đạo như hiện giờ, tu sĩ và cư sĩ đệ tử của Phật mà lại tu tập theo những pháp môn mê tín, ảo tưởng, hư cấu ảo giác, không chịu học rộng, không chịu hiểu nhiều về kinh sách Nguyên Thủy, nên nghe theo kinh sách phát triển và Thiền Ðông Ðộ. Họ lầm tưởng đó là kinh sách của Phật giáo chơn thật, nhưng không ngờ đó là kinh sách giả mạo. Chỉ vì trước khi tu hành, quý vị không chịu học rộng, hiểu nhiều về kinh sách chơn thật của đạo Phật.
Ở đây đức Phật dạy muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm và nhập Sơ Thiền mà không học rộng, hiểu nhiều về giáo pháp của Ngài thì sẽ tu sai lạc, mà đã tu sai lạc thì không làm sao ly dục, ly ác pháp được, không ly dục, ly ác pháp thì không bao giờ nhập chánh định được, chỉ có nhập vào những tà định mà thôi. Ðây là pháp thứ tư, học rộng, hiểu nhiều về giáo pháp của Ngài để không bị ai lừa đảo và lường gạt được mình rơi vào giáo pháp ngoại đạo, của thiền.
5- NỖ LỰC DỨT ÁC TU THIỆN
Ðức Phật dạy: Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh và nhập Sơ Thiền thì phải nỗ lực dứt ác, tu thiện. Trong kinh Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Ðó là một phương pháp nỗ lực dứt ác tu thiện.
Hầu hết mọi người tu theo đạo Phật đều không nhận ra ác pháp và thiện pháp như thế nào, nên dễ tu lầm lạc, do lầm lạc nên tu mãi không có kết quả. Trong đạo Phật, pháp nào có lậu hoặc là pháp ác, vì có lậu hoặc là có đau khổ, có đau khổ là ác pháp.
Ví dụ: Tu tập tọa thiền hai chân ngồi kiết già bị tê, đau nhức, khổ sở, nóng rát, v.v... đó là pháp ác. Nhớ thương những người thân làm cho tâm hồn đau khổ, đó cũng là pháp ác.
Người có phước hữu lậu sanh ra trong gia đình giàu sang, quyền cao chức lớn, có danh giá trong xã hội, nhưng đó là phước hữu lậu, cho nên trong sự giàu sang, quyền cao, chức lớn vẫn có những sự khổ đau, có những sự khổ đau, tức là có ác pháp.
Ðối với đạo Phật thì không cầu phước hữu lậu, phước hữu lậu là phước danh và lợi mà danh lợi là ác pháp, vì thế người tu theo đạo Phật phải xa lìa danh lợi, xa lìa danh lợi là ly dục, ly ác pháp, ly dục, ly ác pháp là phước vô lậu, phước vô lậu là giải thoát. Vì thế, người tu sĩ đạo Phật chọn lấy phước vô lậu, từ khước hữu lậu, từ khước phước hữu lậu là từ khước chùa to, Phật lớn, tiền bạc danh lợi. Xin nhắc lại một lần nữa, đức Phật dạy: “có danh có lợi thì nên ẩn bóng”, đó mới chính là đệ tử của đức Phật.
Người có phước hữu lậu, giàu sang quyền tước mà không từ bỏ, xa lìa, tức là không ngăn ác, diệt ác pháp thì không thể nào ly dục, ly ác pháp được. Người ta phải hiểu rằng, phước hữu lậu là phước báo còn trong đau khổ, cho nên người có phước báo này thì lại càng đau khổ nhiều, quý vị không tin lời chúng tôi nói thì quý vị hãy đọc báo chí sẽ thấy các vị Tổng Thống, nhất là Tổng Thống nước Mỹ “Kennedy” và gần đây những người giàu có hằng tỷ tỷ bạc như: Minh Phụng, Trần Ðàm, v.v... họ đang khổ hơn chúng ta nhiều.
Thưa quý vị, đấy là phước hữu lậu, Hòa Thượng Thanh Từ, Thầy của chúng tôi, đã thực hiện Bồ Tát Ðạo, hành Bồ Tát Hạnh, Ngài có đầy đủ phước báo hữu lậu, không có một vị Hòa Thượng nào sánh kịp, nhưng cơ thể Ngài không lúc nào mà không uống thuốc và không giờ nào mà Ngài được nghỉ ngơi. Ngài đã tuyên bố với Tăng, Ni và Phật tử, Ngài nợ Tăng, Ni và Phật tử. Ðó là phước hữu lậu, trong cái danh, cái lợi thì phải có cái không giải thoát, cái không giải thoát tức là ác pháp.
Ðức Phật dạy: “lậu là khổ đau, vô lậu là hết khổ đau”. Do đó, chúng ta suy ra lậu là ác pháp. Vậy người tu sĩ đệ tử của đức Phật, phải ngăn ác diệt ác, thì còn có cầu mong tạo phước báo hữu lậu nữa hay không? Tu hành theo đạo Phật, mà cố tạo phước báo cho nhiều thì con đường tu để đi đến giải thoát được hay không? Ðó là một câu hỏi để mọi người dễ nhận ra sự thật của kiếp làm người. Người có phước báo hữu lậu thì không bao giờ tu giải thoát được. Tại sao vậy? Tại vì phước báo hữu lậu là ác pháp mà đạo Phật chủ trương ngăn ác, diệt ác pháp thì mới có ly dục, ly ác pháp, có ly dục, ly ác pháp thì mới có giải thoát, có giải thoát thì mới gọi là vô lậu, cho nên phước báo của đạo Phật gọi là phước vô lậu, phước báo vô lậu là phước báo không còn đau khổ. Phước báo hữu lậu là phước báo còn đau khổ là phước báo của kinh sách phát triển của các tôn giáo khác.
Phước báo hữu lậu và phước báo vô lậu là hai phước báo không thể đi chung nhau một đường. Người chấp nhận phước hữu lậu thì không thể có phước vô lậu được, người chấp nhận phước báo vô lậu thì không thể chấp nhận phước hữu lậu được, vì chấp nhận phước hữu lậu thì vô lậu không có.
Phước hữu lậu và phước vô lậu chúng ta ví nó như mặt trời và mặt trăng, cái này có thì cái kia không, cái này không thì cái kia có cũng như đêm và ngày, ngày có thì không thể là đêm được, mà đêm có thì không thể là ngày được. Phước hữu lậu và phước vô lậu cũng vậy.
Cho nên, các nhà học giả do chỗ nghiên cứu, chứ không phải chỗ tu hành đã hiểu sai lệch về Phật giáo, vì vậy các Ngài hướng dẫn người tu làm những điều lành như: Trai tăng, cúng dường, cất chùa, xây tháp, đúc chuông và làm những việc từ thiện khác nữa, v.v... đó là tạo phước hữu lậu, vì thế cuộc sống của họ không giải thoát, chỉ sống trong cảnh giàu sang, danh lợi như người giàu sang thế gian.
Bởi người ta không hiểu được phước vô lậu và phước hữu lậu như thế nào, nên đã đưa con người vào con đường khổ chỉ được lời khen suông của thiên hạ mà thôi, nhưng lại biến những người làm từ thiện trở thành những chủ nợ của những người khác mà cho vay, “vay một trả mười”. Ngược lại, Phật giáo không làm từ thiện, mà chỉ sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả, tự không làm khổ mình, khổ người, nên khi thấy ai khổ là thấy nhân quả của họ, chứ không phải ta làm khổ họ, mà chính họ đã tự làm khổ họ, chúng ta có duyên gặp họ trong cảnh khổ, đó là duyên nhân quả của chúng ta và với họ, nên mới có sự gặp gỡ như thế này thì chúng ta giúp đỡ và an ủi họ, tùy ở nhân quả của họ, chứ chúng ta không làm từ thiện như kinh sách phát triển dạy, vì chúng ta không làm sao cho họ hết khổ được, tại họ tạo ra nhân ác thì họ phải gánh chịu lấy quả khổ.
Chúng ta không làm từ thiện theo kiểu kinh sách phát triển dạy “làm thiện để mong cầu được lên Thiên đàng, Cực lạc và để được giàu sang phú quý, làm vua, làm quan, v.v...”.
Chúng ta chỉ biết làm theo đạo đức nhân bản – nhân quả làm người mà đức Phật đã dạy: “Không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai”.
Người không hiểu Phật pháp tuyên dương “phước huệ song tu”, đó là một sự sai lạc rất lớn trong đạo Phật. Có phước hữu lậu thì làm sao tu huệ được, huệ là giới luật, là đức hạnh của con người và của những bậc thánh tăng.
Nói đến giới luật đức hạnh những bậc thánh tăng, thì chỉ còn ba y một bát đi xin ăn hằng ngày thì làm sao gọi là phước hữu lậu được.
Trong kinh Nguyên Thủy đức Phật đã xác định rõ ràng: “Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó; trí tuệ làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ”.
Người có phước hữu lậu thì không bao giờ có trí tuệ; người có phước hữu lậu thì không bao giờ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh; người có phước hữu lậu thì không bao giờ được gọi là thánh tăng, thánh ni, thánh cư sĩ, nghĩa là không chứng quả giải thoát, vì chẳng bao giờ họ ly dục, ly ác pháp, chẳng ly dục, ly ác pháp thì chẳng bao giờ ngăn ác, diệt ác pháp, do đó họ tu hành chỉ uổng phí một đời mà thôi. Họ đã bị phước hữu lậu xỏ mũi dắt đi. Ðây là pháp thứ năm, giúp chúng ta ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm và Sơ Thiền như đức Phật đã nhắc nhở “Phải hết sức mình nỗ lực, dứt ác tu thiện”, chứ không thể tu lơ là được, mà phải nhiệt tâm, năng nổ từng giây, từng phút thì mới có thể ly dục, ly ác pháp. Quý vị nên nhớ kỹ những lời dạy này, những lời dạy này là những lời tâm huyết của đức Phật vì thươngtưởng chúng sanh, vì sự khổ đau của chúng sanh mà Ngài nhắc nhở. Ðừng dựa vào phước hữu lậu của kinh sách phát triển mà trở thành những chủ nợ của kẻ khác, để rồi đời đời phải trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi vĩnh.
6- NHỮNG ÐIỀU ÐÃ HỌC CẦN GHI NHỚ MÃI KHÔNG QUÊN
Ðức Phật dạy: Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Ðộng Tâm và Sơ Thiền thì những điều đã học phải ghi nhớ mãi không quên. Vậy, ghi nhớ mãi không quên những pháp môn gì?
Những pháp môn phải ghi nhớ mãi trong tâm không quên đó là:
1- Có năm pháp tu tập ly dục, ly ác pháp.
2- Có bảy pháp khiến cho Phật pháp hưng thịnh.
3- Có bảy pháp giúp ta ly dục, ly ác pháp.
4- Có bảy pháp hằng ngày cần tu.
5- Có sáu pháp cần phải giữ gìn.
6- Oai nghi của người tu sĩ.
7- Người mới vào đạo cần nên tu tập.
8- Người mới tu có năm pháp cần nên tránh.
9- Người mới tu có ba đức chánh hạnh cần phải thực hiện
(Chín pháp trên đây, trong tập tám ĐVXP không ghi đủ xin đọc lại những tập sách “Những Lời Gốc Phật Dạy”).
Trên đây là những pháp môn đã học, cần phải ghi nhớ mãi không quên để thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật.
7- TU VỀ TRÍ TUỆ
Ðức Phật dạy: Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm và Sơ Thiền thì phải tu về trí tuệ. Vậy tu về trí tuệ là tu như thế nào?
Trong kinh SONADANDA đã dạy: “Tôn giả Gotama, không thể được. Tôn giả Gotama, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh, nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ, nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời. Tôn giả Gotama, cũng như lấy bàn tay rửa bàn tay, lấy bàn chân rửa bàn chân cũng vậy”. Ở đoạn kinh này đã xác định cho chúng ta thấy tu về trí tuệ tức là phải tu về giới luật. Giới luật là đức hạnh của tu sĩ và cư sĩ, nếu ta không tu về giới luật thì chúng ta không có trí tuệ. Cho nên, lời dạy “Tu về trí tuệ”, tức là tu tập về giới luật, tu về giới luật tức là sống đúng đời sống phạm hạnh của một vị thánh tăng, sống đúng đời sống phạm hạnh của một vị thánh tăng là trí tuệ giải thoát của đạo Phật. Như vậy, đức Phật mới nhắc nhở chúng ta nhớ đừng quên phải chăm lo tu về trí tuệ.
Tu về trí tuệ không phải là ở chỗ học hỏi cho thông suốt tam tạng thánh điển hay có nhiều cấp bằng Tiến sĩ mà chỉ là người biết sống và giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, luôn luôn lúc nào cũng thấy sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt. Chính người tu sĩ và cư sĩ biết giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, đó là người trí tuệ, người trí tuệ là người biết sống đời sống ly dục, ly ác pháp, sống đời sống ly dục, ly ác pháp tức là đã nhập Bất Ðộng Tâm. Ngược lại, người có cấp bằng cao và thông suốt tam tạng thánh điển mà sống phạm giới, phá giới thì người ấy không được gọi là người có trí tuệ, theo Phật giáo thì người ấy là người vô minh, người không hiểu biết chánh kiến.
Người nhập Sơ Thiền là người sống đúng phạm hạnh của một vị tỳ kheo đệ tử của đức Phật, người ấy không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật, người ấy sống ba y một bát, ngày một bữa đi xin ăn, cuộc sống trầm lặng độc cư một mình như nước hồ mùa thu, người ấy là người phạm hạnh, bậc Trưởng Lão, Thánh Tăng; người ấy là người đức hạnh thánh thiện vì đã ly dục ly ác pháp, người ấy xứng đáng là thầy của chúng ta, vì đức Phật đã xác định: “Giới luật là thầy của các vị tỳ kheo”. Vì thế, người nào sống đúng giới luật là thầy của chúng ta dù người đó chỉ là một vị Sa Di, một cư sĩ, còn ngược lại dù vị đó là một vị tỳ kheo Thượng Tọa, Hòa Thượng có hạ lạp cao, có học thức rộng, thông suốt tam tạng kinh điển mà giới luật không nghiêm chỉnh thì không phải là thầy của chúng ta.
Như trên đã nói tu về trí tuệ, tức là tu về giới luật, tu về giới luật tức là tu về thiền định, như vậy tu về thiền định tức là tu về trí tuệ, chứ không phải thiền định chăn trâu, kiến tánh thành Phật, đốn ngộ tiệm tu, hay là tham công án, tham thoại đầu, phình xẹp Minh Sát hoặc luyện bùa, niệm chú, tụng kinh, niệm Lục Tự Di Ðà, v.v... mà có thiền định.
Từ giới hạnh là trí tuệ, từ trí tuệ là giới hạnh, đó là giai đoạn tu tập trí tuệ thứ nhất về giới luật của đạo Phật mà tất cả các vị tu sĩ Phật giáo, không phân biệt tỳ kheo tăng, ni và cư sĩ, tất cả đều phải lấy giới luật làm thầy, vì giới luật là trí tuệ của người tu sĩ Phật giáo.
Khi tu tập ở giai đoạn thứ hai trí tuệ là thiền định, thiền định là trí tuệ, từ trí tuệ là thiền định, thiền định là trí tuệ đó là giai đoạn tu tập trí tuệ thứ hai về giới, định, tuệ của đạo Phật. Trong kinh SONADANDA đức Phật đã dạy: “...Vị ấy chứng và trú Sơ Thiền… chứng và trú đệ Nhị Thiền… đệ Tam Thiền… chứng và trú đệ Tứ Thiền… Này Bà La Môn như vậy là trí tuệ”. (Trường Bộ kinh tập I trang 223).
Ở đây chúng ta thấy đức Phật đã xác định rõ ràng: “giới luật là trí tuệ, là thiền định; thiền định là giới luật, là trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới luật, có thiền định; người có giới luật nhất định có trí tuệ, có thiền định; người có thiền định nhất định có giới luật và có trí tuệ”. Ðạo Phật tu tập như vậy, nên đức Phật mới nhắc nhở chúng ta nhớ đừng quên, phải lo tu về trí tuệ. Người nhập Sơ thiền là người sống đúng phạm hạnh của một vị tỳ kheo đệ tử của đức Phật, người ấy không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật.
Từ đó, chúng ta suy ra, lời dạy trên đây của đức Phật, chúng ta biết mình phải tu trí tuệ, tức là tu giới luật và Tứ Thánh Ðịnh. Tứ Thánh Ðịnh là trí tuệ của đạo Phật, nếu người không nhập được Tứ Thánh Ðịnh thì không thể gọi là trí tuệ về thiền định.
Chúng ta học được những điều rất hay về trí tuệ của đạo Phật. Mới vào đạo, chúng ta học trí tuệ về giới luật. Sau khi trí tuệ về giới luật thành tựu, ta làm chủ được tâm ta, tức là ta đã ly dục, ly ác pháp, ta đã ly dục, ly ác pháp là tâm ta bất động trước các pháp và các cảm thọ. Khi tâm ta ly dục, ly ác pháp là tâm ta đã thanh tịnh, từ đây, ta tiếp tục tu tập trí tuệ về thiền định. Sau khi trí tuệ về thiền định thành tựu, ta làm chủ được thân ta, tức là ta làm chủ được già, bịnh, chết do ta tịnh chỉ các hành trong thân.
Khi ta thành tựu trí tuệ thiền định xong, ta tiếp tục tu tập trí tuệ về Tam Minh. Sau khi trí tuệ Tam Minh thành tựu, chúng ta chấm dứt nguyên nhân tái sanh luân hồi, tức là ta chỉ còn có một đời sống này mà thôi.
Trong kinh Sonadanda dạy: “Tâm hướng đến tri kiến... Này Bà La Môn như vậy là trí tuệ” (Trường Bộ kinh tập I trang 223). Ðoạn kinh này đức Phật dạy: “Tam Minh là trí tuệ, trí tuệ là Tam Minh, người có trí tuệ, tức là có Tam Minh, người có Tam Minh, tức là có trí tuệ”. Ðây là trí tuệ vô lậu, người có trí tuệ này là người đã đi suốt quảng đường của đạo Phật “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa” (Trường Bộ kinh tập I, trong kinh Sa Môn Quả trang 155).
Ðây là ba giai đoạn tu tập trí tuệ của đạo Phật bằng lộ trình “Giới, Ðịnh, Tuệ”, ngoài lộ trình này, không bao giờ còn có một lộ trình nào khác nữa, để tìm tu có trí tuệ giải thoát.
Page 4
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 3, TG. 2010, tr. 35-50)link sách: NLGPD, tập 3
LỜI PHẬT DẠY
1- Tín căn cần tu tập “Tứ Chánh Cần”.2- Tấn căn cần tu tập “Tứ Chánh Cần”.3- Niệm căn cần tu tập “Tứ Niệm Xứ”.4- Ðịnh căn cần tu tập “Tứ Thánh Ðịnh”.5- Tuệ căn cần tu tập “Tam Minh”.
CHÚ GIẢI:
Ở đây đức Phật dạy có năm căn cần phải tu tập. Vậy năm căn là gì? Năm căn là năm cội gốc vững chắc trên đường tu tập đi đến giải thoát hoàn toàn. Năm căn gồm có:
1/ Tín căn
2/ Tấn căn
3/ Niệm Căn
4/ Ðịnh căn
5/ Tuệ căn
TÍN CĂN
Tín căn nghĩa là gì? Tín là lòng tin; căn là cội gốc. Vậy tín căn có nghĩa là cội gốc của lòng tin. Muốn có được cội gốc của lòng tin thì phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần.
Tứ Chánh Cần là phương pháp tu tập ngăn và diệt các ác pháp, để rồi luôn sống và tăng trưởng trong các thiện pháp. Ðó là một phương pháp chứng nghiệm kết quả thực tế giải thoát ngay liền tức thời. Vì tu tập có kết quả giải thoát ngay liền, nên mọi người bắt đầu tu theo Phật giáo là tin tưởng ngay giáo pháp này. Tin tưởng ngay giáo pháp này là cội gốc của lòng tin (tín căn).
Muốn được vậy, thì hằng ngày chúng ta nên sống trong chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Có sống được như vậy, thì chúng ta ngăn và diệt được ác pháp, khiến cho tất cả ác pháp không tác động vào thân, tâm chúng ta được. Khi ác pháp không tác động vào thân, tâm chúng ta được, thì đó là trạng thái bất động tâm. Trạng thái bất động tâm là trạng thái giải thoát, tương ưng với chư Phật và A La Hán. Khi tu tập đạt được kết quả như vậy, đó là cội gốc của lòng tin. Cội gốc của lòng tin tức là tín căn.
Như vậy, muốn có tín căn thì cần phải tu tập “Tứ Chánh Cần”, nói cách khác cho dễ hiểu hơn, là muốn có niềm tin sâu với Phật Pháp thì phải tu tập “Tứ Chánh Cần”. Tu tập “Tứ Chánh Cần” tức là tu tập lòng tin với Phật giáo.
Bởi vì tu tập Tứ Chánh Cần là có kết quả giải thoát ngay liền khiến cho thân, tâm sống thanh thản, an lạc và vô sự, không còn phiền não, khổ đau hay giận hờn, thương ghét, v.v… có tu tập được như vậy thì mới có lòng tin sâu sắc. Cho nên, lòng tin của Phật giáo, không phải là lòng tin suông; không phải là lòng tin trong mơ mộng ảo tưởng; không phải lòng tin mù quáng; không phải lòng tin trong mơ hồ, trừu tượng, ảo giác mà tin bằng cách chứng nghiệm chân thật mình đã cảm nhận được tâm giải thoát thật sự. Có nghĩa là tâm mình đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi thật.
Lòng tin của Ðạo Phật là lòng tin chân thật. Tin một điều gì, thì điều đó phải có thật, phải được chứng nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe và cảm nhận được một cách rõ ràng, chứ không phải lòng tin hồ đồ như tin có cõi Trời, có linh hồn, có ma, có quỉ, có cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng, có Thần, Thánh, có đại ngã, tiểu ngã, có Phật tánh, có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, v.v... Tin như vậy là mê tín, là lạc hậu, tin mà không căn cứ vào đâu cả, tin mà không có bằng chứng cụ thể. Ðó là tin trong mê muội; trong vô minh; trong ngu si; trong mù quáng; niềm tin không có trí tuệ, v.v... Tin như vậy không thể gọi là tín căn. Cho nên đức Phật dạy: Muốn có cội gốc lòng tin, thì phải tu tập Tứ Chánh Cần. Tu tập Tứ Chánh Cần tức là tu tập lòng tin Phật giáo. Tin một điều thấy, hiểu, biết và cảm nhận có thật.
TẤN CĂN
Tấn căn nghĩa là gì? Tấn là tinh tấn, siêng năng; căn là cội gốc. Vậy tấn căn có nghĩa là cội gốc của lòng tinh tấn, siêng năng.
Vậy muốn có được cội gốc tinh tấn, siêng năng thì phải tu tập pháp môn gì? Ở đây đức Phật dạy: phải tu tập “Tứ Chánh Cần”. Tại sao Tứ Chánh Cần giúp cho chúng ta tu tập siêng năng? Bởi, Tứ Chánh Cần là một pháp môn mang đến cho chúng ta có một đời sống giải thoát, đem đến cho chúng ta có sự an vui thật sự ngay liền, một kết quả cụ thể rõ ràng, mà không thể ai phủ nhận được. Càng tu tập càng thích tu hơn, đó là tấn căn.
Ví dụ 1: Một nhà nông làm ruộng, có làm ruộng là có lúa ăn. Vì có lúa ăn nên nhà nông siêng năng làm.
Ví dụ 2: Tâm tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham. Tham là một ác pháp, ác pháp sẽ đem đến cho tâm tôi khổ đau, không được an vui. Do biết như vậy, tôi liền tác ý diệt ác pháp. Khi diệt ác pháp xong, tâm tôi không còn tham nữa. Tâm không còn tham nữa là tâm giải thoát, là hết khổ đau. Do kết quả giải thoát an vui thật sự như vậy, nên chúng tôi rất hoan hỷ siêng năng, tinh tấn tác ý để ngăn và diệt những ác pháp hằng ngày. Nhờ có tác ý ngăn và diệt ác pháp, nên ác pháp không tác động vào thân tâm được. Vì thế, chúng tôi luôn luôn được sống trong sự thanh thản, an vui và hạnh phúc. Do sự tu tập có lợi ích thiết thực như vậy cho đời sống nên chúng tôi siêng năng tu tập.
Cũng như làm ăn có khá giả, nên chúng tôi siêng năng làm ăn. Phải không các bạn?
Vì kết quả lợi ích như vậy, nên lòng ham muốn siêng năng phát sinh mạnh mẽ. Nhưng để muốn thể hiện lòng siêng năng, tinh cần này thì chỉ có tu tập “Tứ Chánh Cần”. Tứ Chánh Cần là cội gốc siêng năng, tinh tấn. Do vậy đức Phật dạy: “Tấn căn cần tu tập Tứ Chánh Cần”.
NIỆM CĂN
Niệm căn nghĩa là gì? Niệm là những hành động nơi thân của chúng ta, căn là cội gốc. Vậy niệm căn có nghĩa là cội gốc niệm nơi mỗi hành động của thân chúng ta. Có người hiểu sai lầm niệm là ý niệm, tâm niệm, nên vì thế mới có pháp môn niệm Phật, niệm tâm, niệm chú, niệm không, v.v... Vậy muốn có được cội gốc niệm chân chánh, thì phải tu tập pháp môn “Tứ Niệm Xứ ”.
Chữ “Niệm” thông thường người ta hiểu nghĩa như: hồi niệm, ức niệm hay ý thầm niệm: “Nam mô A Di Ðà Phật” hay “Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” như trên chúng tôi đã nói.
Theo quan niệm của Ðạo Phật, chữ niệm có nghĩa là hành động của thân. Quan niệm nghĩa như vậy, là để nương vào thân hành của mình, xả tâm ly dục ly ác pháp. Cho nên, mỗi hành động của thân là mỗi niệm xả tâm. Như vậy mỗi niệm thân hành xả tâm như thế nào?
Ðể trả lời câu hỏi này, chúng tôi lấy thân hành hơi thở làm niệm xả tâm.
Ví dụ: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Câu này trong kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy. Chúng tôi xin cho một câu tác ý xả tâm khác để dễ hiểu hơn: “Tâm phải đoạn diệt tham, sân, si tôi biết tôi đang thở”. Ðó là dùng niệm thân hành nội xả tâm.
Thưa các bạn! Ðọc đến đây, các bạn có thể nhận ra pháp hành của Phật giáo không giống các pháp hành của ngoại đạo Bà La Môn Ðại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Ðộ Tông và Nam Tông, v.v… rồi chứ?
Ðạo Phật là đạo diệt ngã, xả tâm, ly dục,ly ác pháp, nên ngoại đạo và các nhà học giả không thể hiểu được nghĩa này. Vì thế, họ mới sản xuất ra những pháp ức chế tâm như: Sổ tức quán, Quán niệm hơi thở, Minh Sát Tuệ, Niệm Phật, Tụng kinh, Trì chú, ngồi thiền Công Án, Tham Thoại Ðầu, chăn trâu, tri vọng, v.v…
Muốn có được niệm căn thì trên Tứ Niệm Xứ phải ngăn ác diệt ác pháp bằng niệm thân hành. Vì thế đức Phật dạy: “Niệm căn cần tu tập “Tứ Niệm Xứ”. Chỉ có Tứ Niệm Xứ mới tu tập được niệm căn, ngoài Tứ Niệm Xứ không đâu có chánh niệm, vì chánh niệm là Tứ Niệm Xứ.
Thưa các bạn! Bây giờ các bạn đã rõ: Niệm căn là Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ là chánh Niệm của Phật giáo. Như vậy các bạn không còn lầm lạc pháp của Phật và pháp của ngoại đạo. Phải không các bạn?
Thân Hành Niệm là một niệm có sẵn trong thân hành. Vì thế, người tu hành cần nương vào đó mà tu tập chứ đừng tự đặt ra niệm khác mà làm sai lạc Phật pháp. Ngoài thân hành ra mà dùng niệm khác mà tu tập thì chẳng khác nào lấy đá đè cỏ, nên nó không thể thành cội gốc niệm căn được.
ĐỊNH CĂN
Ðịnh căn nghĩa là gì? Ðịnh là sự bất động nơi thân và tâm của chúng ta, căn là cội gốc. Vậy định căn có nghĩa là nơi cội gốc im lặng, bất động của thân tâm. Có người hiểu sai lầm định căn, là tâm không vọng tưởng, nên cố tu tập ức chế tâm, khiến cho tâm không có niệm khởi, như Thiền Ðông Ðộ, Ðại Thừa… Hiểu Phật Pháp một cách sai lệch, nên họ dùng ý niệm, tâm niệm để tu tập. Vì thế, mới có pháp môn niệm Phật, niệm tâm, niệm chú... Vậy muốn có được cội gốc định thì phải tu tập pháp môn Tứ Thánh Ðịnh, như trên đức Phật đã dạy: “Ðịnh căn cần tu tập Tứ Thánh Ðịnh”. Vậy tu tập Tứ Thánh Ðịnh như thế nào? Khi nào chúng ta tu tập viên mãn Tứ Niệm Xứ, có nghĩa là lúc bấy giờ tâm chúng ta bất động trước các pháp và các cảm thọ, vì nó đã lìa dục và bất thiện pháp nên trong nội tâm có bảy năng lực Giác Chi. Khi biết tâm có đủ bảy Giác Chi thì dùng chúng mà tu tập Tứ Như Ý Túc.
Muốn tu tập Tứ Như Ý Túc thì đầu tiên chúng ta phải tu tập Ðịnh Như Ý Túc. Tu tập Ðịnh Như Ý Túc thì dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Ðó là loại định đầu tiên trong Tứ Thánh Ðịnh. Ở đây chúng tôi xin lưu ý các bạn, hầu hết các nhà học giả xưa và nay đều hiểu lầm lạc về Sơ Thiền, họ cho rằng khi nhiếp tâm không niệm khởi là nhập Sơ Thiền. Ðó là hiểu sai nên sau này không còn có người nhập được Tứ Thánh Ðịnh nữa, chính cái hiểu sai này của người xưa mà từ đó con đường nhập vào Tứ Thánh Ðịnh đã bị lấp mất. Do hiểu sai, tu tập sai nên người sau làm mất dấu vết của Phật và chúng Thánh Tăng đi.
Một khi nhập được Sơ Thiền là chúng ta đã có cội gốc chánh định (định căn). Từ đó chúng ta mới có định thật sự. Còn chưa nhập được Sơ Thiền thì chúng ta chưa có cội gốc định. Chưa có cội gốc định thì làm sao nhập định được? Vậy mà có người vỗ ngực xưng tên mình đã nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền… Thật là tội nghiệp cho những người ngu mà không biết mình ngu! Muốn nhập Tứ Thánh Ðịnh thì phải có đủ bảy năng lực của Giác Chi. Có đủ bảy năng lực Giác Chi thì mới tu tập Ðịnh Như Ý Túc. Có tu tập Ðịnh Như Ý Túc thì mới nhập được Sơ Thiền, chứ đâu phải muốn nhập Sơ Thiền là lúc nào cũng nhập được. Muốn nhập Sơ Thiền phải có đủ điều kiện của Chánh Niệm. Nếu Chánh Niệm tu tập chưa đủ điều kiện thì không bao giờ nhập được Sơ Thiền. Cho nên, chúng ta phải hiểu Tứ Niệm Xứ chưa viên mãn thì đừng nói đến Sơ Thiền, Nhị Thiền… Phải nhập cho được Nhị Thiền mới có thể lên từng bậc định cao hơn. Muốn nhập Nhị Thiền phải dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi tu tập Ðịnh Như Ý Túc xả trạng thái Sơ Thiền, khi nào xả hết trạng thái Sơ Thiền thì mới nhập được Nhị Thiền và muốn tiếp tục nhập các định cao hơn thì cũng phải dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi và Ðịnh Như ý Túc để xả và nhập định. Do có năng lực của Trạch Pháp Giác Chi nên đức Phật dạy: “Nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền không có khó khăn, không có mệt nhọc”.
Ðây chỉ có Tứ Thánh Ðịnh là những pháp môn tu tập tạo ra cội gốc định (định căn) chân chánh của Phật giáo. Nếu ai tu tập không đúng những pháp môn trên đây là họ đã tu tập theo tà thiền, tà định, chứ không phải là chánh định của Phật giáo.
Tứ Thánh Ðịnh là định căn, cội gốc của thiền định. Ngoài Tứ Thánh Ðịnh ra, đi tìm cội gốc thiền định thì không bao giờ có thiền định.
Tại sao vậy? Tại vì thiền định của Ðạo Phật nhắm vào sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chuyển hóa nhân quả, chấm dứt luân hồi, chứ không phải là những loại thiền định nhắm vào thần thông, phép thuật, biến hóa, tàng hình để lừa đảo mọi người của ngoại đạo. Bởi vậy muốn có cội gốc thiền định này thì Tứ Thánh Ðịnh cần phải tu tập. Do đó, đức Phật thường nhắc nhở các đệ tử của mình: “Ðịnh căn cần tu tập Tứ Thánh Ðịnh”.
TUỆ CĂN
Tuệ căn nghĩa là gì? Tuệ là những hành động tâm thức của chúng ta; căn là cội gốc. Vậy Tuệ căn có nghĩa là cội gốc trí tuệ nơi tâm thức. Có người hiểu sai lầm trí tuệ là ý thức, là sự hiểu biết của ý thức và còn cho sự hiểu biết của ý thức là trí tuệ. Vì thế, mới có pháp môn định, tuệ song tu. Sự thật định chưa có thì làm sao có tuệ. Vậy nên định, tuệ song tu chỉ là điên đảo.
Có người còn cho cái biết (ý thức) mọi sự việc trong hiện tại không khởi theo sáu trần là Tánh giác, Phật tánh, v.v… Thật là điên đảo tưởng!
Theo quan niệm của Phật giáo Nguyên Thuỷ thì ý thức không thể gọi là trí tuệ, là Phật Tánh, tánh giác mà gọi là tri kiến, bởi vì sự hiểu biết của ý thức còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Ngược lại trí tuệ của Phật giáo thì vượt khỏi không gian và thời gian. Trí tuệ vượt không gian và thời gian thì chỉ có trí tuệ Tam Minh. Như vậy có trí tuệ Tam Minh thì phải tu tập Tam Minh. Do đó đức Phật dạy: “Tuệ căn cần tu tập Tam Minh”. Vậy tu tập Tam Minh như thế nào?
Muốn tu tập Tam Minh thì phải nhập Tứ Thánh Ðịnh; muốn nhập Tứ Thánh Ðịnh thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ; muốn tu tập Tứ Niệm Xứ thì phải tu tập Tứ Chánh Cần; muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì phải tu tập bốn loại định:
1/ Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác
2/ Ðịnh Vô Lậu
3/ Ðịnh Sáng Suốt
4/ Ðịnh Niệm Hơi Thở
Ðịnh Niệm Hơi thở gồm có mười tám đề mục:
1- Hít, thở
2- Dài, ngắn
3- Cảm giác toàn thân
4- An tịnh thân hành
5- Cảm giác toàn tâm
6- An tịnh tâm hành
7- Quán thân vô thường
8- Quán thọ vô thường
9- Quán tâm vô thường
10- Quán các pháp vô thường
11- Quán ly tham
12- Quán ly sân
13- Quán từ bỏ tâm tham
14- Quán từ bỏ tâm sân
15- Quán đoạn diệt tâm tham
16- Quán đoạn diệt tâm sân
17- Quán tâm định tỉnh
18- Với tâm giải thoát
Trên đây là những pháp cần tu tập để đạt được Tam Minh hay nói cách khác, đó là những pháp tu Tam Minh.
Các bạn nên nhớ kỹ, trí tuệ Tam Minh là Tuệ căn của Phật giáo. Nhưng đức Phật dạy: “Giới sinh định. Ðịnh sinh tuệ”. Vậy giới luật các bạn có nghiêm chỉnh chưa? Giới luật chưa nghiêm chỉnh mà tu thiền định thì thiền định đó chỉ là thiền ảo tưởng các bạn có biết chăng?
Thưa các bạn! Các bạn thấy giáo pháp Ðại Thừa Bà La Môn, có tu sĩ nào nghiêm trì giới luật đâu mà tu tập đạt được Tam Minh? Họ chỉ tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu đau, tu bệnh, tu trở thành điên khùng mất trí, v.v…
Người tu theo Phật giáo chưa có trí tuệ Tam Minh thì chưa được xem là người có trí tuệ, chỉ có tri kiến giải thoát mà thôi. Tri kiến giải thoát là nhờ có giới luật. Nếu tri kiến không có giới luật thì tri kiến ấy là tri kiến phàm phu, tri kiến vô minh hay nói cho rõ hơn là tri kiến dục u tối. Thứ tri kiến này không được gọi là Tuệ căn. Cho nên, Tuệ căn ở đâu là Tam Minh ở đó, Tuệ căn là cội gốc của Tam Minh, Tam minh là pháp tu của Tuệ căn, Tuệ căn làm thanh tịnh Tam Minh, Tam Minh làm thanh tịnh Tuệ căn.
Tại sao chúng tôi bảo Tuệ căn làm thanh tịnh Tam Minh? Trước khi muốn hiểu câu này thì phải hiểu hai chữ Tuệ căn. Vậy Tuệ căn nghĩa là gì?
Như trên đã dạy Tuệ căn là 37 phẩm trợ đạo. Nhờ tu tập 37 phẩm trợ đạo mà trí tuệ Tam Minh mới xuất hiện.
Thưa các bạn! Các bạn có biết 37 phẩm trợ đạo là gì không? Khi nêu ra câu hỏi này các bạn sẽ cho chúng tôi khinh rẻ các bạn, vì ai cũng biết 37 phẩm trợ đạo là những pháp môn tu hành của Phật giáo Nguyên thủy. Nếu các bạn trả lời như vậy thì chúng tôi đâu có đưa ra câu hỏi này để làm gì?
Về giới luật của Phật mà các bạn thường nghe trong kinh Nguyên Thủy Phật dạy những bài kinh mang tên tựa đề như: kinh Tiểu Giáo Giới La Hầu La, Kinh Ðại Giáo Giới La Hầu La, kinh Giáo Giới Ca Chiên Diên, kinh Giáo Giới A Nan, v.v... Như vậy 37 phẩm trợ đạo là Giới Hành của Ðạo Phật, bởi vì 37 phẩm trợ đạo là pháp môn tu tập ngăn ác diệt ác pháp, ly dục diệt ngã xả tâm giúp cho tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là trí tuệ Tam Minh, đức Phật cho ví dụ: “Khi tâm thanh tịnh như nước hồ trong vắt, nhìn thấy đáy, rùa trạch cá tôm đều thấy cả, không có vật gì mà không thấy”. Khi thấy được như vậy là vì sao các bạn có biết không? Ðó là cái thấy biết của Tam Minh. Cái thấy biết của Tam Minh thì không có không gian trải dài và ngăn cách và không có thời gian chia cắt quá khứ, vị lai và hiện tại nên giống nước trong suốt như pha lê. Vì thế, chúng tôi mới bảo: “Tuệ căn làm thanh tịnh Tam Minh”.
Page 5
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích VHTT, tập 2, TG. 2010, tr. 184-224)link sách: VHTT, tập 2
1.- GIỚI THIÊU TỔNG QUÁT NHÓM GIỚI LUẬT THỨ HAI
Sau khi nghe đức Phật trình bày, kết quả chín giới đức, giới hạnh và giới hành của người tu sĩ Phật giáo thì vua A Xà Thế phải chấp nhận và ca ngợi tán thán những kết quả thiết thực hiện tại của Sa Môn hạnh là rất tuyệt vời. Vua A Xà Thế hỏi Phật:
“- Bạch Thế Tôn! Có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác nữa của hạnh Sa Môn, vi diệu hơn, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của Sa Môn vừa kể trên không?”.
Xin các bạn lưu ý câu hỏi trên đây của vua A Xà Thế. Chính do câu hỏi này mà từ đây về sau đức Phật trả lời những kết quả đức hạnh của người tu sĩ ngày càng vi diệu và thù thắng hơn.
Khi Vua A Xà Thế hỏi đức Phật như vậy thì đức Phật trả lời: “- Này Ðại vương hãy lắng nghe và khéo tác ý Ta sẽ giảng. Này Ðại vương thế nào là Tỳ kheo giới hạnh cụ túc? Ở đây, này Ðại vương, Tỳ kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, từ bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình. Như vậy là giới hạnh của vịấy trong giới luật”.
Ðức Phật vừa nêu lên nhóm giới luật thứ hai. Nhóm giới luật này gồm có 6 giới:
1- Từ bỏ sát sanh.
2- Tránh xa sát sanh.
3- Từ bỏ trượng bỏ kiếm.
4- Biết tàm quý.
5- Có lòng từ.
6- Biết thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình.
Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của sáu giới này như thế nào?
Muốn biết rõ giới đức, giới hạnh và giới hành của sáu giới này thì chúng ta lần lượt triển khai từng giới một để xác định nghĩa cho rõ ràng, ngõ hầu người sau mới biết đường lối tu theo giới luật đúng pháp của đức Phật.
2.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THỨ NHẤT: TỪ BỎ SÁT SANH
TỪ BỎ SÁT SANH là một hành động đạo đức hiếu sinh Làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về lòng yêu thương sự sống trên hành tinh này. Lòng yêu thương sự sống ấy là những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có sống được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH TỪ BỎ SÁT SANH
“TỪ BỎ SÁT SANH” là một giới đức để thực hiện đức hiếu sinh. Muốn thực hiện đức hiếu sinh thì các bạn phải hiểu nghĩa của giới này cho rõ ràng. Vậy từ bỏ sát sanh nghĩa là gì?
Từ: nghĩa là từ giã; bỏ: nghĩa là buông bỏ, hai danh từ ghép lại có nghĩa là buông xả không giữ lại, không làm nữa.
Sát: nghĩa là giết làm cho chết, làm cho mất sự sống; sanh: nghĩa là chúng sanh loài động vật.
Từ bỏ sát sanh nghĩa là bỏ hẳn những hành động làm cho loài động vật chết.
Hành động bỏ hẳn không làm cho chúng sanh chết tức là ÐỨC HIẾU SINH.
“TỪ BỎ SÁT SANH” là một hành động đạo đức không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Hành động ấy khởi sự bắt đầu cho lòng từ bi yêu thương mọi sự sống trên hành tinh này. Vì thế gọi là “ÐỨC HIẾU SINH”.
“TỪ BỎ SÁT SANH” là một hành động đạo đức cao quý tuyệt vời, khiến cho máu xương và nước mắt của chúng sanh không còn rơi đổ trên hành tinh này nữa.
“TỪ BỎ SÁT SANH” là tiếng kêu cứu từ lòng yêu thương của Phật giáo đối với sự sống của muôn loài trên hành tinh này. Lòng yêu thương ấy đã biến thành một đức hạnh sống của người tu sĩ Phật giáo. Vì thế “TỪ BỎ SÁT SANH” là nhiệm vụ trọng trách bổn phận của những người tu sĩ Phật giáo.
“TỪ BỎ SÁT SANH” các bạn phải hiểu nghĩa rõ ràng, đó là trách nhiệm bổn phận của các bạn rất nặng nề luôn luôn phải giữ gìn nghiêm chỉnh không được sát hại sự sống của muôn loài.
B.- GIỚI HẠNH HIẾU SINH TỪ BỎ SÁT SANH
Những người tu sĩ Phật giáo còn ăn thịt chúng sanh làm sao lại gọi là “TỪ BỎ SÁT SANH”. Ăn thịt chúng sanh là một hành động gián tiếp sát chúng sanh (có người ăn thịt chúng sanh thì mới có người giết chúng sanh). Bởi vậy ăn thịt chúng sanh là một hành động giết chúng sanh còn ghê gớm hơn người cầm dao giết. Giết chúng sanh bằng miệng của mình tức là ăn và nhai nuốt thịt chúng sanh trong miệng thật là ghê gớm, thật là ác tâm vô cùng. Ác như loài ác thú ăn thịt nhau và chẳng chút lòng thương nhau. Loài người mà giống như loài vật ác độc như vậy sao hỡi các bạn? Con người có tri kiến hiểu biết, có lòng thương yêu mà lại nỡ lòng nào nhai nuốt được thịt chúng sanh? Ôi! Thật là đau thương!
Các bạn có thấy chăng? Chúng ta là những con người, con người phải có tình cảm, phải có lòng yêu thương nhau. Có tình cảm, có lòng yêu thương sao lại nỡ nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh như thú vật vậy sao? Con người ăn thịt chúng sanh có tự xấu hổ không? Thưa các bạn! Nếu các bạn ăn thịt chúng sanh như vậy, các bạn có thấy mình là con thú ật ác độc không? Và hành động ác độc nỡ tâm nhai nuốt thịt chúng sanh như vậy, các bạn có thấy mình xứng đáng làm người không?
“TỪ BỎ SÁT SANH” là hành động biết thương yêu mình, biết từ bỏ sự đau khổ của chính bản thân mình, của những người khác và của tất cả chúng sanh.
“TỪ BỎ SÁT SANH” là hành động thương yêu luôn luôn muốn đem lại hạnh phúc cho nhau trong cuộc sống này, là hành động thương yêu sự sống của muôn loài, lúc nào cũng không muốn thấy chúng sanh khổ đau.
“TỪ BỎ SÁT SANH” là hành động đức hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư sĩ.
“TỪ BỎ SÁT SANH” là từ bỏ những hành động độc ác của chính bản mình. Các bạn có biết không?
Tóm lại, người biết từ bỏ sát sanh là người biết ngăn ngừa và diệt trừ các ác pháp; người biết từ bỏ sát sanh là người biết chuyển đổi nhân quả, khiến cho nhân quả không còn tác động vào thân tâm mình được. Vì thế, đời sống của mình mới được thanh thản, an lạc và vô sự.
C.- GIỚI HÀNH HIẾU SINH TỪ BỎ SÁT SANH
“TỪ BỎ SÁT SANH” là câu trạch pháp như lý tác ý để dẫn dắt tâm triển khai lòng yêu thương tất cả muôn loài. Và hành động tác ý đó bắt đầu chuyển biến cho đời sống chân thiện mỹ của cuộc đời các bạn.
“TỪ BỎ SÁT SANH” là một Phạm hạnh của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư sĩ, vì thế mọi người cần phải sống đúng Phạm hạnh này để xứng đáng làm người, nếu sống không được vậy thì các bạn chẳng khác nào là loài ác thú ăn thịt nhau, các bạn sẽ không còn là con người nữa. Các bạn có biết không?
3.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THỨ HAI: TRÁNH XA SÁT SANH
A.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH “TRÁNH XA SÁT SANH” là một hành động đạo đức hiếu sinh Làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về lòng yêu thương sự sống trên hành tinh này. Lòng yêu thương ấy là những đức hạnh làm Người làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
“TRÁNH XA SÁT SANH” là một nhóm từ quá cô đọng dạy về đức hiếu sinh, khiến cho người đọc rất khó hiểu. Vậy tránh xa sát sanh nghĩa là gì?
Muốn hiểu nghĩa của giới đức này thì phải hiểu nghĩa hai từ “tránh xa”. Tránh xa có nghĩa là tránh né và xa lìa. Tránh né xa lìa sát sanh có 3 vị trí khác nhau:
1- Tránh né và xa lìa người giết hại chúng sanh.
2- Tránh né và xa lìa nơi giết hại chúng sanh.
3- Tránh né và xa lìa những hành động và nghề nghiệp sát sanh.
Tránh né và xa lìa những người giết hại chúng sanh; tránh né và xa lìa những hành động giẫy giụa tuyệt vọng, máu đổ thịt rơi của chúng sanh và không nghe tiếng kêu la thảm thiết trước khi tắt thở.
Do hành động tránh xa không thấy, không nghe những sự đau khổ, đó là đức hạnh từ bi của giới này. Do đức hạnh giới từ bi “TRÁNH XA SÁT SANH” này, người tu sĩ Phật giáo phải chọn chỗ ở thanh tịnh thích hợp nơi thanh vắng không ở gần người giết hại và ăn thịt chúng sanh; không ở gần nơi săn bắn, nơi đánh cá chài lưới, v.v... Ca dao có câu: “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng”, gần nơi người giết hại chúng sanh thì sẽ dễ bị đắm nhiễm những hành động ác ấy. Vì thế, “TRÁNH XA SÁT SANH” là một đạo đức làm người có ích lợi rất lớn cho sự sống chung trên hành tinh này, nếu không giữ gìn những đức hạnh này thì những tai họa sẽ giáng xuống trên đầu loài người nhưng có ai ngờ.
B.- GIỚI HẠNH HIẾU SINH TRÁNH XA SÁT SANH
Xưa bà Mạnh Mẫu ba lần dời nhà, vì muốn cho con trẻ được giáo dục những đức hạnh tốt nên phải tránh xa nơi thiếu đức hạnh, nơi hành những nghề nghiệp ác.
Những nơi và những người giết hại chúng sanh là những nơi và những người các bạn không nên ở gần, đó là lời dạy của đức Phật.
“TRÁNH XA SÁT SANH”. Từ lời dạy đơn thuần ấy, nó mang đầy đủ ý nghĩa một đức hạnh từ bi của Phật giáo. Vì thế, nó là một oai nghi tế hạnh của người tu hành nói riêng, còn nói chung của mọi người, nó là những hành động đạo đức yêu thương sự sống của muôn loài. Cho nên, nó trở thành giới hạnh “TRÁNH XA SÁT SANH”.
Tóm lại, giới hạnh “TRÁNH XA SÁT SANH” là giới hạnh ngăn ngừa những sự ô nhiễm ác độc thường giết hại chúng sanh trở thành một thói quen ác khó bỏ. Người tu sĩ Phật giáo cần phải hiểu biết nghĩa lý đạo đức và lợi ích của nó cho rõ ràng, nhờ hiểu nghĩa lý đạo đức và lợi ích của nó rõ ràng thì mới giữ gìn trọn vẹn đức hạnh từ bi đối với sự sống của muôn loài.
Vì đức hạnh từ bi thương yêu đối với sự sống của muôn loài, nên không riêng người tu sĩ Phật giáo, mà tất cả mọi người có tôn giáo hay không tôn giáo đều phải thực hiện sống đúng đức hạnh lòng từ bi yêu thương này, vì lợi ích cho mình cho muôn loài trong cuộc sống chung trên hành tinh này vậy.
C.- GIỚI HÀNH HIẾU SINH TRÁNH XA SÁT SANH
Muốn giữ gìn đức hạnh hiếu sinh này thì hằng ngày các bạn nên nhắc tâm mình: “Tránh xa sát sanh là một hành động thể hiện lòng từ bi yêu thương đối với tất cả chúng sanh, ta phải luôn luôn khắc ghi trong lòng” hoặc các bạn sẽ tác ý câu như sau: “Tránh xa sát sanh là một hành động thể hiện lòng từ bi yêu thương để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh”.
“TRÁNH XA SÁT SANH” là một hành động nói lên được bản tính nhân đạo của một người biết sống thương mình, thương người và thương tất cả chúng sanh. Một hành động xứng đáng làm Người, làm Thánh mà mọi người trên hành tinh này ai cũng quý mến và kính yêu.
4.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THỨ BA: BỎ TRƯỢNG, BỎ GẬY
“BỎ TRƯỢNG, BỎ GẬY” là một hành động đạo đức hiếu sinh Làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về lòng yêu thương sự sống trên hành tinh này. Lòng yêu thương ấy là những đức hạnh của những bậc Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH BỎ TRƯỢNG, BỎ GẬY
“BỎ TRƯỢNG, GẬY” là một nhóm từ quá cô đọng dạy về đức hạnh hiếu sinh, khiến cho người đọc rất khó hiểu. Vậy “BỎ TRƯỢNG, GẬY” nghĩa là gì?
Trượng là thanh cây bằng gỗ suông dài 3m33 dùng làm vũ khí đánh nhau hay dùng để đánh trị những người có tội trong thời phong kiến xưa.
Gậy là một thanh cây cong qua uốn lại giống như con rắn có mắt gút. Người già yếu thường dùng:
1- Ðể chống khi bước đi.
2- Ðể phòng thân khi gặp ác thú.
Ngày xưa trượng, gậy là hai loại vũ khí dùng để đánh và giết hại chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ và chết.
Hành động bỏ trượng, gậy là đức hạnh hiếu sinh. Người nào biết bỏ những vũ khí làm đau khổ và giết hại chúng sanh là người có những hành động thương yêu chính bản thân của mìnhï, vì không làm khổ chúng sanh tức là không tạo quả khổ cho bản thân mình.
Bỏ trượng, gậy, kiếm, đao là đức hạnh cao thượng biết thương mình, không làm khổ mình; biết thương người, không làm khổ người; biết thương chúng sanh, không làm khổ chúng sanh. Những hành động này thật đáng cho mọi người kính trọng và yêu quý. Vì sống trong đời mà biết từ bỏ trượng, gậy, kiếm, đao là một hành động mang lại sự bình an cho muôn loài, thật quý trọng và cao thượng.
Kính thưa các bạn! Hành động bỏ trượng, gậy, đao, kiếm trong mọi người chúng ta ai cũng làm được. Phải không các bạn? Vậy mà làm không được là tại sao các bạn??? Bỏ trượng, gậy, đao, kiếm, súng đạn... là hết đau khổ, là hạnh phúc biết bao, là Thiên Ðàng, Cực Lạc... Sao các bạn không làm được?
Như vậy hành động bỏ trượng, gậy, đao, kiếm và những vũ khí giết người, giết loài vật đâu có khó khăn, đâu có mệt nhọc. Thế mà ít ai làm được. Tại sao vậy???
Vì mọi người không muốn bỏ, chưa có quyết tâm bỏ, vì còn ưa thích ăn thịt chúng sanh. Còn ưa thích ăn thịt chúng sanh thì phải còn giết hại chúng sanh. Còn giết hại chúng sanh là còn làm khổ mình, không biết thương mình; còn làm khổngười, không biết thương người; còn làm khổ chúng sanh, không biết thương chúng sanh và như vậy là người thiếu đạo đức lòng thương yêu sự sống của nhau. Phải không các bạn?
B.- GIỚI HẠNH HIẾU SINH BỎ TRƯỢNG, BỎ GẬY
“BỎ TRƯỢNG, GẬY, ÐAO, KIẾM, VŨ KHÍ GIẾT NGƯỜI, GIẾT CHÚNG SANH là bỏ tâm hung ác. Bỏ tâm hung ác là chuyển hóa sự đau khổ nơi thân tâm của mình, làm cho mình hết khổ đau.
Bởi người đời không biết nên thường hay giết hại chúng sanh ăn thịt, giết hại chúng sanh ăn thịt thì sẽ quen tay, thấy máu rơi thịt đổ thì không sợ hãi mà còn ưa thích. Do đó, suy ra người giết hại chúng sanh được thì giết hại người được.
Cho nên, chỉ có một vài chỉ vàng, một vài triệu bạc tiền Việt Nam là có thể họ giết người, cướp của một cách dễ dàng. Trường hợp ấy xảy ra hằng ngày mà báo chí điện đài thông tin khắp nơi.
Kinh dạy: “Nếu cả chúng sanh đừng sát sanh. Mười phương đâu có động binh đao. Nhà nhà trai gái đều tu thiện. Thiên hạ lo chi không thái bình”.
Tóm lại, bỏ trượng, gậy, đao, kiếm, vũ khí giết hại và làm đau khổ chúng sanh, đó là hành động đạo đức hiếu sinh cao thượng mà chỉ có con người mới thực hiện được.
C.- GIỚI HÀNH HIẾU SINH BỎ TRƯỢNG, BỎ GẬY
Khi học về đạo đức hiếu sinh của giới này, nếu những người còn giết hại và ăn thịt chúng sanh thì họ là những người vô đạo đức hiếu sinh, và nhất là họ vô đạo đức thương yêu bản thân, gia đình và quê hương của họ. Tại sao vậy? Vì họ còn làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai tức là họ làm khổ bản thân họ, làm khổ những người thân thương trong gia đình và nhiều khi gây mất trật tự an ninh xã hội vì sân hận cãi cọ, đánh nhau, v.v…
Vậy các bạn hãy lưu ý và cố gắng từ bỏ những hành động ác vô đạo đức, mất tính nhân bản thương yêu của con người.
Muốn giữ gìn giới luật này cho nghiêm chỉnh thì hằng ngày các bạn nhớ tác ý câu này: “Tất cả chúng sanh đều có sự sống bình đẳng như nhau, ta phải thương yêu như thương yêu thân mình, đừng làm đau khổ và giết hại chúng. Chúng thật tội nghiệp!”.
5.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THỨ TƯ: BIẾT TÀM QUÝ
“BIẾT TÀM QUÝ” là một hành động đạo đức thuộc về tâm. Khi làm những điều sai trái lỗi lầm là biết tàm quý thì mới xứng đáng làm Người, làm Thánh, nó là một đức hạnh không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về đức tàm quý để hối cải sửa những lỗi lầm. Ðức tàm quý để hối cải sửa những lỗi lầm là những đức hạnh cao thượng mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Có sống được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- GIỚI ĐỨC BIẾT TÀM QUÝ
Trước khi muốn tu học và giữ gìn giới đức này thì phải hiểu nghĩa hai chữ tàm quý. Vậy hai chữ tàm quý bao gồm những là gì?
Tàm quý nghĩa là biết xấu hổ, khi làm một việc sai quấy, làm cho người khác khổ, mình khổ và cả hai đều khổ, đó là những việc làm không đúng với đạo đức nên lương tâm cắn rứt, dày vò không dám nhìn mặt ai.
Trong sách NHỮNG LỜI PHẬT DẠY có dạy hai pháp “TÀM QUÝ”. Một người tu theo Phật giáo mà không biết hai pháp tàm quý này thì không bao giờ tu tập có kết quả thực hiện đạo đức được. Vì vốn pháp của Phật là thiện, nếu các bạn làm một điều ác mà không biết xấu hổ thì các bạn không bao giờ sửa sai. Cho nên, biết xấu hổ là một hành động đạo đức tuyệt vời để ngăn và diệt ác pháp trong pháp môn Tứ Chánh Cần đã dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp , sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”.
Con người biết xấu hổ nên không giống loài cầm thú nhờ đó mà cang thường đạo lý mới thực hiện. Nếu không biết xấu hổ thì con người sẽ không mặc quần áo, ở truồng như loài vật. Xin các bạn hãy đọc lại đoạn kinh tàm quý trong sách Những Lời Gốc Phật Dạy tập III sẽ thấu rõ hơn. Ở đây, chúng ta đang học tu về giới tàm quý. Giới tàm quý tức là giới đức biết xấu hổ khi làm một điều gì sai quấy lỗi lầm hay nói cách khác là làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai thì rất xấu hổ.
Khi các bạn làm một điều đau khổ cho người hay loài vật, hoặc làm chết một chúng sanh thì các bạn nên tự xấu hổ với hành động ác thiếu đạo đức về lòng thương yêu mình và chúng sanh.
Như khi các bạn bỏ thịt chúng sanh vào miệng nhai nuốt, các bạn có bao giờ nghĩ đến sự đau khổ của chúng sanh trước khi chết để thành thực phẩm cho các bạn ăn không? Do tư duy, suy nghĩ như vậy các bạn biết xấu hổ, vì mình là con người chứ đâu phải con thú vật mà ăn thịt nhau.
Con người mà sống như vậy có khác nào là con thú độc ác, nỡ ăn thịt những loài vật khác, không có chút lòng thương xót. Các bạn rất xấu hổ vì sự ăn thịt chúng sanh như loài thú dữ. Một con người đâu phải là con thú vật sao? Sao lại nỡ ăn thịt loài vật khác mà không tự biết xấu hổ với mình.
Nếu các bạn bảo rằng: các bạn không biết xấu hổ là các bạn thiếu thành thật. Vậy các bạn có dám ở trần truồng đi từ đầu làng đến cuối làng không? Các bạn có dám giao hợp giữa đám đông người như hai con thú vật không? Nếu không tức là các bạn biết xấu hổ, mà biết xấu hổ thì các bạn cũng phải biết xấu hổ với những việc làm ác của mình chứ. Phải không các bạn?
Theo chúng tôi nghĩ: con người thì người nào cũng vậy, cũng biết xấu hổ như nhau, nhưng vì những việc làm sai, làm ác đã thành một thói quen, một nếp sống, một phong tục được truyền nhiều đời, nhiều người, vì thế, ai sống cũng vậy nên chúng ta không thấy xấu hổ.
Ví dụ: Mọi người đều sống không mặc quần áo thì sự xấu hổ không có, còn khi mọi người đều mặc quần áo mà có người không mặc quần áo thì có xấu hổ. Cho nên sự xấu hổ có là do con người biết thiện ác, biết cái đúng cái sai, biết đạo đức.
Các bạn đều biết rằng những con vật không có trí thông minh như các bạn và có những con vật yếu đuối hơn các bạn, thế nên, các bạn bắt đem ra giết để ăn thịt, nếu các bạn không tự xấu hổ vì “ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ khôn hiếp dại” thì các bạn là những người vô đạo đức tàm quý. Người vô đạo đức tàm quý là người không biết sửa sai thành không sai, sửa lỗi thành không lỗi, sửa ác thành thiện. Người có lỗi mà không biết sửa sai, sửa lỗi thì có khác nào là những con thú vật mang lốt người. Người như vậy là người không có giới đức tàm quý.
B.- GIỚI HẠNH TÀM QUÝ
“GIỚI HẠNH TÀM QUÝ ” là oai nghi tế hạnh của những người có đạo đức. Cho nên ở đây các bạn phải hiểu hai chữ xấu hổ. Xấu hổ với những điều làm ác, xấu hổ với những điều làm gian xảo, xấu hổ với những điều không thành thật, xấu hổ với những điều gian tham trộm cắp, xấu hổ với những lời nói hung dữ, xấu hổ với những việc làm đau khổ mình, đau khổ người, xấu hổ với lòng ưa ăn thịt chúng sanh. Xấu hổ với sự mạ lỵ mạt sát người, xấu hổ với lời nói xấu người khác, xấu hổ với tính hung dữ của mình, xấu hổ với lòng tham vọng của mình đòi hỏi vượt ra khỏi hoàn cảnh của mình đang sống, xấu hổ với lòng kiêu mạn khinh rẻ người khác, xấu hổ với một việc mà mình làm chưa được. Xấu hổ mình không nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trước mọi hoàn cảnh của mọi ác pháp, xấu hổ với lòng sân hận thù oán người khác. Xấu hổ với ý nghĩ bất thiện đang tìm cách nói xấu hại người khác. Người biết xấu hổ như vậy là biết giữ gìn giới hạnh Tàm quý.
Nếu một người biết giữ gìn “GIỚI HẠNH TÀM QUÝ” tức là biết giữ gìn oai nghi tế hạnh xấu hổ này, thì không bao giờ làm một điều ác. Tâm hồn họ lúc nào cũng thanh thản, an vui, sống một đời sống hạnh phúc vô cùng chẳng khác nào nhưở một cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng. Oai nghi tế hạnh (tàm quý) biết xấu hổ này có lợi ích rất lớn cho mọi người, nhưng nếu ai biết nó lợi ích như vậy thì nên cố gắng giữ gìn đừng cho vi phạm có nghĩa là làm cái gì sai, trái dù lớn hay nhỏ các bạn đều tự biết xấu hổ với những việc làm ấy thì các bạn sẽ cố gắng khắc phục không làm sai trái nữa. Cố gắng khắc phục không làm sai trái nữa, đó là oai nghi tế hạnh.
Chúng tôi tin rằng những người nào cố gắng giữ gìn oai nghi tế hạnh (tàm quý) biết xấu hổ như vậy, chắc chắn họ không cần tu tập pháp môn nào khác hơn nữa. Chính sống đúng hạnh tàm quý này mà tất cả giới luật đều nghiêm chỉnh.
Tất cả giới luật đều nghiêm chỉnh thì tâm vô lậu hoàn toàn, nhờ tâm vô lậu họ thấy được trạng thái Niết Bàn, khi còn sống cũng như khi bỏ xác thân này. Bởi vì oai nghi tế hạnh biết xấu hổ vẫn là một pháp môn tu tập đến nơi đến chốn của Phật giáo, vì nhờ nó mà giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
C.- GIỚI HÀNH TÀM QUÝ
Thưa các bạn! Tàm quý là một giới hành cao thượng của loài người, cho nên người nào biết giữ giới hành này là người có một cuộc sống cao thượng đến với bản thân, với mọi người và mọi loài chúng sanh.
Giới hành tàm quý còn là một pháp tu tập trợ đạo mà đức Phật đã dạy cho mọi người để từ bỏ bản chất của loài động vật, trở thành con người thật là con người, nhờ nó mà con người có đầy đủ những đức hạnh đạo lý luân thường và cao thượng.
Cho nên, giới hành đức hạnh tàm quý rất quan trọng trong việc tu tập để được giải thoát hoàn toàn. Vì thế, các bạn phải biết giới hạnh tàm quý là cội gốc đạo đức của con người. Xin các bạn hãy quý trọng nó như sinh mạng của các bạn vậy. hằng ngày luôn nhắc tâm mình: “Phải biết xấu hổ khi làm một điều sai”. Có nhắc nhở như vậy thân tâm của các bạn mới thấm nhuần giới luật này.
6.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THỨ NĂM: CÓ LÒNG TỪ
“CÓ LÒNG TỪ ” là một hành động đạo đức thương yêu làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh đều cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Ðức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có được như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- GIỚI ĐỨC CÓ LÒNG TỪ
Con người sinh ra ở đời ai ai cũng sẵn có lòng từ, nhưng lòng từ ấy được phát triển lớn mạnh hay bị diệt mất là do nơi mỗi con người, nếu mỗi người có muốn nuôi dưỡng, huân tập thì lòng từ mới tăng trưởng lớn mạnh, còn nếu không nuôi dưỡng, huân tập thì lòng từ chẳng bao giờ lớn mạnh được và đôi khi nó còn bị diệt mất, vì tâm các bạn chạy theo dục và ác pháp, nên lòng từ bị diệt mất. Hiện giờ, các bạn cứ nhìn xem lòng từ của con người đã bị diệt mất, chỉ vì những phát minh của khoa học phục vụ đời sống vật chất quá tiện nghi, nên tâm tham dục càng lớn mạnh.
Tâm tham dục càng lớn mạnh thì ác pháp càng tăng trưởng. Ác pháp càng tăng trưởng thì đạo đức bị diệt mất. Bởi vậy, khoa học phát triển mà đạo đức không phát triển để quân bình với vật chất khoa học thì đó là tai họa cho loài người.
Cho nên, lòng từ không phải tự nhiên nó phát triển lớn mạnh được mà phải do huân tập rèn luyện lòng yêu thương hằng ngày đối với từng mỗi chúng sanh thì nó mới phát triển lớn mạnh được.
Vì thế, mọi người muốn có được lòng từ lớn mạnh từ trong sâu thẳm của tâm hồn thì phải siêng năng và huân tu tập lòng thương yêu ấy trước mỗi người, mỗi loài vật, mọi nghịch cảnh và mọi ác pháp khi chúng tác động vào thân tâm mình mà các bạn chỉ thấy có sự tha thứ và yêu thương.
Lòng từ phải được thực hiện trong mọi hoàn cảnh dù nghịch, dù thuận đều khởi sự tha thứ và yêu thương, nhờ có tha thứ thương yêu thì lòng từ mới phát triển lớn và mạnh.
Từ nơi rèn luyện, huân tập và nuôi dưỡng lòng yêu thương ấy nó mới có tên là “Có lòng từ”. Có lòng từ là tên của một giới đức hiếu sinh cụ túc của Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni và nam nữ cư sĩ. Giới cụ túc có nghĩa là giới luật đầy đủ không thiếu khuyết đạo đức và oai nghi tế hạnh.
“GIỚI ÐỨC CÓ LÒNG TỪ” là chỉ cho một hành động Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo, nhờ giữ gìn đức hạnh này nghiêm chỉnh nên lòng tha thứ yêu thương luôn luôn sẵn sàng mang đến với mọi người, vì thế tâm các bạn mới bất động trước tám gió (Bát phong bất động). Do đó, tâm các bạn mới bất động trước các pháp ác và các cảm thọ. Tâm bất động được như vậy thì các bạn mới tìm thấy trạng thái giải thoát hoàn toàn.
B.- GIỚI HẠNH CÓ LÒNG TỪ
“GIỚI HẠNH CÓ LÒNG TỪ” là một giới luật dạy về oai nghi tế hạnh thương yêu của người tu sĩ Phật giáo, giới luật này luôn luôn sẵn sàng khi gặp mọi tình huống xảy đến. Một người tu sĩ Phật giáo mà không giữ gìn trọn vẹn giới luật oai nghi tế hạnh này thì không xứng đáng là đệ tử của Phật. Bởi vì đạo Phật là Ðạo của sự yêu thương (từ bi). Yêu thương từ trong tận đáy lòng của các bạn. Vì thế, các bạn hãy lắng nghe sự đối đáp giữa đức Phật và ông Phú Lâu Na. Ông Phú Lâu Na là một vị đại đệ tử của đức Phật. “Sau khi chứng quả A La Hán xong, ông Phú Lâu Na đến xin Ðức Phật đi giáo hóa ở xứ Du Lô Na. Ðức Phật hỏi: “- Ông đến xứ Du Lô Na, nếu như dân ở đó không chấp nhận Ông, mà lớn tiếng chửi mắng, Ông mới làm sao?
- Bạch Thế Tôn! Họ chửi mắng con, con vẫn thấy họ còn thương con, vì họ cũng chưa lỗ mãng đến nỗi dùng roi gậy đánh đập con.
- Nếu như họ dùng nắm tay, gạch ngói, roi gậy đánh đập Ông?
- Con vẫn thấy họ còn thương con, chưa đến nỗi đâm chém con.
- Nếu họ dùng dao búa như thế?
- Con cũng cho họ còn thương con, còn tình người chưa đến nỗi giết con chết.
- Nếu họ giết Ông chết?
- Nếu thế con lại cảm ơn họ, họ đã giết sắc thân của con, hỗ trợ cho đạo nghiệp của con, giúp con mau vào Niết Bàn, giúp con đem sinh mạng báo đáp ân đức của Thế Tôn, điều ấy đối với con, tuy không có trở ngại, chỉ sợ di hại ảnh hưởng không tốt cho họ mà thôi”. (Thập đại đệ tử sử truyện).
Ðọc đoạn sử ký trên đây chúng ta thấy giới luật có lòng từ mà ông Phú Lâu Na đã sống và thực hiện một cách trọn vẹn đầy đủ ý nghĩa của lòng từ.
Một vị Thánh Tăng đệ tử của Ðức Phật mà không có lòng từ thì không thể gọi là Thánh Tăng được.
Lòng từ như ông Phú Lâu Na mới thật sự là lòng từ; lòng từ của ông Phú Lâu Na mới xứng đáng là người đệ tử của Phật giữ giới nghiêm chỉnh.
Tu sĩ thời đức Phật là như vậy, còn tu sĩ thời nay thì sao?
Những tu sĩ về tu viện Chơn Như, ai là người đã có lòng từ, lòng yêu thương chân thật với mình, khi bị cô Diệu Quang cho một trận tơi tả thì biết ngay có lòng từ hay không. Ai cũng nói được lòng từ, nhưng thực hiện lòng từ không phải dễ. Ðến tu viện Chơn Như với mục đích tu tập của họ là tu tập thiền định, chứ không phải tu tập xả tâm để thực hiện lòng từ. Vì thế, họ không tu tập lòng từ, nên khi rời khỏi Tu Viện thì cô Diệu Quang là đối tượng khen chê của họ.
Trong giáo lý của đạo Phật có một phương pháp tu tập về lòng từ. Ðó là pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm gồm có:
1- Từ tâm vô lượng.
2- Bi tâm vô lượng.
3- Hỷ tâm vô lượng.
4- Xả tâm vô lượng.
Từ tâm vô lượng là tâm thương yêu rộng lớn đối với sự sống của muôn loài, không riêng loài động vật mà ngay cả những loài thực vật như: cỏ cây, v.v… Khoáng sản như: đất, đá, núi sông, v.v… Thời tiết như: nắng, mưa, gió, bão, khí hậu nóng lạnh, v.v…
C.- GIỚI HÀNH CÓ LÒNG TỪ
Muốn có lòng từ vô lượng không những thương yêu trong cảnh thuận mà còn thương yêu trong cảnh nghịch thì có sự tu tập kỹ lưỡng và tu tập đúng pháp, chứ không thể nói suông được.
Muốn giữ gìn giới hạnh có lòng từ được nghiêm túc và cũng để phát triển lòng yêu thương ngày một mạnh mẽ hơn thì hằng ngày chúng ta nên nhớ dẫn tâm vào lòng yêu thương ấy. Vậy dẫn tâm vào lòng thương yêu ấy như thế nào?
Như chúng ta ai cũng biết, việc làm ác hay việc làm thiện đều do tâm chúng ta tạo ra: “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo tác”. Do hiểu rõ ý nghĩa của lời dạy này, nên chúng ta hằng ngày thường dẫn tâm mình vào chỗ yêu thương như những câu tác ý dưới đây: “Tâm phải thương yêu tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh đều có sự sống bình đẳng như nhau, không có một loài vật nào có quyền ăn hiếp loài vật khác. Vì mọi loài vật không có loài vật nào mà không tham sống sợ chết, Vậy chúng ta phải thương yêu với sự thương yêu chân thật từ nơi trái tim của mình”.
Trên hành tinh sống này chỉ có luật nhân quả điều hành xử phạt, luật nhân quả rất công bằng, không có loài vật mạnh ăn hiếp loài vật yếu, không quyền loài vật này ăn thịt loài vật kia. Nếu loài vật nào vi phạm thì sẽ bị luật nhân quả trừng trị đích đáng. Bởi vậy, loài người vi phạm vào giới luật có lòng từ, nên thường giết hại chúng sanh ăn thịt, vì thế con người phải chịu xử phạt công minh của luật nhân quả, nên thường sống trong khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc, an vui, từ kiếp này đến kiếp khác mãi mãi phải chịu mang thân xác nghiệp bệnh tật, tai nạn, phiền não khổ đau, thiên tai, hoả hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, v.v...
Muôn loài vật sống trên hành tinh này đều có một sự sống bình đẳng như nhau, do sự sống bình đẳng như nhau nên phải thương nhau. Tại sao lại nói muôn loài vật lại có sự sống bình đẳng như nhau?
Nghĩa là trên hành tinh này không có một loài vật nào thiếu không khí mà sống được; không có loài vật nào không có nước mà sống được. Cho nên, các bạn phải lấy sự công bằng của sự sống mọi loài mà thực hiện lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương nhau ấy là sự sống bình đẳng, muốn có sự sống bình đẳng thì phải biết tôn trọng sự sống của nhau, vì thế mọi loài không được giết hại và ăn thịt lẫn nhau. Con người còn ăn thịt loài động vật là không biết tôn trọng sự sống của nhau. Chính những điều này đã minh chứng con người chưa biết tôn trọng sự sống của chính con người. Không biết tôn trọng sự sống của chính mình thì mình lại chà đạp sự sống của chính mình bằng cách cụ thể là chà đạp lên sự sống của loài vật khác. Vì thế, chỉ cần một vài trăm ngàn đồng hay một chỉ vàng thì có thể giết một mạng người dễ như trở bàn tay. Hằng ngày báo chí đã đăng nhiều tin tức xảy ra những vụ án giết người cướp của.
Xét thế, các bạn mới thấy con người hiện nay không tôn trọng sự sống, không tôn trọng sự sống nên ăn thịt chúng sanh, ăn thịt chúng sanh là xem thường sự sống của bản thân mình, của những người khác và của tất cả loài vật. Có đúng như vậy không các bạn?
Ðứng trước nền đạo đức nhân bản – nhân quả đang suy sụp, chúng tôi kêu gọi mọi người hãy tôn trọng sự sống trên hành tinh này để cứu sự sống của hành tinh.
Nếu không tôn trọng sự sống trên hành tinh này chắc chắn các bạn sẽ tự hủy diệt mình.
Vậy ngay từ bây giờ các bạn phải chuyên cần tập luyện để phát triển lòng từ. Muốn phát triển lòng từ các bạn phải giữ gìn giới hạnh có lòng từ nghiêm chỉnh. Giới hạnh có lòng từ là một giới luật đức hạnh cao quý tuyệt vời, vậy nên chúng ta phải tự bắt buộc khép mình trong khuôn khổ thực hiện lòng từ thì cuộc sống này mới có sự tôn trọng bình đẳng như nhau trên hành tinh này.
5.- GIỚI ĐỨC HIẾU SINH THỨ SÁU: SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH
"SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH" là một hành động đạo đức thương yêu những bậc làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Người, làm Thánh cho đúng nghĩa thì cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về đức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Ðức hạnh thương yêu để không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là những đức hạnh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để đem lại sự sống bình đẳng yên vui và hạnh phúc cho nhau. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- GIỚI ĐỨC SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH
Khi đọc đến giới luật này chúng ta nhận xét về văn hoá truyền thống đạo Phật có những Phạm hạnh (giới luật) rất là đặc biệt. Ở đời người ta bảo: “Nên thương xót tất cả chúng sanh”, có nghĩa là thương yêu con vật này, thương yêu con vật kia hay thương người này, thương người kia, chứ ít ai bảo: “Sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh”. Giới này dạy: ‘‘Sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh” có nghĩa là không những thương yêu chúng sanh mà còn thương sự sống đang an vui hạnh phúc của chúng.
Như vậy, chúng ta phải hiểu cặn kẽ về giới luật này. Ðứng trước các đối tượng như đất đá, cỏ cây, sông nước, núi rừng đến muôn loài động vật đang sống an vui trong môi trường sống im ả của vũ trụ thì chúng ta không còn có quyền làm mất sự bình an, yên vui và hạnh phúc ấy. Làm mất sự bình đẳng.
B.- GIỚI HẠNH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH
“GIỚI HẠNH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH” là một hành động sống đạo đức hiếu sinh biết thương mình, thương người và thương sự sống của muôn loài. Một hành động đạo đức cao thượng tuyệt vời của loài người mà không thể lấy một vật gì trong thế gian này đem ra so sánh được.
Ví dụ 1: Một đoàn kiến đang đi kiếm món ăn trên sân nhà của các bạn, lúc bấy giờ các bạn đang quét dọn, định quét chúng ra khỏi nhà hay tìm cách đuổi chúng ra mà không làm mất sinh mạng chúng, những hành động ngăn và đuổi chúng ra khỏi nhà mà không giết hại chúng, đó chỉ mới có hành động thương xót chúng mà thôi.
Còn “giới đức sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh” thì ở đây dạy sống đến thương xót hạnh phúc của chúng sanh, vì thế trước tiên chúng ta tránh không nên làm chúng sợ hãi, do đó chúng ta không đuổi chúng, không quét chúng ra khỏi nhà để chúng tự nhiên sống như thế nào thì mặc chúng, chúng ta chỉ có cố gắng tránh, đừng làm chúng đau khổ, và muốn chúng ra khỏi nhà bằng cách đem những món ăn khác bỏ cách xa nhà thì chúng sẽ kéo ra đó mà ăn. Những hành động như vậy là giữ gìn “GIỚI HẠNH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.
Ví dụ 2: Cỏ cây đang lên xanh tươi tốt, chúng ta không nên bẻ cành, nhổ gốc, vì bẻ cành, nhổ gốc, là làm mất sự sống an vui hạnh phúc của chúng. Những hành động như vậy là không giữ gìn “GIỚI HẠNH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.
Cắt một cành bông, bẻ một cành cây, hái một lá cỏ, những hành động làm như vậy là những hành động sống không thương xót đến tất cả hạnh phúc an vui của chúng sanh, cho nên khi học và tu tập giới luật này thì chúng ta phải tu tập sống hồn nhiên và hoà mình trong cuộc sống của tất cả vạn vật. Vì thế , khi đi, đứng, nằm, ngồi hay làm bất cứ một công việc gì. Các bạn đều lưu ý đến mọi hành động của mình để không làm mất sự an vui hạnh phúc của chúng sanh.
Giới luật này là một hành động đạo đức tuyệt vời cao thượng sống biết thương xót tất cả hạnh phúc của chúng sanh thì không còn một đạo đức nào cao thượng hơn nữa. Phải không các bạn?
Bởi vậy, học giới luật đức hạnh của Phật giáo chúng ta rất thấm thía về những lời dạy đạo đức hiếu sinh về lòng thương yêu cao thượng và sâu thẳm tận đáy lòng của con người. Trên đời này chúng ta không thấy có một tôn giáo nào dạy đạo đức cao thượng tuyệt vời hơn Phật giáo. Phải không các bạn?
Chính lòng thương yêu hạnh phúc của chúng sanh mà chúng ta được hạnh phúc trọn vẹn. Cho nên, mỗi giới luật của Phật là một hành động đạo đức xây dựng cuộc sống loài người trở thành Thiên Ðàng, Cực Lạc tại thế gian.
C.- GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH
Muốn sống đúng giới đức này nghiêm chỉnh thì các bạn hằng ngày phải sống tỉnh giác trên từng thân hành có nghĩa là luôn luôn lúc nào các bạn cũng phải phản tỉnh trên mọi hành động khi thân muốn làm việc gì đều phải quan sát cẩn thận kỹ lưỡng rồi mới làm. Ðó là để tránh sự va chạm vô tình làm đau khổ hay làm mất mạng chúng sanh.
Lại nữa hằng ngày các bạn nên nhớ tác ý: “Tâm phải tỉnh thức trên từng hành động vì lòng yêu thương sự sống yên vui của muôn loài”, tác ý như vậy lần lượt tâm các bạn sẽ thấm nhuần lòng yêu thương sự sống yên vui hạnh phúc của muôn loài. Chính việc làm này là mang lại sự an vui hạnh phúc cho các bạn. Các bạn có biết không?
“GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”, muốn sống đúng giới luật này, không phải ai cũng tự tu tập Tứ Vô Lượng Tâm được, mà phải có giáo trình hướng dẫn tu tập. Xin các bạn vui lòng đọc lại kinh “Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm”. Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm là giới hành đạo đức hiếu sinh “SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.
“GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH” là những hành động tỏ ra sự thương yêu chúng sanh chân thật từ trong tận đáy lòng của các bạn.
Ví dụ: Trước khi bước đi các bạn nên nhắc tâm: “Phải tỉnh thức từng bước đi để tránh giẫm đạp lên chúng sanh” hoặc “Ta hãy thương tất cả chúng sanh vì chúng sanh có một sự sống như chúng ta, đừng làm chúng đau khổ và chết tội nghiệp”. Những tác ý nhắc tâm như trên là “GIỚI HÀNH HIẾU SINH SỐNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG SANH VÀ LOÀI HỮU TÌNH”.
Biết áp dụng giới luật này vào sự sống của các bạn hằng ngày thì lòng yêu thương đối với chúng sanh ngày càng thêm rộng lớn và cao đẹp vô cùng, tràn đầy nhựa sống yêu thương, đối với muôn sự, muôn vật trên hành tinh này.
Page 6
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích VHTT, tập 2, TG. 2010, tr. 97-182)link sách: VHTT, tập 2
1.- GIỚI THIÊU TỔNG QUÁT NHÓM GIỚI LUẬT THỨ NHẤT
Kính thưa các bạn! Những ai muốn tu theo Phật giáo để trở thành những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni vô lậu đều phải chấp nhận chín giới luật này. Chín giới luật đầu tiên này làm thay đổi đời sống tại gia, nên nó gọi là đời sống xuất thế gian. Ðời sống xuất thế gian là một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Cho nên nó gồm có chín giới:
1- Cạo bỏ râu tóc.
2- Khoác áo cà sa.
3- Từ bỏ gia đình.
4- Sống không gia đình, xuất gia tu hành.
5- Sống chế ngự thân.
6- Sống chế ngự lời nói.
7- Sống chế ngự ý nghĩ.
8- Bằng lòng với nhu cầu tối thiểu, về ăn uống y áo.
9- Hoan hỉ sống an tịnh (trong sự thiếu thốn) của đời sống Phạm hạnh.
Chín giới này là những hành động đạo đức Thánh hạnh thuộc về thân tâm làm Thánh, nó chỉ rõ hình tướng lối sống của những vị tu sĩ Thánh Tăng, Thánh Ni mà người thế gian không thể sống và làm được theo hình tướng và những hạnh sống này, chỉ có những bậc ly trần thoát khổ mới chấp nhận chín đức và chín hạnh “xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần”, mà chỉ có đạo Phật mới có mà thôi. Trên hành tinh này không có một tôn giáo nào dám chấp nhận hình tướng này.
Ðây là hình ảnh đạo hạnh của một người tu sĩ Phật giáo “CẠO BỎ RÂU TÓC”. Cạo bỏ râu tóc là giới hạnh thứ nhất của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni mà trong kinh Sa Môn Quả đã ghi chép rõ ràng. Nếu ai không giữ trọn vẹn giới này thì không thể nào gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni. Cho nên, giới này đã xác định về tướng mạo đạo hạnh giải thoát của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni trong mười giới luật đầu tiên của Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni cụ thể rõ ràng, nếu ai làm sai phạm, không đúng những giới luật trên đây đều được xem là không phải đệ tử của Phật, không phải là tu sĩ Phật giáo mà là tu sĩ của ngoại đạo.
Hai giới đầu tiên nói về tướng mạo và cách ăn mặc đạo hạnh của tu sĩ Phật giáo thì biết ngay là những người này ra khỏi nhà thế tục.
- Giới hạnh thứ nhất: “CẠO BỎ RÂU TÓC” là đức hạnh buông xả hình tướng thế tục, bởi nếu còn râu tóc là còn trang điểm, có nghĩa là râu phải cắt tỉa, tóc phải chải gỡ, thoa dầu, v.v... trang điểm làm đẹp. Cho nên, cạo bỏ râu tóc là một tướng mạo li trần thoát tục của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni “xả thân cầu đạo”. Cạo bỏ râu tóc cũng có nghĩa là buông xả sạch dục và ác pháp. Cho nên, cạo bỏ râu tóc cũng là cạo bỏ những trần cấu, uế trược hôi thối của thân tâm mình.
- Giới hạnh thứ hai: “ÐẮP ÁO CÀ SA”. Ðắp áo cà sa có nghĩa buông bỏ vật chất thế gian, cho nên quần áo đẹp sang cũng phải bỏ xuống hết, chỉ còn mặc quần áo vải thô xấu, vải bó thây ma, vải chuột cắn bỏ, vải mọi người bỏ, v.v... Ăn mặc mà chỉ còn ăn mặc để che kín thân không còn ăn mặc sang đẹp thì cuộc đời này còn những gì nữa mà tham đắm. Phải không các bạn?
Người tu sĩ Phật giáo ăn mặc sang đẹp là không đúng Thánh hạnh “xả phú cầu bần”. Vì thế chúng ta hãy nhìn chung quanh các chùa Ðại Thừa. Tăng, Ni thời nay là phú Tăng, chứ không phải là bần Tăng. Họ ăn mặc sang đẹp, có cả chùa to, Phật lớn, xe cộ sang trọng, nhà ở tiện nghi hơn người thế gian.
Tóm lại, hành động cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa là nói lên được Thánh hạnh buông xả đời sống thế gian. Giới hạnh chỉ rõ cho chúng ta thấy kết quả giải thoát ngay liền ở tướng mạo là không còn cực nhọc hằng ngày phải tắm gội chải gỡ cắt tỉa.
Xả bỏ râu tóc, đắp áo cà sa là có kết quả tướng mạo buông xả vật chất để có sự giải thoát ngay liền, nhờ tướng mạo buông xả ấy mà mọi người tỏ lòng tôn trọng và cung kính. Nhưng ngày nay thì không còn nữa. Tại sao vậy? Vì tất cả tu sĩ Phật giáo đều mang hình sắc tướng mạo cạo bỏ râu tóc, nhưng không đắp áo cà sa vải thô xấu, vì thế họ không còn sống đúng Phạm hạnh, hằng ngày họ luôn lo trang điểm sửa sang đầu tròn, áo vuông, ăn mặc sang đẹp hơn nhà giàu. Ðó là hình tướng dính mắc vật chất thế gian chứ không còn là hình sắc tướng mạo buông xả cao thượng tuyệt vời của người tu sĩ Phật giáo nữa.
Ngày xưa đức Phật dùng chín giới luật này để trả lời những câu hỏi của vua A Xà Thế, khiến cho nhà vua phải chấp nhận cung kính, tôn trọng, đảnh lễ những hạnh quả buông xả giải thoát của người tu sĩ Phật giáo mà trên đời này không có một vật gì sánh bằng. Vậy các bạn hãy lắng nghe vua A Xà Thế thưa hỏi Phật, rồi các bạn suy nghiệm: “Bạch Thế Tôn! Mọi người trong thế gian này ai ai cũng có nghề nghiệp làm để sống, nghề nghiệp mang đến cho họ những kết quả thiết thực cụ thể như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, v.v... Còn kết quả của những người tu hành theo Phật Giáo thì như thế nào? Xin Ðức Thế Tôn trả lời cho biết”.
Vua A Xà Thế là một người rất thông minh và khôn ngoan đáo để, trước khi đưa ra câu hỏi về kết quả của người đi tu theo Phật giáo như thế nào, (Sa Môn Quả và Sa Môn Hạnh) thì nhà vua đã đưa ra một số kết quả của những nghề nghiệp, đem lại lợi ích thiết thực cụ thể cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước.
Rất khó cho các tôn giáo khác khi trả lời những câu hỏi hóc búa này. Những câu hỏi này có tính cách thực tế bắt buộc người trả lời phải trả lời chính xác về kết quả lợi ích, thiết thực, cụ thể rõ ràng của các tôn giáo khi những ai theo tu hành. Nhà vua không chấp nhận những câu trả lời về kết quả tu hành mơ hồ, trừu tượng, viễn vông, trườn uốn như con lươn, v.v... mà trả lời phải chỉ rõ kết quả thực tế, cụ thể, lợi ích, thiết thực rõ ràng như những kết quả của các nghề nghiệp trong thế gian.
Phần đông các hệ phái tôn giáo khác đều trả lời quanh quẩn trườn uốn như con lươn, giống như kiểu tưởng giải của Ðại Thừa và Thiền Tông ngày nay vậy: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc, hoặc Kiến tánh thành Phật, Bản lai diện mục hiện tiền, tánh thấy, tánh nghe, tánh biết là Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật là Tánh Giác và tánh không”. Trả lời như vậy vua A Xà Thế không chấp nhận.
Nếu bây giờ các hệ phái Phật giáo phát triển Ðại Thừa và Thiền Tông được hỏi như vậy và trả lời những câu như: “Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tien” hoặc “Kiến tánh thành Phật, v.v...”, “Ba cân gai”, “chẳng biết...” hoặc “đưa một ngón tay...”. Trả lời như vậy có thực tế, lợi ích, thiết thực, cụ thể, rõ ràng không các bạn? Lại nữa nếu Tịnh Ðộ Tông trả lời: “Thất nhật nhất tâm bất loạn danh hiệu A Di Ðà thì được vãng sanh Cực Lạc Tây Phương”, với câu trả lời này có lợi ích, thiết thực, cụ thể rõ ràng không các bạn?
Trước khi nghe đức Phật trả lời những câu hỏi của vua A Xà Thế. Xin các bạn hãy đọc lại đoạn kinh này một lần nữa rồi suy nghiệm “Bạch Thế Tôn, cũng như các công nghệ chức nghiệp: như điều tượng sư, điều mã sư, xa thuật sư, cung thuật sư, mã kỵ binh, nguyên soái, chiến sĩ, thượng sĩ quan, thám tử, dũng sĩ can đảm như voi chúa, anh hùng, trang giáp binh, nô lệ xuất thân, hỏa đầu quân, thợ hớt tóc, người hầu tắm, thợ làm bánh, nhà làm vòng hoa, thợ giặt, thợ dệt, nhà làm thúng rổ, thợ đồ gốm, nhà toán số, nhà ấn bản, các công nghiệp, chức nghiệp khác, chúng hưởng được kết quả thiết thực hiện tại công nghiệp chức nghiệp của chúng. Chúng giúp cho tự thân được sống an lạc hạnh phúc, chúng giúp cho cha mẹ được sống an lạc hạnh phúc. Chúng giúp cho vợcon được sống an lạc hạnh phúc. Chúng giúp cho bè bạn được sống an lạc hạnh phúc.
Chúng dâng các vật cúng dường cho Sa Môn, Bà La Môn sự cúng dường này có ảnh hưởng đến đời sau liên hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báu an lạc, thác sanh vào cõi trời. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho biết kết quả thiết thực, hiện tại của hạnh Sa Môn chăng?”.
Nhờ có câu hỏi của vua A Xà Thế mà đời sau chúng ta mới có những bài học về giới luật, giới đức, giới hạnh và giới hành rất là tuyệt vời. Công ơn của người hỏi ấy làm sao chúng ta quên được. Phải không các bạn?
Nhất là câu trả lời của đức Phật đối đáp không thua kém câu hỏi của vua A Xà Thế. Những câu trả lời ấy lại còn hơn thế nữa, vừa nêu lên đức hạnh buông xả của một bậc Thánh giải thoát trần tục, vừa làm một cuộc cách mạng giai cấp của đất nước Ấn độ lúc bấy giờ. Những câu trả lời ấy có tính thuyết phục cao bắt buộc nhà vua phải chấp nhận cuộc cách mạng vô giai cấp đó.
Cuộc vấn đáp của vua A Xà Thế và đức Phật đã làm sáng tỏ cuộc cách mạng bốn giai cấp của đất nước Ấn Ðộ lúc bấy giờ. Nhà vua đại diện cho tư tưởng giai cấp lãnh đạo nhân dân, còn đức Phật đại diện cho tư tưởng bình đẳng vô giai cấp của nhân dân. Cho nên cuộc vấn đáp càng lúc càng làm sáng tỏ nền đạo đức nhân bản – nhân quả của con người.
Nước Ấn Ðộ lúc bấy giờ chia ra làm bốn giai cấp:
1. Tư tưởng giai cấp thống trị do Dòng Sát Ðế Lị tức là dòng vua chúa thuộc về vương pháp.
2. Tư tưởng giai cấp lãnh đạo tinh thần dòng Bà Là Môn thuộc về pháp vương.
3. Tư tưởng giai cấp công nhân, thợ thuyền, thương mãi và nông dân giai cấp bị trị .
4. Tư tưởng giai cấp Chiên Ðà La là tư tưởng giai cấp cùng đinh, làm nô lệ, tôi tớ, tay sai cho người khác.
Câu trả lời của đức Phật rất khéo léo, trả lời bằng câu hỏi trở lại để tự nhà vua phải chấp nhận sự bình đẳng vô giai cấp của con người.
Những đoạn kinh này đã xác định cho các bạn thấy rõ Phật giáo là một tôn giáo nhân bản, luôn luôn nâng cao giá trị bình đẳng của mọi người sống trên hành tinh này như nhau, dù mầu da, thứ tóc và tiếng nói có khác nhau, nhưng đều có quyền sống bình đẳng như nhau.
Những câu trả lời này là lối trả lời bắt buộc người khác phải chấp nhận mà không thể từ chối được. Do vậy, chúng ta hãy lắng nghe những câu trả lời của đức Phật: “Này Ðại Vương có thể được. Ta sẽ hỏi Ðại Vương về vấn đề này. Ðại Vương hãy trả lời tùy theo ý muốn của Ðại Vương”.
Khởi đầu cho câu trả lời bằng cách rào đón trước sau quá chặt chẽ khiến nhà vua không thể ngờ được.
Ðược nghe câu hỏi của vua A Xà Thế và câu trả lời của đức Phật mở đầu cho một cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá tốt đẹp, phá vỡ hàng rào giai cấp của dân tộc Ấn Ðộ lúc bấy giờ: “Ðại Vương nghĩ sao? Nếu Ðại Vương có một người nô bộc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của Ðại Vương làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú ý từng nét mặt của Ðại Vương... sau một thời gian làm nô lệ, người nô bộc ấy muốn đi tu nên cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa từ bỏ gia đình, sống không gia đình xuất gia tu hành, sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, sống chế ngự lời nói, sống chế ngự ý nghĩ, bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống y áo hoan hỉ sống an tịnh.
Khi Ðại Vương biết rõ người nô bộc của mình xuất gia tu hành như vậy thì Ðại Vương có gọi người ấy đến với Ðại Vương, hãy làm lại người nô bộc, làm mọi công việc, thức khuya dậy sớm, thi hành mọi mệnh lệnh của Ðại Vương, làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú ý từng nét mặt”.
Xét qua câu trả lời bằng câu hỏi của đức Phật, thì chúng ta thấy rằng đức Phật là một con người tuyệt vời, đứng trước uy quyền của nhà vua Ngài đã dám đem người nô bộc của nhà vua ra hỏi, để xác định kết quả giải thoát cụ thể thực tế của một vị tu sĩ Phật giáo, luôn luôn được mọi người cung kính, tôn trọng những giới đức, giới hạnh, giới hành một cách thiết thực cụ thể đã xác định được sự giải thoát không có thời gian, đến để mà thấy..., khiến cho nhà vua phải chấp nhận và tỏ lòng cung kính, tôn trọng người tu sĩ Phật giáo, dù người đó là nô bộc của mình.
Như vậy rõ ràng là kết quả việc làm của người tu sĩ Phật giáo là sống đúng giới luật, tức là phải sống chế ngự thân, sống chế ngự lời nói, sống chế ngự ý, sống bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo và hoan hỉ sống an tịnh.
Người nô bộc thực hiện được những giới luật trên đây không những mọi người mà cả nhà vua cũng đều phải cung kính, tôn trọng, lúc nào họ cũng vui lòng lễ bái. Tại sao vậy? Những hành động sống đúng Phạm hạnh như trên đức Phật đã dạy thì không phải ai cũng làm được, chỉ có những người quyết tâm tìm đường thoát khổ ra khỏi mọi sự đau khổ của cuộc đời thì mới đủ gan dạ sống như vậy để đạt được mục đích cao thượng mà người đời thường gọi là bậc Thánh A La Hán hay là Phật.
Người nô bộc thuộc giai cấp hạ liệt cùng đinh của xã hội Ấn Ðộ. Lúc bấy giờ giai cấp này được mọi người dân Ấn Ðộở những giai cấp khác đều khinh thường, xem rẻ. Chính bản thân của những người giai cấp này, họ cũng xem thường họ. Họ biết thân phận của họ sinh ra và lớn lên trong giai cấp cùng đinh, hạ liệt này, nên khi gặp những người ở giai cấp khác thì họ đều phải tránh đường; phải quỳ mọp sát đất, không dám nhìn mặt những người ở giai cấp khác.
Ðặc biệt nhất ở đoạn bài pháp này là đức Phật không nói đến thần thông mà chỉ nói đến giới luật đức hạnh của người tu sĩ Phật giáo thật là tuyệt vời, khiến cho nhà vua phải chấp nhận mà không có một ý kiến chống trái lại những điều đức Phật đã nêu lên.
Ðúng vậy, chỉ có đức hạnh mới phá vỡ hàng rào giai cấp muôn đời của loài người; chỉ có đức hạnh mới phá vỡ thế giới siêu hình ảo tưởng mà đã ăn sâu vào tư tưởng của loài người thành một dấu ấn muôn đời muôn kiếp; chỉ có đức hạnh mới đem lại sự hạnh phúc an vui cho loài người trên hành tinh này vậy.
Bài pháp này được xem là một bài tuyên ngôn cách mạng tư tưởng giai cấp của nước Ấn Ðộ cách đây 2555 năm (2011). Phải nói rằng trong giai đoạn ở thế kỷ này, bài kinh của Phật là một tiếng sét đánh thức những giai cấp thống trị một cách thẳng thắn, không nhân nhượng. Vì thế, nó có một giá trị lịch sử làm thay đổi tư tưởng giai cấp Ấn Ðộ rất lớn. Người đứng ra chủ trương cuộc cách mạng này không ai khác hơn là đức Phật, là một thái tử sắp thay vua cha làm vua. Một ông vua trong hàng ngũ giai cấp thống trị lại đứng ra làm cuộc cách mạng san bằng giai cấp xã hội thật là tuyệt vời, còn ai dám chống lại. Phải không các bạn?
Vua A Xà Thế đại diện cho giai cấp sát đế lị (thống trị) phải chấp nhận những Phạm hạnh giới luật của người tu sĩ Phật giáo thật là tuyệt vời, một đức hạnh giải thoát cao thượng mà cũng không phải ai cũng làm được. Vì thế, nhà Vua trả lời: “Bạch Thế Tôn, chúng con không thể xem họ là nô bộc được nữa. Trái lại chúng con phải kính lễ những người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như y áo, đồ ăn khất thực, sàng toạ, thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ che chở những người ấy đúng theo pháp luật”.
Thưa các bạn! Tại sao nhà vua lại chấp nhận phải cung kính, tôn trọng một giai cấp cùng đinh hạ liệt trong xã hội của mình như vậy?
Giới đức, giới hạnh, giới hành, được đức Phật nêu ra một đời sống Phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo như vậy thì trong cuộc đời này không phải ai cũng làm và sống được như trên đã nói.
Khi nào các bạn có thực hành sống đúng những giới luật này thì các bạn mới thấy vô vàn khó, nhưng không khó với những người có ý chí, có quyết tâm thoát ra cuộc đời đầy ô trược và ác pháp.
Vua A Xà Thế là người thông minh sáng suốt nghe qua những giới luật đức hạnh buông xả ấy. Người biết rằng đó là những Thánh hạnh, người phàm phu không thể sống và làm được, nên Vua A Xà Thế phải chấp nhận ngay liền và nói lên những lời cung kính tôn trọng những con người sống được những đức hạnh như vậy. Sống được những đức hạnh như vậy tức họ là những bậc Thánh, chứ không còn là những người phàm phu trong giai cấp hạ liệt nữa.
Ðọc bài kinh này chúng ta thấy đạo Phật là một tôn giáo chân thật không lừa đảo, lường gạt người khác bằng thần thông, ảo tưởng, bằng bùa ngải, chú thuật, bằng mê tín cúng tế, cầu an, cầu siêu, bằng thiền định ức chế tâm, bằng ảo tưởng Phật tánh, bằng lí luận tánh không, bằng tưởng giải bản lai diện mục hiện tiền, v.v... Người tu sĩ Phật giáo chỉ sống bằng Phạm hạnh, thiểu dục tri túc, ba y một bát, sống không nhà cửa, không gia đình, biết tỉnh thức từng thân hành, khẩu hành, ý hành, biết ly dục ly ác pháp và biết xả tâm diệt ngã. Thế mà làm chủ được bốn sự đau khổ của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết. Thật tuyệt vời! Thưa các bạn! Các bạn đã về tu viện Chơn Như tu tập một thời gian phải chấp nhận sống đúng những giới luật này, nhưng các bạn có sống đúng những giới luật này chưa? Những giới luật này không phải là một việc dễ làm, dễ sống. Phải không các bạn?
Trong đoạn kinh này gồm có chín giới dạy rõ đức và hạnh như sau:
1/ Giới thứ nhất: Cạo bỏ râu tóc.
2/ Giới thứ hai: Ðắp áo cà sa.
3/ Giới thứ ba: Từ bỏ gia đình.
4/ Giới thứ tư: Sống không nhà.
5/ Giới thứ năm: Sống chế ngự thân.
6/ Giới thứ sáu: Sống chế ngự lời nói.
7/ Giới thứ bảy: Sống chế ngự ý nghĩ.
8/ Giới thứ tám: Sống bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo.
9/ Giới thứ chín: Hoan hỉ sống an tịnh trong đời sống Phạm hạnh.
Xét qua chín giới này: giới đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành là những hành động đạo đức như thế nào mà khiến cho vua A Xà Thế phải cung kính và tôn trọng như vậy?
Xin các bạn lưu ý chúng tôi sẽ cố gắng giải thích để các bạn hiểu rõ về Phạm hạnh giới luật của đức Phật, nó có một giá trị về đời sống Thánh hạnh mà người phàm phu không thể nào sống và làm được.
2. GIỚI THỨ NHẤT: CẠO BỎ RÂU TÓC
Kính thưa các bạn! Bây giờ chúng ta bắt đầu bước vào khu rừng giới luật đức hạnh của con người nói chung, của những tu sĩ Phật giáo nói riêng, những bông hoa đạo đức muôn mầu muôn sắc mang lại vẻ đẹp cho đời càng tươi thắm thêm.
“CẠO BỎ RÂU TÓC” là một hành động đạo đức làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo. Mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Thánh đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này. Bởi vì, chỉ có Thánh mới biết tất cả các pháp thế gian là ảo tưởng, không có một vật thật có, chỉ do duyên hợp tạo thành nên mới buông bỏ sạch bằng hình tướng “CẠO BỎ RÂU TÓC” để tượng trưng cho sự thoát ly mọi sự khổ đau.
Ðây là một giới luật dạy về đức hạnh trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới xứng đáng là người đệ tử của Phật, mới xứng đáng làm gương hạnh sống đạo đức cho mọi người, mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- CẠO BỎ RÂU TÓC LÀ GIỚI ĐỨC BUÔNG XẢ TRẦN CẤU
“CẠO BỎ RÂU TÓC” là một giới đức buông xả trần cấu, giúp cho người tu hành thoát ra khỏi tâm chấp ngã, ham thích trang điểm làm đẹp. Nhờ thế, các bạn mới thoát ra khỏi qui luật của nhân quả. Bởi vì, “CẠO BỎ RÂU TÓC” là một hành động thay đổi tướng tham dục, tướng thế tục tham đắm để trở thành tướng buông xả. Nếu người mang tướng buông xả mà còn tham đắm có nhiều của cải tài sản, xe cộ, chùa to, Phật lớn, vật chất đầy đủ, ăn uống phi thời thì người thế gian sẽ kết án, khinh chê và không còn quý trọng, cung kính, họ xem những người tu sĩ này là Ma Vương đang ra tay diệt Phật Giáo.
“CẠO BỎ RÂU TÓC” là một giới đức xa lìa trần cấu, người tu sĩ Phật giáo biết lấy giới đức cạo bỏ râu tóc, làm phương tiện tiến bước vào cửa đạo để “XẢ THÂN CẦU ÐẠO”, thì con đường đạo ngày thêm tươi sáng hơn. Bởi vì hình tướng cạo bỏ râu tóc là hình tướng buông xả cuộc đời trần cấu ô trược thế gian.
Ðúng vậy, đây là cách thức buông xả trần cấu về thân đầu tiên cho người mới vào đạo, nếu không buông xả trần cấu thân tâm thì không bao giờ tìm thấy sự giải thoát thật sự. Cho nên, giới đức buông xả trần cấu “CẠO BỎ RÂU TÓC”, là một đức hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Chỉ có Phật giáo mới có đức hạnh xả thân cầu đạo này, còn tất cả các tôn giáo khác trên hành tinh đều không bao giờ có đức hạnh này cả.
Vậy mà, nhìn chung đức hạnh xa lìa trần cấu này trong các chùa lại có một số người lợi dụng hình tướng đức hạnh này để kinh doanh làm ra của cải tài sản, làm giàu.
B.- CẠO BỎ RÂU TÓC LÀ GIỚI HẠNH XA LÌA TRẦN CẤU này thuộc về giới hạnh buông xả hình sắc tướng mạo thế gian. Cho nên những vị tu sĩ Phật giáo nào chấp nhận giới này thì mới trở thành người tu sĩ Phật giáo, còn không chấp giới hạnh này thì không thểnào thành Thánh Tăng, Thánh Ni được. Cho nên Tăng đều phải cạo bỏ râu tóc, còn Ni chỉ cạo bỏ tóc mà thôi. Nếu không giữ gìn hạnh cạo bỏ râu tóc này thì chỉ là một cư sĩ, dù đã giữ gìn tất cả các giới luật khác nghiêm chỉnh.
Hình dáng Thánh Tăng, Thánh Ni là hình dáng buông xả, “Xả thân cầu đạo”. Ðó là cạo bỏ râu tóc. Cạo bỏ râu tóc là một hình dáng của những bậc Thánh buông xả trần cấu uế trược.
Người đời mê muội không biết ý nghĩa sâu xa của giới hạnh “CẠO BỎ RÂU TÓC”, buông xả thân để mưu cầu sự giải thoát; để ra khỏi cuộc đời đầy khổ đau và cay đắng. Một sự sai lầm rất lớn do vô minh không hiểu nghĩa giới hạnh “CẠO BỎ RÂU TÓC”, nên dùng tướng mạo cạo bỏ râu tóc của Phạm hạnh để lừa đảo, lường gạt người khác, thật là tội nghiệp cho những ai đã làm tội lỗi này mà không biết; để làm danh, làm lợi cho cá nhân; để hưởng dục lạc đầy đủ như người thế gian, thậm chí có người biến Phật giáo thành nghề nghiệp sống: nghề nghiệp thuyết giảng, nghề nghiệp tụng niệm cầu siêu, cầu an. Chính nghề nghiệp tụng niệm cầu siêu, cầu an là nghề mê tín lường gạt người. Nghề thuyết giảng là nghề nói dối. Ðối với Phật giáo, hai nghề nghiệp này là nghề làm sai.
Khi tu hành chưa xong đừng vì người thuyết giảng là không đúng, là sai, chỉ khi nào tu chứng mới dạy người tu, còn dạy người tu mà mình tu chưa chứng là nói dối. Người nói được mà chưa làm được, đó là người nói dối. Nói dối xấu lắm các bạn ạ! Các bạn giảng sư có biết không?
Lại cũng có những người mượn hình sắc cạo bỏ râu tóc biến Phật giáo trở thành một cái nghề mê tín như trên đã nói cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an, đốt tiền vàng mã, xem sao, bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu, v.v... Một cái nghề lường gạt người. Hành một cái nghề lừa đảo để sống như vậy các bạn có biết đó là một việc tội lỗi không?
Tội nặng lắm các bạn ạ! Các bạn ấy thật đáng thương! Thật đáng thương!!!
Những người cạo bỏ râu tóc không lo tu hành để tìm sự giải thoát cho mình mà lại lấy hình tướng cạo bỏ râu tóc làm nghề nói dối và làm nghề mê tín. Trước mặt mọi người họ gọi các bạn bằng Thầy, nhưng các bạn có thấy mình xứng đáng là Thầy của người khác chưa? Các bạn có sống hơn họ chút nào đâu mà làm thầy của họ. Phải không các bạn?
Một bậc làm Thầy Trời, Người đâu phải dễ các bạn ạ! Các bạn nên xét lại: Phạm hạnh của bậc Thầy Trời, Người các bạn có sống được chưa?
Ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, y áo sang cả, mặc toàn vải đắt tiền. Vả lại các bạn còn ở trong chùa to Phật lớn, giường rộng nệm êm. Cuộc sống như vậy các bạn thấy sao? Hình dáng, tướng mạo, cách sống của các bạn có xứng đáng làm Thầy Trời, Người được chưa? Trước mặt các bạn họ gọi là Thầy, nhưng sau lưng các bạn họ chê bai đủ điều, các bạn có biết không?
“Xoài cà lăm nhỏ trái mà chuaThầy tu mê gái bỏ chùa không ai coi”
Hoặc:
“Thầy chùa ăn vụng cá khoBà vãi bắt được đánh mo lên đầu”
Họ chê những điều các bạn đã vi phạm giới luật. Các bạn đừng tưởng họ không biết giới luật. Họ chê các bạn phạm giới như vậy là chê rất đúng các bạn ạ!.
Thà các bạn đừng đi tu mà đã đi tu tức là cạo bỏ râu tóc mà ở chùa sang đẹp như cung vàng điện ngọc, y áo thì chải chuốt bằng vải đắt tiền, thứ hàng nhập hàng ngoại, v.v... Ăn uống ngủ nghỉ phi thời, xem ca hát và ca hát như người thế tục thì còn gì là Phật giáo nữa các bạn?
Ngay từ giới đầu tiên “CẠO BỎ RÂU TÓC” mà quý thầy còn vi phạm tan nát thì các giới luật khác làm sao quý thầy không vi phạm.
Thưa các bạn! Giới hạnh Sa Môn đầu tiên mà các bạn đã sống không đúng, đã vi phạm thì tất cả hạnh Sa Môn quả làm sao các bạn có được? Nếu hạnh Sa Môn quả không có được thì làm sao các bạn xứng đáng là người tu sĩ của Phật (Thánh Tăng, Thánh Ni). Có đúng như vậy không các bạn?
Bởi vì hạnh Sa Môn ở đâu thì quả Sa Môn ở đấy, đúng như trong kinh Sa Môn Quả mà đức Phật đã dạy: “- Bạch Thế Tôn: chúng con dám đâu xem họ là người nô bộc nữa, trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như: y áo, đồ ăn khất thực, sàng toạ, thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ, che chở người ấy đúng theo luật pháp”. Chỉ vì các bạn đã lìa hạnh Sa Môn nên đã làm mất giá trị của một người tu sĩ Phật giáo. Các bạn chỉ còn là một hình thức cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà thôi. Thật là đau xót cho Phật giáo “có tiếng nhưng không có miếng”.
Những lời của vua A Xà Thế tuyên bố trên đây là đã xác định cụ thể rõ ràng: Do kết quả sống đúng Sa Môn hạnh hay là kết quả của nhóm giới luật thứ nhất mà người tu sĩ Phật giáo cần phải giữ gìn nghiêm túc... Nhờ đó mà mọi người cung kính, tôn trọng, quý mến, v.v...
Do giới hạnh và kết quả đi đôi với nhau như vậy, nên đức Phật dạy: “pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy...”. Hạnh ở đâu là quả ở đó, hạnh làm cho kết quả ly dục ly ác pháp hiện tiền cụ thể, mà kết quả ly dục ly ác pháp hiện tiền cụ thể ở đâu thì đức hạnh phải được gắn liền với nó ở đó. Hạnh và quả không thể chia làm hai pháp. Vì thế đức Phật dạy: “Giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”.
Tóm lại, giới thứ nhất: cạo bỏ râu tóc là giới tướng của người tu sĩ Phật giáo, thể hiện rõ nét buông xả. Xả thân cầu đạo. Nhất là lời nói này được nhắc đi nhắc lại mãi để khuyên răn người tu sĩ Phật giáo chớ có buông lung chạy theo dục lạc thế gian làm hư hoại đức hạnh thanh tịnh thân tâm của mình và còn làm suy đồi Phật giáo, tội ấy rất nặng các bạn ạ!.
Sống phải giữ gìn sắc tướng của người tu sĩ Phật giáo, đừng làm ô uế sắc tướng ấy. Làm ô uế sắc tướng ấy là làm ô uế Phật giáo, đấy các bạn ạ!
Ví dụ 1: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn vào quán lều bên vệ đường ngồi ăn uống như người thế tục thì còn gì là oai nghi tế hạnh giới hạnh cạo bỏ râu tóc. Phải không các bạn? Hay các bạn vào tiệm ăn hoặc nhà hàng khách sạn ăn uống ngủ nghỉ như người thế tục thì Phạm hạnh cạo bỏ râu tóc của các bạn còn đâu?
Ví dụ 2: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn lái xe gắn máy chạy ào ào, vượt đèn xanh đèn đỏ thì còn gì giới hạnh cạo bỏ râu tóc nữa. Phải không các bạn?
Ví dụ 3: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn hút thuốc lá, uống rượu, ca hát nhảy nhót, có khi hát vọng cổ sáu câu rất là mùi mẫn, đó là hành động phạm giới, phá giới tướng cạo bỏ râu tóc làm cho Phật Giáo suy đồi, làm cho Phật giáo mất gốc. Các bạn có biết không?
Ví dụ 4: Hình dáng cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà các bạn đi du ngoạn vào những khu ăn chơi của thế tục, những khu giải trí thế gian như Ðầm Sen, Văn Thánh, Suối Tiên, Phong Nha, v.v... như vậy còn gì Phạm hạnh cạo bỏ râu tóc của người tu sĩ Phật giáo. Phải không các bạn?
Cho nên cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa mà ngồi lều, ngồi quán ăn uống bên đường bên vỉa hè là không đúng tư cách của những người đệ tử Phật.
Vậy các bạn phải từ bỏ, những hành động này, những hành động này đáng trách và đáng chê. Xin các bạn lưu ý, đó là những hành động làm suy đồi Phật giáo, là hành động phạm giới tướng quá nặng. Tội lỗi ấy không thể nào tránh khỏi khi thời tiết nhân duyên đến. Xin các bạn lưu ý cho những tội lỗi này.
Người tu sĩ Phật giáo phải biết đúng chỗ nào nên ăn, nên ngồi, nên nằm, nên đứng, nên ở, v.v… còn ngược lại, phải biết đúng chỗ không nên ăn, không nên ngồi, không nên nằm, không nên đứng, không nên ở, v.v.. Ðó là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo cần phải sửa sai.
C.- GIỚI HÀNH CẠO BỎ RÂU TÓC
Muốn giữ gìn “GIỚI HÀNH CẠO BỎ RÂU TÓC” thì người tu sĩ hằng ngày phải như lý tác ý: “Cạo bỏ râu tóc là một Thánh hạnh xa lìa mùi tục lụy thế gian, ta đã chấp nhận Thánh hạnh này, khi chấp nhận thì phải giữ gìn trọn vẹn để hình sắc đầu tròn áo vuông nêu cao ánh đuốc soi đường giải thoát cho mọi người đi và làm sáng tỏ nền đạo đức nhân bản – nhân quả giúp cho con người có một lối sống cao thượng, biến cảnh thế gian thành Cực Lạc, Thiên Ðàng”.
Kính thưa các bạn! Các bạn nên nhớ thường xuyên nhắc nhở tâm mình bằng những câu tác ý này. Nhờ đó Phật giáo sẽ là nền đạo đức của loài người mãi mãi và mãi mãi.
3. GIỚI THỨ HAI: ÐẮP ÁO CÀ SA
A.- GIỚI ĐỨC ĐẮP ÁO CÀ SA là một hành động đạo đức làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo. Mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Thánh Tăng, Thánh Ni đều cần phải học và sống đúng đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về đức hạnh thanh bần, một trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để thiểu dục tri túc, để xứng đáng làm gương hạnh buông xả vật chất thế gian. Có như vậy, các bạn mới trở thành những ngọn đuốc soi sáng đạo đức trên hành tinh này, nhờ đó cõi thế gian này mới trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
“ÐẮP ÁO CÀ SA” là một hành động đạo đức buông xả thuộc về ăn mặc trang điểm thân thể. Người nào muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải chấp nhận giới đức này, tức là đức hạnh xả phú cầu bần còn gọi là ÐỨC THANH BẦN. Người xả phú cầu đạo là người biết buông bỏ những gì làm cho thân đẹp đẽ, làm cho thân sang trọng, quý phái. Cho nên, giới này thuộc về thân tướng đức hạnh thanh bần làm Thánh.
Ðời sống thế gian mọi người thường thích trang điểm làm đẹp, làm sang, không ai muốn mình xấu, mình nghèo, v.v... Ai cũng muốn mình đẹp và giàu sang, vì sự ham muốn ấy khiến cho đời người phải chịu nhiều khổ đau, dù có đạt được mục đích đẹp đẽ và giàu sang, đời sống vật chất có hơn mọi người, nhưng tinh thần vẫn chịu nhiều khổ đau và còn khổ đau hơn những người chưa đạt mục đích tham dục ấy.
“ÐẮP ÁO CÀ SA” là một giới luật dạy cách thức ăn mặc của những người xuất gia đã thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian. Y áo cà sa là loại y áo của người tu sĩ Phật giáo mặc, may bằng những loại vải thô xấu, vải bỏ, vải bó thây ma, có nghĩa là người tu sĩ Phật giáo không còn ăn mặc sang đẹp những loại vải hàng đắt tiền như người thế tục, mà chỉ ăn mặc vải thô xấu, để trở thành người nghèo nhất trong xã hội. Cho nên, giới này còn gọi là “Giới đức xả phú cầu bần”, tức là buông bỏ những cái sang cái đẹp của cuộc đời để tìm một lối sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Một lối sống mà chỉ có những người tu sĩ Phật giáo chân chánh mới có.
Người tu sĩ chân chánh của Phật giáo không bao giờ mặc áo cà sa vải đắt tiền, sống không xa hoa như người thế tục. Do đức hạnh này mà người tu sĩ Phật giáo được mọi người kính trọng, còn những tu sĩ ăn mặc vải hàng đắt tiền, vải nhập là những tu sĩ phạm giới, phá giới, sống không thiểu dục tri túc, thiếu đức xả phú cầu bần, họ là những Ma Ba Tuần trong Phật giáo, họ là trùng trong lông sư tử và sẽ giết sư tử chết.
B.- GIỚI HẠNH ÐẮP ÁO CÀ SA
Chính vua A Xà Thế khi nghe đức Phật dạy chín oai nghi tế hạnh này thì Ông chấp nhận ngay liền và còn xác định: dù là kẻ hầu, người nô bộc, nô tỳ trong cung điện nhà vua, nhưng khi họ đã xuất gia giữ gìn chín oai nghi tế hạnh như vậy, nhà vua cũng phải cung kính, tôn trọng, cúi đầu đảnh lễ như những vị tu sĩ khác.
Bởi vậy, giới luật là những oai nghi tế hạnh nên nó nhiếp phục được tất cả mọi người. Người tu sĩ Phật giáo sống không đúng giới hạnh thì không được mọi người cung kính, tôn trọng nhất là những Phật tử chân chánh.
Oai nghi tế hạnh xả phú cầu bần là những hành động đạo đức cao đẹp mà người thế gian không bao giờ làm được, chỉ có những người xuất gia thấy rõ các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, nên tự giác xả bỏ vật chất thế gian để sống đời Phạm hạnh, sống đời Thánh thiện không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
Quyết sống một đời sống Phạm hạnh nên chấp nhận những giới luật đức hạnh buông xả, dù có khó khăn đến đâu cũng vượt qua. Vì thế thường nhắc tâm mình:
“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!Chớ giữ làm chi có ích gì?Thở ra chẳng lại còn chi nữa,Vạn sự vô thường buông xuống đi!”
Bài kệ trên đây đã xác định Thánh hạnh xả phú cầu bần của một bậc chân tu đã ra khỏi mọi sự ràng buộc của các pháp thế gian.
Giới luật Thánh hạnh là như vậy, nhưng xét lại người tu sĩ thời nay là tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu tiền, tu bạc, tu ăn tu ngủ, tu xe hơi, tu y áo, v.v... Những tu sĩ này đã biến Phật giáo trở thành là một tôn giáo lừa đảo, chứ không còn là một tôn giáo đức hạnh nhân bản – nhân quả của loài người nữa.
C.- GIỚI HÀNH ÐẮP ÁO CÀ SA
Muốn sống đúng Thánh hạnh “GIỚI HÀNH XẢ PHÚ CẦU BẦN” thì hằng ngày phải chuyên cần siêng năng theo pháp như lý tác ý: “Muốn ra khỏi nhà sanh tử thì phải luôn luôn giữ gìn sống đúng Thánh hạnh xả phú cầu bần, nếu không giữ gìn đúng Thánh hạnh này thì dù có tu hành đến muôn ngàn kiếp vẫn hoài công vô ích, uổng phí một đời”.
Kính thưa các bạn! Tất cả những giới luật nhỏ nhặt này đều là những đạo đức và những oai nghi tế hạnh của một tu sĩ Phật giáo chân chánh, còn những tu sĩ không chân chánh thì xem thường những đức hạnh này họ thuộc về những hạng người lợi dụng tôn giáo làm cuộc đời. Hơn thế nữa có những kẻ lợi dụng sự tín ngưỡng tôn giáo của mọi người để thống lãnh toàn cầu dưới quyền sinh sát loài người trong tay họ. Xin các bạn lưu ý: tôn giáo chỉ là nền đạo đức của con người, làm lợi ích cho con người, chứ không được phép lừa đảo và không có quyền cai trị loài người bằng thần quyền, mê tín.
4.- VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THỨ BA: “TỪ BỎ GIA ÐÌNH”
A.- GIỚI ĐỨC TỪ BỎ GIA ÐÌNH là một hành động Thánh hạnh cắt ái ly gia, thoát khỏi mọi sự ràng buộc tình cảm gia đình, gia tộc, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo. Mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm Thánh ra khỏi sinh tử luân hồi thì cần phải học và sống đúng những đức hạnh này.
Ðây là một giới luật dạy về đức hạnh trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
TỪ BỎ GIA ÐÌNH là “GIỚI ÐỨC LY GIA CẮT ÁI ” là một hành động đạo đức thuộc về thân và tâm giải thoát của Phật giáo để trở thành một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni. Giới này nghe thì dễ nhưng thực hiện nó cho bằng được thì khó vô cùng. Khi thực hiện giới này không khéo léo thiện xảo thì các bạn phạm vào giới đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai thì “GIỚI ÐỨC LY GIA CẮT ÁI” thật là khó nan giải. Phải không các bạn?
Ở đời ai ai cũng phải có gia đình, nhưng đối với những người tu sĩ Phật giáo thì phải ly gia cắt ái. Chính gia đình là những sợi dây tình cảm của những người thân thương trói buộc rất chặt nên khó cho các bạn tu tập giải thoát.
Ðạo Phật chủ trương sống không làm khổ mình, khổ người, nhưng phải cắt ái ly gia thì tu hành mới chứng đạo. Ðiều này nghe thì dễ nhưng làm thì khó vô cùng như trên đã nói. Cắt ái ly gia mà gia đình không buồn thì làm sao được. Phải không các bạn? Ðấy là đạo đức Thánh hạnh giải thoát của Phật giáo đấy các bạn ạ!
Vậy trước tiên bạn muốn tu theo Phật giáo thì bạn phải tu học đạo đức làm người sống không làm khổ mình, khổ người, có nghĩa là các bạn phải sống nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng như thế nào, để mọi người trong gia đình mến phục đức hạnh của các bạn và khi các bạn xuất gia mọi người thân sẽ vui vẻ không có ý cản trở sự tu hành.
Khi mọi người trong gia đình vui lòng cho các bạn đi tu, thì các bạn đừng chần chờ mà hãy mau mau rời bỏ gia đình để thực hiện ở giai đoạn hai của Phật giáo, để trở thành người tu sĩ Phật giáo chân chánh “TỪ BỎ GIA ÐÌNH”.
“TỪ BỎ GIA ÐÌNH” là một đức hạnh làm Thánh ly gia cắt ái. Vì thế, các bạn không có quyền làm khổ những người thân trong gia đình.
Bằng mọi cách các bạn phải sống với họ như thếnào? Và đối xử như thế nào để họ vui lòng chấp nhận cho các bạn xuất gia tu hành. Ðó mới gọi là “GIỚI ÐỨC LY GIA CẮT ÁI”. Chỉ cần các bạn không ý thức đức hạnh về điều này thì gia đình các bạn tan nát và khổ đau, và như vậy các bạn phạm vào giới “TỪ BỎ GIA ÐÌNH” tức là “GIỚI ÐỨC LY GIA CẮT ÁI ” không bao giờ được viên mãn.
B.- GIỚI HẠNH LY GIA CẮT ÁI
“TỪ BỎ GIA ÐÌNH” là một Thánh hạnh giải thoát không còn ái kiết sử trói buộc. Vì vậy, người tu hành tìm cầu sự giải thoát mà còn vướng bận gia đình thì làm sao giải thoát được. Sự thương, sự nhớ cũng làm cho các bạn tu hành rất khó khăn. Phải không các bạn?
Mục đích của Phật giáo là sống trong thế gian mà vượt ra ngoài thế gian, sống bình thường nhưng lại phi thường, vì dục và ác pháp không còn tác động vào thân tâm các bạn được, nhưng các bạn cũng không phải sống trơ trơ như đá.
Các bạn có biết không? Gia đình là một chùm nhân quả, vì thế muốn sống không gia đình như trong giới luật đã dạy thì các bạn không được quyền bỏ gia đình, bỏ cha mẹ, vợ con v.v.., nhưng khi muốn đi tu thì các bạn phải được sự đồng ý của những người này. Ðồng ý cho các bạn đi tu không phải vì sự bắt buộc của các bạn, mà vì người thân trong gia đình đã tự giác ngộ đời người là đau khổ. Khi mọi người trong gia đình đồng ý cho các bạn đi tu là họ đã hiểu được con đường giải thoát của Phật giáo là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người... Con đường ấy có đủ khả năng nội lực làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Một người tu sĩ của Phật giáo có vợ con thì đó là phạm vào giới hạnh sống không gia đình.
Cho nên, mọi người thấy một người tu sĩ Phật giáo có vợ con thì đó là một cư sĩ trọc đầu. Thật ra người cư sĩ trọc đầu là một tu sĩ phạm giới, phá giới, là một loại trùng trong lông sư tử, nó sẽ giết chết sư tử, nó sẽ giết chết đạo Phật. Ðó là một loài Ma trong Phật giáo. Xin các bạn lưu ý và cảnh giác những hạng tu sĩ này, họ là những người mượn tôn giáo làm đời sống.
“SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH” là một Thánh hạnh giải thoát của người tu sĩ Phật giáo. Người tu sĩ Phật giáo phải chấp nhận một đời sống du Tăng khất sĩ, một đời sống phiêu lưu nay đây mai đó, sống không gia đình, không nhà cửa. Ðây là một cuộc sống trái ngược với cuộc sống thế gian. Cuộc sống thế gian là phải có gia đình, một mái ấm tình thương. Ngược lại, đời sống tu sĩ Phật giáo phải ly gia cắt ái, tức là sống không gia đình.
Ðó là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo, sống trong trần lao mà đã ra khỏi trần lao, nếu ai không chấp nhận Thánh hạnh này thì đừng nên xuất gia. Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà thế tục, sống một đời giải thoát không còn bị ai trói buộc các bạn bằng bất cứ điều gì.
“SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH” là giới hạnh giải thoát của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni, nếu ai muốn tu theo Phật giáo mà không chấp nhận giới hạnh ly gia cắt ái này thì không bao giờ trởthành người tu sĩ Phật giáo chân chánh được.
“SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH” là giới cụ túc thứ ba nó thuộc về giới hạnh ly gia cắt ái, nếu không có giới hạnh ly gia cắt ái thì làm sao thoát khỏi sự trói buộc của nhân quả ái kiết sử. Làm sao ra khỏi nhà sanh tử và chấm dứt luân hồi. Giới này là giới luật cắt tất cả những sợi dây ái kiết sử.
Vậy các bạn nên lưu ý: Thánh hạnh giải thoát là đây, ngoài Thánh hạnh này đi tìm sự giải thoát không có.
Ngày xưa, đức Phật đã chấp nhận giới này nên Ngài mới bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ. Khi bỏ đi tu như vậy mới ra khỏi sự trói buộc của những sợi dây ái kiết sử.
Chúng ta nói thì dễ nhưng mấy ai làm được, khó lắm các bạn ạ! Khi đã có gia đình là điều khó bỏ, khó vô cùng khó.
Làm được như đức Phật phải là người có nghị lực, có gan dạ, có ý chí, có quyết tâm cao, chứ hạng tầm thường thì chẳng bao giờ dứt áo ra đi được, cuộc sống trách nhiệm bổn phận trong gia đình luôn luôn kéo dài mãi lê thê trong tình trạng như kéo cưa. Vì thế, sự tu hành chỉ dậm chân tại chỗ, không tiến sâu vào định và cũng không thể vượt ra khỏi không gian và thời gian của nhân quả.
Nếu ngay giới hạnh thứ ba “SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH” này các bạn đã sống đúng nghiêm chỉnh thì đã nhận ra được sự giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của gia đình vợ con hay chồng con. Ðó là một sự ràng buộc mà những nhà tu hành gọi đó là nhà tù khổ sai chung thân. Nói như vậy có quá lời không các bạn? Nếu các bạn có gia đình thì các bạn sẽ biết nỗi khổ này, hạnh phúc gia đình chỉ là bong bóng nước, khổ nhiều mà sự an vui chẳng có bao nhiêu. Phải không các bạn?
Nếu giới hạnh thứ ba “SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH” này các bạn không chấp nhận thì giới thứ nhất và giới thứ hai chỉ là một hình thức một tu sĩ Phật giáo suông mà thôi. Cuộc đời của các bạn mang hình thức tu sĩ Phật giáo mà không dám lìa xa các ái kiết sử thì cũng phí một đời tu hành của các bạn mà thôi.
Cuộc đời tu hành theo Phật giáo lấy sự giải thoát làm đầu, cho nên tất cả sự việc trên thế gian này đều buông xả sạch nhờ có buông xả sạch nên mới làm chủ được nhân quả. Còn gia đình là một nhân quả đã vay trả trải qua nhiều đời kiếp, chứ không phải chỉ có một đời nay. Các bạn nên nhớ.
“TỪ BỎ GIA ÐÌNH, SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH” là một việc làm rất khó, bỏ mà có đạo đức, bỏ mà không làm khổ mình, khổ người thì mới gọi là bỏ.
Xin các bạn nên lưu ý, giới thứ nhất và giới thứ hai: “CẠO BỎ RÂU TÓC, ÐẮP ÁO CÀ SA” giúp các bạn thay đổi hình sắc thế gian, bằng hình sắc xuất thế gian để nhắm hướng giải thoát đi đến. Vì thế, giới thứ ba dạy việc đầu tiên là các bạn phải buông xả chùm nhân quả gia đình: “TỪ BỎ GIA ÐÌNH, SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH”.
Khi từ bỏ gia đình sống không gia đình thì các bạn tìm thấy được sự giải thoát ngay liền không còn bị trói buộc những sợi dây ái kiết sử nữa. Ðó là pháp thực tế hiện tại không có thời gian đến để mà thấy.
Quả giải thoát ngay liền nhưng việc làm được như vậy không phải là một việc dễ làm như đã nói ở trên. Vì nó là giới hạnh ly trần tục, thoát kiếp đời khổ đau.
Khi nghe đức Phật trình bày kết quả giải thoát của vị Sa Môn thì vua A Xà Thế phải chấp nhận ngay liền. Sự chấp nhận của Vua A Xà Thế cũng là một kết quả của Sa Môn hạnh hay nói cách khác là kết quả giới hạnh làm Thánh của những người tu theo Phật giáo.
Học giới luật đến đây các bạn thấy giới luật của Phật là một pháp môn tuyệt vời, mỗi giới đều có mỗi đức, mỗi hạnh. Mỗi đức, mỗi hạnh đều nhắm vào mục đích ly dục, ly ác pháp để đi đến quả giải thoát hoàn toàn.
Kính thưa các bạn! Giới luật là một pháp môn dạy về đức hạnh, đâu phải là chiếc bè đưa qua sông như các nhà Ðại Thừa đã hiểu. Các bạn tu học giới luật là để thấm nhuần đức hạnh làm Người làm Thánh. Khi thấm nhuần giới luật đức hạnh thì các bạn trở thành giới luật đức hạnh.
Như vậy giới luật là chiếc bè sang sông thì không đúng các bạn ạ! Cho nên lời dạy: “Chánh pháp còn phải bỏ huống là phi pháp” lời dạy này không đúng xin các bạn đừng nghe theo, đó là lời phi pháp để diệt chánh pháp của đức Phật.
A.- GIỚI HÀNH SỐNG KHÔNG GIA ĐÌNH
Muốn sống không gia đình thì hằng ngày các bạn nên tư duy: “Gia đình là sợi dây ái kiết sử, khiến cho các bạn rất khổ đau vì lòng yêu thương những người thân trong gia đình”.
Thưa các bạn! Vì lòng thương yêu đối với những người thân trong gia đình mà biết bao nhiêu lần các bạn phải khổ đau với họ. Những sự khổ đau ấy gồm có:
1/ Khi những người thân bệnh tật các bạn phải chăm sóc thức khuya dậy sớm, phải cho ăn cho uống thuốc, phải dìu dắt tiêu tiểu bồng bế, phải giặt giũ quần áo, v.v.. chịu biết bao vô vàn cực khổ khi ở nhà cũng như đến bệnh viện.
2/ Khi những người thân bị tai nạn thì các bạn lo lắng, buồn rầu ăn không ngon, ngủ không yên, v.v…
3/ Khi có những người thân rượu chè say sưa, cờ bạc, điếm đàng, v.v... là một tai hoạ cho gia đình rất lớn các bạn sẽ khổ đau biết chừng nào.
4/ Khi con cái không nghe lời cha mẹ, bỏ học trốn học, bê tha chơi bời với những bè bạn hư thân mất nết thì các bạn làm cha mẹ rất là khổ tâm.
5/ Khi vợ hay chồng ngoại tình là một nỗi khổ tâm nhất cho những người thân trong gia đình, không những người lớn mà con cái cũng đau khổ.
6/ Khi trong gia đình có người mất là một nỗi khổ đau buồn bã nhất, không còn ai thích ăn, thích ngủ, thích làm, thích vui chơi, v.v… Thật là một nỗi trời sầu đất thảm.
7/ Những lời khuyên răn, những lời dạy bảo, những lời nói ngăn cản không cho người thân làm những điều sai trái thì dường như những lời ấy làm nghịch ý, sinh ra những chướng ngại trong gia đình khiến mọi người không vui. Ðấy cũng là một sự khổ đau, buồn phiền.
Kể ra sống trong gia đình là một cuộc sống khổ đau triền miên bất tận, phải nói rằng khổ đau thì nhiều mà sự an vui thì không bao nhiêu.
Bởi vậy muốn thoát ra khỏi mọi sự khổ đau trên cuộc đời này thì gia đình là nơi mà các bạn cần phải xa lìa trước nhất. Do đó, những giới đầu tiên của Phật giáo cho người xuất gia đều nhắm vào ái kiết sử, vì thế, phải giữ gìn nghiêm chỉnh giới “SỐNG KHÔNG GIA ÐÌNH”.
Muốn sống không gia đình thì các bạn thường tác ý: “Gia đình là ái kiết sử, là nỗi khổ đau bất tận của loài người, là lộ trình của qui luật nhân quả để tiếp tục tái sinh luân hồi khổ đau mãi mãi, ta phải cố gắng bằng mọi cách vượt ra mạng lưới của gia đình”.
Tóm lại, người tu sĩ và người cư sĩ Phật giáo phải thông suốt mạng lưới ái kiết sử gia đình, để tìm mọi cách thoát ra và chấm dứt sợi dây vô hình luôn luôn trói buộc bằng tình thương và đau khổ muôn đời mà mọi người trên thế gian này không ai tránh khỏi.
5.- VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THỨ TƯ: SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA
“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA” là một hành động đạo đức thuộc về thân và tâm làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mà mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni xả bỏ lối sống thế gian để đi vào lối sống Thánh thiện của một bậc phi phàm. Ðây là một giới luật dạy về đức và hạnh trong những đức hạnh làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.
Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- GIỚI ĐỨC LY GIA SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA
“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA” là một đức hạnh sống lìa bỏ sanh y của những bậc Thánh Tăng, Thánh ni ly dục ly ác pháp, chứ không phải như một số người sống du mục như dân Bắc Cực, Nam Cực. Dân Bắc Cực, Nam Cực sống không nhà cửa là vì họ sống trên băng tuyết nên tìm lối sống bằng cách săn hải cẩu hoặc bằng cách chăn nuôi dê, cừu, bò v.v.. Do sống như vậy nên phải chấp nhận đời sống du mục.
“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA” là một đức hạnh giải thoát sống ly gia, một đời sống Du Tăng Khất Sĩ. Nhờ lối sống như vậy nên mới buông xả được mọi vật chất trên thế gian này. Do đức sống ly gia mà thân tâm mới được giải thoát, đời sống mới có thanh thản, an lạc và vô sự.
Ai cũng biết Phật giáo có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người. Nếu sống không làm khổ mình, khổ người mà không sống đúng đức hạnh giải thoát ly gia cắt ái thì không thể nào sống trọn vẹn được.
B.- GIỚI HẠNH LY GIA SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA
“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA” là một hành động sống hạnh từ bỏ nhà cửa, tức là ly tất cả các pháp trên thế gian này. Vì tất cả các pháp trên thế gian này đều là do duyên hợp mà thành, nên không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do biết rõ thật như vậy nên các bạn mới chấp nhận sống không nhà cửa. Sống không nhà cửa là sống thoát ly mọi vật chất trên thế gian này, nó có nghĩa là sống buông xả sạch.
“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!Chớ giữ làm chi có ích gì?Thở ra chẳng lại còn chi nữa,Vạn sự vô thường buông xuống đi!”
Nhờ buông xuống mà thân tâm được thanh thản an lạc và vô sự; nhờ buông xuống mà sống giải thoát sanh tử luân hồi.
“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA” là một Thánh hạnh ly gia cắt ái của những người đã thông suốt lý duyên hợp của các pháp. “Các pháp thế gian là pháp sinh diệt. Sinh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”. Ðúng vậy, người thấu suốt lý nhân duyên thì sống không nhà cửa, còn những người chưa thấu suốt lý nhân duyên thì sống nhà cao cửa rộng, chùa to Phật lớn, sống đầy đủ vật chất nhưngười thế gian, sống dính mắc vật chất, sống thiếu đức hạnh thanh bần buông xả, “xả phú cầu bần xả thân cầu đạo”.
Nếu cuộc đời tu hành mà sống không đúng giới hạnh này thì không phải là người tu sĩ Phật giáo. Vì người tu sĩ Phật giáo là người ly gia cắt ái.
“SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA” là một Thánh hạnh tuy rất tầm thường nhưng rất quan trọng cho việc tu hành tìm cầu sự giải thoát. Xin các bạn nên lưu ý giới hạnh này, có sống đúng thì mới có sự giải thoát chân thật rõ ràng cụ thể.
C.- GIỚI HÀNH LY GIA SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA
Muốn ly gia cắt ái để xuất gia tu hành cho dễ dàng hơn thì nên đối xử với những người thân thương trong gia đình của mình, nhất là phải biết nhẫn nhục, tuỳ thuận và bằng lòng trong mọi nghịch cảnh, phải biết lắng nghe và tôn trọng, thương yêu và tha thứ cho họ khi họ có những lời và những hành động ngăn cản chống đối lại việc tu hành của mình. Do hoàn cảnh nghịch như vậy các bạn nên tuỳ thuận, nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp có nghĩa là các bạn phải giữ gìn tám giới (Bát Quan Trai) cho nghiêm túc và cố gắng tu tập 18 đề mục Ðịnh Niệm Hơi Thở, Ðịnh Vô Lậu và đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh.
Sống trong gia đình các bạn phải luôn luôn siêng năng làm mọi việc, vui vẻ với mọi người, nhưng phải giữ lập trường cho thật vững, họ nói gì, làm gì có vẻ không đồng ý ngăn cản về sự giữ giới luật thì các bạn nên cương quyết giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm, nhưng rất cởi mở không tỏ ra lầm lầm lì lì khó chịu, v.v... Có giữ gìn sự hài hoà như vậy thì mới có ngày thực hiện được ý nguyện.
Muốn có sự hài hoà làm vui lòng mọi người như vậy, hằng ngày các bạn phải dùng pháp như lý tác ý: “Ta phải biết giữ lập trường cho vững, nhất định ta phải vượt ra vòng cương tỏa của ái kiết sử, nhưng luôn luôn sống hài hoà với mọi người trong gia đình không nên làm khổ họ”. Có tác ý và tu tập như vậy thì nhân duyên đủ các bạn sẽ được toại nguyện. Ðó là giới hành “SỐNG KHÔNG NHÀ CỬA”. Ðời sống không gia đình không nhà cửa thì thân tâm dễ dàng thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ! Sự tu hành theo Phật giáo không phải dễ, thường gặp nghịch cảnh hơn là thuận cảnh, đó là một sự thử thách trong đời tu của các bạn, các bạn đừng nản lòng, hãy tinh tấn lên phía trước là một chân trời giải thoát đang chờ các bạn.
6.- VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THỨ NĂM: SỐNG CHẾ NGỰ THÂN
“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN” là một hành động Thánh hạnh đạo đức sống ngăn ngừa mỗi hành động của thân, để điều khiển thân, không cho thân hành động chạy theo dục nhiễm thế gian, khiến cho thân được thanh thản, an lạc và vô sự.
“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN” nó là một đức hạnh có ích lợi rất lớn cho mọi người, nhờ nó mà mọi người sống không làm khổ mình, khổ người. Vì thế, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này, nếu muốn làm người có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và để thoát ra khỏi mọi sự khổ đau trong cuộc đời này và chấm dứt sinh tử luân hồi thì cần phải học hiểu biết và sống đúng đức hạnh “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”.
“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”, đây là một giới luật dạy về đức và hạnh trong những đức hạnh làm Người, làm Thánh mà các bạn cần phải học hiểu và sống đúng những đức hạnh này cho trọn vẹn để có đạo đức nhân bản - nhân quả. Có như vậy, các bạn mới biến cuộc sống trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng.
A.- GIỚI ĐỨC SỐNG CHẾ NGỰ THÅN
Giới thứ năm “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”, là một giới luật dạy mọi người phải thường sống có đạo đức biết ngăn chặn thân không cho thân chạy theo dục lạc. Vậy sống đạo đức chế ngự thân là sống như thế nào?
Trước khi muốn hiểu nghĩa câu này thì các bạn nên hiểu từ chế ngự. Vậy chế ngự nghĩa là gì? Chế ngự nghĩa là ngăn chặn làm cho đối phương phục tùng, làm cho kẻ khác phải đầu hàng, làm cho giảm bớt, khiến đối phương phải làm theo ý lệnh của mình.
“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”, là một Thánh hạnh đạo đức tức là sống ngăn chặn và điều khiển thân không cho thân hành động làm những điều ác, luôn làm những điều thiện. Thân làm những điều lành là làm những điều có đạo đức, làm những điều không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.
Như vậy giới “SỐNG CHẾ NGỰ THÂN” dạy các bạn sống làm chủ thân mình. Làm chủ thân mình đó là một Thánh hạnh sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Một hành động giới luật sống ngăn chặn mỗi hành động của thân không cho nó làm ác như vậy là một hành động đạo đức cao thượng tuyệt vời mà mọi người trong thế gian này cần phải học và tu tập rèn luyện đức hạnh này.
B.- GIỚI HẠNH SỐNG CHẾ NGỰ THÅN
“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN” là một Thánh oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ Phật giáo, luôn luôn sống ngăn chặn không cho thân làm những điều ác như trên đã nói. Nghe dạy đến đây các bạn đừng hiểu lầm sống chế ngự thân là sống ức chế thân, khiến cho thân phải khổ sở, khiến cho thân phải hy sinh mạng sống vì tìm cầu sự giải thoát, vì tôn giáo của mình, vì những ước vọng điên đảo để được lên Thiên Ðàng, Cực Lạc, Niết Bàn mà bắt buộc thân phải làm những điều cực ác. Ðó là những ảo tưởng, cuồng tín chấp chặt những giới cấm thủ, những giáo điều điên đảo của ngoại đạo. Cho nên mới có những cuộc Thánh chiến tàn sát con người chết lớp lớp, xương chồng chất như núi, máu chảy như sông của những người cuồng tín gây thương đau cho loài người hiện có mặt trên hành tinh này mà lịch sử loài người còn ghi chép lại những trang sử đẫm máu của những tôn giáo thống trị loài người một cách kinh hoàng.
Muốn được sống Thánh hạnh chế ngự thân như vậy, khi thân muốn làm một điều gì thì phải phản ảnh lại hành động của thân, nghĩa là phải tư duy suy nghĩ những hành động của thân trước khi khởi làm. Có như vậy các bạn mới chủ động điều khiển mỗi thân hành mà không bị nghiệp ác lôi.
Nhưng dựa vào đâu mà chúng ta biết thân hành làm đúng, thân hành làm sai?
Thưa các bạn! Các bạn muốn biết điều này không khó. Khi suy nghĩ thân hành thấy thân hành nào làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ cả hai thì đó là những thân hành sai, thân hành ác, nhất định không nên làm những thân hành đó. Không làm những thân hành đó là các bạn sống chế ngự thân. Sống chế ngự thân là hành động đạo đức không làm những điều ác hại mình, hại người, hại cả hai.
Cứ theo giới luật sống chế ngự thân như vậy thì các bạn sẽ có một kết quả giải thoát không còn khổ đau phiền não giận hờn, v.v… rất là thiết thực cụ thể. Sống chế ngự thân là một việc làm không thua gì mọi nghề nghiệp trên thế gian này. Vì mọi nghề nghiệp trên thế gian này mang đến sự sống như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc thang đầy đủ, thì việc chế ngự thân cũng vậy nó mang đến cho các bạn với một thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Tóm lại, giới thứ nhất, giới thứ hai, giới thứ ba, giới thứ tư và giới thứ năm đều mang lại một kết quả hiện tại giải thoát thiết thực cụ thể thật sự đem đến sự an lạc hạnh phúc cho con người. Vì thế vua A Xà Thế phải chấp nhận và tán thán giới luật của Phật: “Bạch Thế Tôn! Như vậy chính là kết quả thiết thực hiện tại của Sa Môn hạnh”, mà không ai dám phủ nhận được những giới luật này
C.- GIỚI HÀNH SỐNG CHẾ NGỰ THÅN
“SỐNG CHẾ NGỰ THÂN” là một giới hành ly dục ly ác pháp tuyệt vời, vì thế các bạn hằng ngày phải nghiêm chỉnh giữ gìn giới này. Do nghiêm chỉnh giữ gìn giới luật này nên mỗi khi thân làm một việc gì thì các bạn đều phải suy tư xem xét trước khi nó làm. Do kiểm tra xem xét như vậy nên thân làm việc các bạn đều biết rõ. Do biết rõ từng hành động của thân mình nên các bạn làm bất cứ việc gì đều không có lỗi lầm. Tại sao vậy?
Trước khi muốn làm một việc gì các bạn đã biết việc làm đó thiện hay ác. Nếu việc đó ác, nhất định các bạn sẽ không làm. Vậy làm sao biết việc thiện, việc ác? Biết việc thiện, việc ác không khó các bạn ạ! Khi các bạn làm một việc mà việc đó không làm khổ mình, không khổ người và không khổ cả hai là việc thiện. Còn ngược lại là việc ác như trên đã dạy.
Muốn giữ gìn giới này nghiêm chỉnh thì hằng ngày các bạn nên nhớ dùng pháp như lý tác ý: “Phải tỉnh giác trên từng thân hành, không được để thân hành làm theo thói quen”. Với câu này các bạn phải nhắc thường xuyên tác ý hoặc các bạn tác ý một câu khác: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” hoặc “Ðưa tay ra tôi biết tôi đưa tay ra, đưa tay vào tôi biết tôi đưa tay vào” hoặc “Ði kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Ðó là tập tỉnh thức trên thân hành tức là thân làm việc gì đều biết thân làm việc nấy.
Ðiều cần thiết trong giới hành này là các bạn phải tập chánh niệm tỉnh giác để kiểm soát những hành động trước khi các bạn muốn làm một điều gì mà trong kinh sách đức Phật thường nhắc nhở: “PHẢN TỈNH THÂN HÀNH”. Phản tỉnh thân hành là “GIỚI HÀNH SỐNG CHẾ NGỰ THÂN”. Xin các bạn lưu ý: Trong bộ Văn Hoá Truyền Thống tập I đã có dạy giới hành Sa Di này, nó có tên là GIỚI THÂN HÀNH.
7.- VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THỨ SÁU: SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI ” là một hành động đạo đức thuộc về khẩu hành làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ bằng tất cả đức hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ những lời nói ác để thực hiện vào lối sống Thánh thiện.
A.- GIỚI ĐỨC SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là một đức hạnh ngôn ngữ để thực hiện Thánh đức im lặng. Người ở đời thường hay dục ăn, dục nói, ít khi có ai chịu suy nghĩ lời nói trước khi nói ra. Khi đã nói ra lời nói không ái ngữ thường đem đến sự khổ đau cho mình, cho người và cho cả hai. Biết rõ điều này hơn ai hết nên đức Phật dạy: “Sống chế ngự lời nói”. Sống chế ngự lời nói là một hành động ngăn chặn và hạn chế lời nói ác, lời nói khiến mình khổ, người khác khổ. Nhờ có hạn chế và ngăn chặn lời nói ác nên cuộc sống mới được yên vui, an lạc và vô sự.
Người nào biết sống chế ngự lời nói ác là người có đạo đức về ngôn ngữ, họ luôn luôn ít nói nhưng khi nói ra thì nói những lời êm ái, dịu dàng, ôn tồn, nhã nhặn thường mang lại sự an vui, hạnh phúc cho mình, cho người và cho cả hai.
Muốn được vậy thì phải tu tập và sống đúng giới đức, giới hạnh, giới hành này nghiêm chỉnh, nhờ có tập sống như vậy lâu ngày mới thành thói quen im lặng, ít nói, hạn chế và ngăn chặn lời nói, càng ít nói, càng hạn chế và ngăn chặn lời nói thì càng yên vui và hạnh phúc hơn. Sự im lặng ít nói thường mang lại hạnh phúc, yên vui nhiều hơn cho mình và cho mọi người.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là người biết sống cho mình, cho người. Bởi vậy người biết sống cho mình, cho người là người phải nói ít, khi muốn nói ra một điều gì đều phải có sự suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới nói như trên đã dạy. Khi suy nghĩ kỹ lưỡng thấy lời nói ra không có hại mình, hại người, hại cả hai thì mới nói, như trong kinh Giáo Giới La Hầu La đức Phật dạy: “Này La Hầu La, khi con muốn nói một lời nói gì thì hãy suy nghĩ lời nói ấy như sau: lời nói này của ta, có thể đưa đến làm khổ ta, có thể đưa đến làm khổ người khác, có thể đưa đến làm khổ cả hai. Lời nói này bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Một lời nói như vậy, này La Hầu La nhất định chớ có nói, con ạ!”.
Ðoạn kinh trên đây đã xác định cho các bạn thấy rằng: “SỐNG CHẾ NGỰ LỜ I NÓI” là một giới đức để thực hiện đức ái ngữ.
Một người muốn sống có đạo đức về lời nói thì phải chế ngự và ngăn chặn lời nói ác. Chế ngự và ngăn chặn lời nói ác là một hành động đạo đức về ngôn ngữ. Cho nên làm người ai ai cũng phải học, hiểu và rèn luyện đạo đức này, nếu thiếu đức hạnh này thì cuộc sống không bao giờ có hạnh phúc, không bao giờ có tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Cho nên, ngôn ngữ là một vấn đề quan trọng khi giao tiếp với mọi người, lời nói không khéo sẽ mang đau khổ cho mình cho người, vì thế nên cẩn ngôn nói ít chứ đừng nói nhiều là hay nhất.
B.- GIỚI HẠNH NGÔN NGỮ SỐNG CHẾ NGỮ LỜI NÓI
Thưa các bạn! Chúng ta là những người hậu học, có đầy đủ phước duyên với chánh pháp của đức Phật, nên mới được nghe những lời dạy quý báu đầy thương yêu tha thiết của một người cha lành đang dạy những đứa con mà chắc chắn trên đời này chúng ta khó gặp, khó tìm được một người cha như vậy.
Ðọc những lời dạy giới luật trên đây của đức Phật các bạn có thấy mình giống như La Hầu La không? Một đứa con độc nhất của đức Phật. Theo chúng tôi nghĩ: các bạn hiện giờ cũng giống như La Hầu La đứa con duy nhất của đức Phật đang được nghe những lời dạy êm ấm đầy lòng thương yêu. Phải không các bạn?
Ngày xưa đức Phật trực tiếp dạy La Hầu La. Ngày nay những lời dạy ấy vẫn còn trực tiếp dạy chúng ta. Chúng ta là những đứa con một của đức Phật đang lắng nghe những lời dạy ấy và chúng ta cũng cảm nghĩ thấy mình chính là La Hầu La đang lắng nghe những lời dạy êm ái, nhẹ nhàng đầy tình thương yêu của năm xưa.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là một oai nghi tế hạnh tuyệt vời, nó mang đầy đủ Phạm hạnh của một người tu sĩ và cư sĩ Phật Giáo về lời nói, nó nói ra luôn luôn ôn tồn, nhã nhặn, êm ái, dịu dàng, v.v… tràn đầy ái ngữ.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là một oai nghi tế hạnh mang đầy đủ những hành động đức hạnh về ngôn ngữ của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ. Vậy các bạn hãy cố gắng tu tập rèn luyện cho thành một thói quen chủ động điều khiển Thánh giới hạnh ngôn ngữ đức hạnh này.
Kính thưa các bạn! Chỉ có những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ là những đệ tử của đức Phật thì mới chấp hành những oai nghi tế hạnh chế ngự lời nói, còn ở thế gian thì mọi người không thể sống chế ngự lời nói. Như các bạn đã biết: nhờ sống Phạm hạnh chế ngự lời nói khiến ai nấy đều kính trọng và quý mến. Do đó vua A Xà Thế là một người rất thông minh nên khi nghe đức Phật nói xong, ông liền tán thán ca ngợi: “Bạch Thế Tôn! Không như vậy, trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế...”.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là một oai nghi tế hạnh của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, nên nói thì dễ mà sống được như vậy rất khó. Cho nên, chỉ những người có quyết tâm cao muốn chuyển đổi cuộc sống thế gian này trở thành cõi Thiên Ðàng, Cực Lạc thì mới cố gắng thực hành sống đúng giới hạnh này.
Sống giới hạnh chế ngự lời nói là một pháp hành ngăn ác diệt ác về khẩu nghiệp thật là tuyệt vời. Nó giúp cho hành giả tâm vô lậu về khẩu nghiệp hoàn toàn thanh tịnh.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là một oai nghi tế hạnh tuyệt vời đầy đủ Phạm hạnh về ngôn ngữ của một người có đạo đức nhân bản - nhân quả. Những lời nói ra, nó mang đầy đủ những đức và hạnh về ngôn ngữ.
C.- GIỚI HÀNH NGÔN NGỮ SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là một giới hành về đức hạnh ngôn ngữ thứ nhất của sự im lặng. “Im lặng như Thánh” đó là lời đức Phật đã nhắc nhở cho các đệ tử của mình. Giới hạnh ngôn ngữ là sự im lặng như Thánh. Sư im lặng như Thánh mang đầy đủ tính chất thanh thản, an lạc và vô sự. Lời nói im lặng như Thánh mang đầy đủ một trạng thái tâm không phóng dật, một trạng thái tâm vô lậu, một trạng thái tâm Niết Bàn. Ðó là đạo đức ngôn ngữ hành thứ nhất của Phật giáo.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là đức hạnh ngôn ngữ ít nói. Khi nói ra lời nào thì lời nói ấy phải ngọt ngào, êm ái, dịu dàng, ôn tồn, nhã nhặn, không xưng hô phách lối, không gọi tên xách khoé, không thiếu lễ độ, thiếu văn hoá trong lời nói, v.v... Ðó là ngôn ngữ hành thứ hai của Phật giáo.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI” là đức hạnh ngôn ngữ thành thật, thẳng thắn, trực ngôn, không nói lời a dua, nịnh bợ, không nói tránh né, không nói trườn uốn như lươn, v.v... Ðó là ngôn ngữ hành thứ ba của Phật giáo.
“SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI ” là một hành động sống Thánh hạnh trong đạo Phật. Bởi vậy những người tu theo Phật giáo cần phải lưu ý những Thánh hạnh ngôn ngữ này mà tu tập và rèn luyện cho thuần thục, cho nhuần nhuyễn thì sẽ thấy những kết quả vô lậu của giới hành này.
Ðây là một giới hành quan trọng cho bước đường tu tập để đi đến giải thoát hoàn toàn của Phật giáo. Nếu những ai đã xem thường những giới hành này thì con đường tu tập không bao giờ tu tập đi đến nơi đến chốn. Nếu tu tập không đi đến nơi đến chốn thì tu tập để làm gì? Tu tập để đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo thì có ích lợi gì? phải không các bạn? Thà trở về đời sống thế tục, sống như bao nhiêu người khác, sống có đạo đức nhân bản - nhân quả còn tốt hơn.
Chỉ mới bắt đầu vào đạo, sống những giới hạnh như vậy mà vua A Xa Thế còn phải chấp nhận đứng dậy chào hỏi và mời ngồi... tỏ ra rất cung kính và tôn trọng, huống là tu hành giữ gìn giới luật trọn vẹn, sống đúng những Thánh hạnh thì sẽ lợi ích cho mình cho người biết là dường nào.
Giới này đức Phật đã dạy cho La Hầu La trong bộ sách Văn Hoá Truyền Thống tập I “GIỚI KHẨU HÀNH” tức là “SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”, xin các bạn lưu ý: đó là một giới hành đạo đức ngôn ngữ tuyệt vời nó không riêng cho giới tu sĩ mà ngay cả những người cư sĩ nói riêng, nói chung cho tất cả mọi người dù bất cứ tôn giáo nào, có tôn giáo hay không tôn giáo.
8.- VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THỨ BẢY: SỐNG CHẾ NGỰ Ý NGHĨ
“SỐNG CHẾ NGỰ Ý NGHĨ” là một hành động đạo đức thuộc về ý làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ bằng tất cả đức hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ những lời nói ác, từ bỏ ý nghĩ ác để thực hiện đi vào lối sống Thánh thiện của người đệ tử Phật.
A.- GIỚI ĐỨC SỐNG CHẾ NGỰ Ý, TỰ CHỦ Ý NGHĨ
“SỐNG CHẾ NGỰ Ý” là một giới luật để thực hiện ÐỨC TỰ CHỦ Ý NGHĨ. Người đời thường hay sống không chế ngự ý nghĩ, mọi ý nghĩ khởi lên là họ đều chạy theo ý nghĩ ấy liền, có nghĩa là họ chấp nhận ý nghĩ đó, khi chấp nhận ý nghĩ đó tức là họ chấp nhận lòng tham muốn của họ và sẵn sàng làm theo lòng ham muốn đó. Do đó, mà họ phải chịu biết bao điều đau khổ của kiếp làm người.
“SỐNG CHẾ NGỰ Ý ” là sống làm chủ ý, sống không buông lung, không chạy theo lòng ham muốn của các bạn tức là không chạy theo dục lạc thế gian. Còn ngược lại là chạy theo dục lạc, chạy theo dục lạc là chạy theo sự khổ đau. Cho nên, “SỐNG CHẾ NGỰ Ý” là một đức hạnh tuyệt vời, chỉ có con người mới thực hiện được. Người nào chế ngự được ý là một bậc Thánh tại thế gian này, họ sống đời sống không bao giờ làm khổ mình, khổ người, họ là hiện thân của tâm bất động, sống với trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự.
“SỐNG CHẾ NGỰ Ý” là một hành động đạo đức mà mọi người cần phải chấp hành triệt để, để mang lại sự an vui hạnh phúc cho muôn người trên hành tinh này. “SỐNG CHẾ NGỰ Ý” là sống làm chủ được ý căn. Sống làm chủ được ý căn là sống làm chủ được sự sống chết của mình.
B.- GIỚI HẠNH SỐNG CHẾ NGỰ Ý
“GIỚI HẠNH CHẾ NGỰ Ý” là những oai nghi tế hạnh rất tuyệt vời về ý. Khi một ý nghĩ khởi lên các bạn nên chế ngự ý nghĩ đó, nếu không chế ngự ý nghĩ là các bạn chạy theo dục và các ác pháp.
Ví dụ: Khi tâm muốn ăn phi thời mà các bạn không dừng ngay ý nghĩ đó thì các bạn sẽ ăn phi thời. Khi các bạn phạm vào giới ăn phi thời thì tất cả những giới khác coi chừng sẽ vi phạm. Nếu các bạn không cảnh giác thì các bạn sẽ phạm nhiều giới và làm mất oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ có đức hạnh không làm khổ mình, khổngười. Còn nếu các bạn phạm giới chế ngự ý là các bạn sẽ phạm tất cả những giới sau đây:
1/ Phạm giới chế ngự ý.
2/ Phạm giới ăn phi thời.
3/ Phạm giới độc cư.
4/ Phạm giới nói lời chân thật.
5/ Phạm giới không sáng suốt.
6/ Phạm giới ly tham.
7/ Phạm giới mất oai nghi tế hạnh.
8/ Phạm giới ngồi lều ăn quán.
... và nhiều giới khác nữa.
“GIỚI HẠNH CHẾ NGỰ Ý” là những oai nghi tế hạnh sống ly dục, ly ác pháp, sống diệt ngã xả tâm. Vì vậy, những oai nghi tế hạnh sống chế ngự ý là Thánh đức bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ.
“GIỚI HẠNH CHẾ NGỰ Ý” là những oai nghi tế hạnh sống ngăn ác diệt ác pháp tức là sống đoạn diệt lòng ham muốn của mình. Ðoạn diệt lòng ham muốn của mình là sống đúng chân lý Diệt Ðế. Diệt Ðế là Niết Bàn. Cho nên, khi nghe nói đến những oai nghi tế hạnh này thì Vua A Xà Thế nghĩ rằng chỉ có những bậc Thánh mới sống như vậy, chứ những kẻ phàm phu không thể nào sống nổi với những oai nghi tế hạnh Sa Môn giải thoát tuyệt vời này. Vì thế, vua A Xà Thế phán rằng: “Bạch Thế Tôn! Không như vậy, trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ che chở người ấy đúng theo pháp luật”.
C.- GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý
“GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý” là một phương cách ngăn lại sự ham muốn. Cho nên, khi có một ý nghĩ ham muốn một điều gì ác khởi lên thì các bạn ngăn chặn ngay liền không cho ý nghĩ đó biến ra hành động thân hoặc lời nói của các bạn. Nếu ý nghĩ ấy các bạn không ngăn và diệt, thì nó sẽ dẫn đến hành động thân hoặc lời nói, lúc đó tâm của các bạn đang chạy theo dục lạc thế gian. Chạy theo dục lạc thế gian là chạy theo các ác pháp. Và như vậy tâm các bạn sẽ chịu nhiều sự khổ đau.
Người biết sử dụng “GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý” là người biết tu tập tâm xả vô lượng pháp. Do xả tâm vô lượng pháp nên tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn là tâm nhập vào dòng Thánh (Tu Ðà Hoàn).
“GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý” là những hành động làm chủ ý. Khi một ý nghĩ khởi lên các bạn nên chế ngự ý nghĩ đó, nếu không các bạn sẽ bị nó sai các bạn như tên nô lệ.
Muốn sống đúng “GIỚI HÀNH CHẾ NGỰ Ý” nghiêm chỉnh thì các bạn luôn luôn phải phản tỉnh lại tâm các bạn, mỗi khi có một ý nghĩ khởi lên là phải mau mau tư duy ngay liền, không được bỏ qua, dù một niệm không đáng kể.
Hằng ngày các bạn nên như lý tác ý: “Phải tỉnh giác từng ý niệm, phải làm chủ từng ý niệm, phải ngăn và diệt từng ý niệm ác, không được bỏ sót một ý niệm nào”.
Giới luật đức hạnh là những pháp môn quan trọng nhất của Phật giáo cho bước đường tu tập để tìm cầu sự giải thoát. Chúc các bạn tu tập thành tựu viên mãn trong giới pháp này.
9.- VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THỨ TÁM: THIỂU DỤC TRI TÚC
THIỂU DỤC TRI TÚC là “BẰNG LÒNG VỚI NHU CẦU TỐI THIỂU VỀ ĂN UỐNG, VỀ Y ÁO” là một hành động đức hạnh ly tham thuộc về ý làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học hiểu để biết lối sống của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ bằng tất cả giới hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ lời nói ác, từ bỏ những ý hành ác, bằng lòng tối thiểu về ăn uống về y áo để đi vào lối sống Thánh thiện.
A.- GIỚI ĐỨC THIỂU DỤC TRI TÚC
Bởi con người sinh ra là chỉ để chạy theo năm món dục lạc trên thế gian: “danh, lợi, sắc, thực, thùy”. Suốt cuộc đời làm nô lệ cho năm món dục lạc này, đến khi xuôi tay trở về lòng đất chẳng mang theo một món gì, chỉ còn lại nghiệp thiện và nghiệp ác mà thôi. Thật là uổng phí cho sự hiện hữu của một đời người chẳng làm lợi ích gì cho mình, cho người. Sống như vậy có đáng trách không các bạn?
Thưa các bạn! Ðời người sinh ra lớn lên làm bất cứ nghề nghiệp nào, dù nghề nghiệp ấy có vất vả gian nan, có chịu biết bao nhiêu cực khổ, để làm ra nhiều vật chất, có nhiều vật chất cũng chỉ để phục vụ cho ăn, ngủ và dâm dục. Ðể phục vụ cho ăn, ngủ và dâm dục thì còn có ý nghĩa gì cao đẹp. Phải không các bạn?
Ăn là để tiêu hóa phân phối những chất bất tịnh hôi thối bên ngoài để nuôi thân tứ đại vô thường cũng bất tịnh hôi thối và đầy dẫy đau khổ, chứ có lợi ích những gì đâu, chỉ là những thứ bất tịnh nuôi thân bất tịnh. Vậy mà mọi người cũng không ai tránh khỏi qui luật này, mà lại còn đam mê ăn, ngủ, dâm dục. v.v…
Ngủ là một trạng vô tri để trở thành người ngu si, mê muội, đần độn, lười biếng, nhút nhát, v.v…
Dâm dục làm tiêu hao sức khoẻ con người. Tinh khí thần hao tổn. Vì dâm dục mà Trụ Vương mất nước, U Vương và Ðường Vương Lý Trị chết một cách thê thảm.
Vì thế, giới luật đức hạnh của đạo Phật đã dạy: “Ăn uống và mặc phải sống thiểu dục tri túc, nghĩa là ít muốn, biết đủ về ăn, về mặc thì đời sống mới thoát ra khỏi năm thứ dục lạc đầy cám dỗ của cuộc đời”. Thế mới biết đức thiểu dục tri túc rất cần thiết cho đời sống của mọi người.
B.- GIỚI HẠNH THIỂU DỤC TRI TÚC
Người tu sĩ Phật giáo ăn ngày một bữa là đủ nuôi sống thân mạng trong một ngày một đêm, đâu có cần phải ăn nhiều bữa, cho nên giới hạnh thứ tám có tên: “Bằng lòng tối thiểu về ăn uống, về y áo”. Bằng lòng với nhu cầu tối thiểu, về ăn uống là một giới hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Cho nên, không những ăn ngày một bữa mà còn chấp nhận ăn ngày một bữa để sống, chứ không phải sống để chạy theo ăn uống, ăn mặc sang đẹp. Vì thế ăn không tham đắm những thực phẩm cao lương mỹ vị; mặc không tham đắm những hàng vải lụa là sang đẹp. Ðó là những oai nghi tế hạnh trong ăn uống và ăn mặc của người đệ tử Phật.
“GIỚI HẠNH LY THAM VỀ ĂN VÀ MẶC”, xin các bạn lưu ý với những cụm từ của giới này: “Nhu cầu tối thiểu về ăn uống, về y áo”. Nhất là cụm từ tối thiểu, có nghĩa là ăn uống chỉ đủ để sống, sống để tu tập chứ không phải sống để ăn uống thừa dư mập khoẻ. Y áo cũng vậy cũng vừa đủ hai bộ ngắn, bộ này đem giặt bộ kia mặc vào, không được dư ba bộ, y thượng và áo tràng cũng vậy chỉ được một cái mà thôi không được thừa hai cái. Cho nên, giới này có tên là “Bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, về y áo”.
Vì thế, người tu sĩ Phật giáo phải tự nguyện sống một đời sống đức hạnh tối thiểu về ăn uống và về y áo, nếu không bằng lòng sống như vậy thì không nên xuất gia làm tu sĩ. Các bạn nên hiểu: Trong đạo Phật không có ai bắt ép và quyến rũ các bạn tu hành đâu. Vì các bạn tu là đem lại lợi ích cho các bạn, chứ không phải đem lợi cho Phật, cho Thầy hay cho Phật giáo. Xin các bạn hiểu cho. Khi tu hành các bạn đừng nhắm vào chỗ kết quả cao làm chủ sanh tử luân hồi mà hãy nhắm vào từng giới luật đức hạnh. Vì mỗi giới luật đức hạnh là mỗi sự giải thoát cho các bạn.
Làm tu sĩ Phật giáo khó lắm các bạn ạ! Nếu sống đúng giới luật tức là sống đúng Phạm hạnh. Sống đúng Phạm hạnh thì các bạn tìm thấy sự giải thoát ngay liền, còn ngược lại các bạn sống không đúng Phạm hạnh, sống theo kiểu thế gian thì các bạn đừng nên theo Phật giáo tu hành. Vì có tu tập cũng chẳng có ích lợi gì cho các bạn. Các bạn đừng mượn chiếc áo người tu sĩ Phật giáo mà làm hại Phật giáo các bạn ạ! Các bạn đừng tưởng những cấp bằng cao học Phật học của bạn là giải thoát, không đâu các bạn ạ! Học và tu là hai con đường song song không thể gặp nhau trên một giao điểm được.
Hình thức của các tu sĩ Phật giáo Ðại Thừa và Thiền Tông là hình ảnh tu sĩ sa đoạ đang phá hoại Phật giáo tận cùng, họ đang giết chết Phật giáo trên thế gian này. Vậy họ giết chết Phật giáo như thế nào? Họ sống ăn uống phi thời, xem tivi, phim ảnh, ở chùa to Phật lớn, tụng niệm ê a như ca hát, cầu siêu, cầu an.
Và cái tệ hại nhất là các Thầy Ðại Thừa và Thiền Tông thường đi bác sĩ, nằm bệnh viện, trong khi giáo pháp của Phật dạy làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Vậy mà có bệnh các Thầy lại đi bác sĩ, nằm bệnh viện thì còn gì thể thống Phật giáo nữa.
Ðó là đời sống thiếu Phạm hạnh, không thiểu dục tri túc của các vị Sư Thầy trong Phật giáo hiện nay, rất đáng trách các bạn ạ! Nhưng các bạn cũng nên thương xót cho họ, vì họ là những người lầm đường lạc lối tu theo pháp tà giáo ngoại đạo mà không biết. Vì thế giới luật đức hạnh không tròn đủ.
C.- GIỚI HÀNH THIỂU DỤC TRI TÚC
Các bạn có nghe pháp môn Tứ Niệm Xứ dạy khắc phục bệnh đau trên thân không? Kinh dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”. Ðó là dạy các bạn đẩy lui bệnh tật, làm chủ bệnh, khiến cho thân các bạn không còn bệnh tật tác động vào nữa. Vậy mà Ðại Thừa nói Phật còn đau lưng, nói như vậy có đúng không? Các bạn trả lời đi! Câu nói đó là phỉ báng Phật giáo các bạn có biết không?
Chỉ có những người chưa am tường Phật giáo còn chịu ảnh hưởng ngoại đạo Ðại Thừa nên sống thiếu chánh tri kiến và chánh tư duy nên mới cúng dường cho những nhà sư chạy theo dục lạc thế gian như vậy.
Nhìn đời sống ăn uống và ăn mặc y áo của tu sĩ là các bạn biết rõ người nào tu đúng, người nào tu sai, người nào tu theo Phật, người nào tu theo tà giáo ngoại đạo.
Chỉ trong tám giới này đã xác định rõ ràng từ hình tướng, lẫn tinh thần đến đời sống hằng ngày của một tu sĩ chân chánh Phật giáo. Người nào phạm vào tám giới này thì không phải tu sĩ Phật giáo mà là Ma Ba Tuần đội lốt tu sĩ Phật giáo để diệt Phật giáo.
Bởi vậy, làm tu sĩ Phật giáo khó lắm các bạn ạ! Nếu dễ dàng như Ðại Thừa thì một số người lợi dụng Phật giáo để sống hưởng thụ dục lạc bằng cách dựng lên thế giới siêu hình để lừa đảo mọi người. Hành nghề sống mê tín, sống nói láo.
Phải sống đúng tám giới luật đầu tiên này, thì mới đúng là tu sĩ Phật giáo. Nhưng muốn sống đúng những giới luật này là phải tự nguyện, chứ không do sự bắt buộc của ai cả, nếu có sự bắt buộc là không đúng với tinh thần tự nguyện, tự giác của đạo Phật. Chính bản thân của mỗi người vì sự sống thiểu dục tri túc, nên phải tự nguyện sống đời Phạm hạnh, nguyện không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật. Cho nên những tu sĩ phạm phải những giới này, họ là những người chưa hiểu Phật giáo, vì họ đang chịu ảnh hưởng tư tưởng của Bà La Môn Ðại Thừa giáo. Cuộc đời tu hành của họ chẳng bao giờ nếm được mùi vị giải thoát, rất uổng thay và tiếc thay!!!
Hằng ngày các bạn nên nhớ dùng pháp như lý tác ý câu: “PHẢI BẰNG LÒNG VỚI NHU CẦU TỐI THIỂU VỀ ĂN UỐNG, VỀ Y ÁO. PHẢI SỐNG THIỂU DỤC TRI TÚC MỚI XỨNG ÐÁNG LÀ NGƯỜI TU SĨ PHẬT GIÁO”. Chúc các bạn nghiêm trì giới luật này, nó sẽ mang lại hạnh phúc an vui cho các bạn.
10.- VĂN HÓA GIỚI ĐỨC THỨ CHÍN: HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH
“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” là một hành động đạo đức thuộc về tâm làm Người, làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không tôn giáo, mọi người sống chung nhau trên hành tinh này đều cần phải học để biết lối sống của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, họ luôn sống bằng tất cả giới hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ lời nói ác, từ bỏ những ý hành ác, bằng lòng tối thiểu về ăn uống, về y áo, hoan hỉ sống an tịnh để đi vào lối sống Thánh thiện.
A.- GIỚI ĐỨC HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH
Muốn hiểu nghĩa của giới luật này thì trước tiên chúng ta phải hiểu nghĩa của những từ: hoan hỉ và an tịnh. Vậy hoan hỉ và an tịnh nghĩa là gì? Hoan hỉ nghĩa là vui mừng. An tịnh nghĩa là yên ổn và thanh tịnh, trong sạch.
Giới này dạy chúng ta lúc nào sống trong cảnh thuận hay cảnh nghịch đều phải giữ gìn tâm vui vẻ, nhờ có giữ gìn tâm được vui vẻ nên tâm an ổn và thanh tịnh. Người giữ gìn được giới này thì lúc nào cũng đang tu tập tâm hoan hỉ.
Kinh Bát Thành có dạy: “Lại nữa này gia chủ, Tỳ kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ: cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ 3, cũng vậy phương thứ 4, như vậy cùng khắp thế giới trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với hỉ, quảng đại vô biên, không hận, không sân, vị ấy suy tư và được biết: “Hỷ tâm giải thoát này là pháp hữu vi do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”, vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ các lậu hoặc,... chưa được chứng đạt được chứng đạt”.
Như vậy “GIỚI ÐỨC HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” tức là Ðức Phật dạy các bạn tu tập tâm hoan hỉ. Tu tập tâm hoan hỉ tức là tu Bốn vô lượng tâm. Bốn pháp vô lượng tâm đó là từ, bi, hỉ, xả. Ở đây tu tập tâm hoan hỉ tức là tu tập hỉ vô lượng tâm. Tu tập hỉ vô lượng tâm là giữ gìn nghiêm chỉnh “GIỚI ÐỨC HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”.
Chỉ có một giới luật này thôi, nếu các bạn sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm thì nó cũng đem đến cho các bạn một sự giải thoát an lạc và hạnh phúc chân thật như trong trạng thái cảnh giới Niết Bàn.
Có một đời sống hoan hỉ an tịnh như vậy là vì biết sống đúng giới đức hoan hỉ nghiêm chỉnh. Sống đúng giới đức hoan hỉ nghiêm chỉnh này thì các bạn sẽ tìm thấy sự an vui chân thật của Phật Giáo thật là tuyệt vời.
B.- GIỚI HẠNH HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH
Thưa các bạn! “Giới hoan hỉ sống an tịnh” còn có một nghĩa khác nữa đó là Thánh hạnh của Phạm Thiên. Thánh hạnh của Phạm Thiên tức là vui vẻ sống an ổn một mình, sống cho mình. Bởi vì chỉ có sống một mình mới sống cho mình. Sống cho mình tức là sống độc cư cô đơn, nhưng độc cư thì có mà cô đơn thì không các bạn ạ! Khi chúng ta biết sống một mình thì trong ta có một người đang đàm thoại với ta. Như vậy đâu phải ta sống cô đơn. Phải không các bạn?
Do hiểu biết sự thanh thản, an lạc như vậy nên những người nào muốn tu theo Phật giáo đều phải tự nguyện chấp nhận sống vui vẻ, an ổn một mình. Sống vui vẻ và an ổn một mình, tức là đời sống của người tu sĩ Phật giáo biết hoan hỉ sống an tịnh như giới thứ chín này đã dạy.
Chính giới hạnh này là một pháp môn tuyệt vời, giúp cho người tu sĩ phòng hộ sáu căn, để không dính mắc sáu trần, nhờ đó tâm hành giả không còn phóng dật. Tâm không phóng dật là một trạng thái Niết Bàn đấy các bạn ạ!
Thưa các bạn! Chữ an tịnh trong giới luật này có nghĩa là thân an ổn và tâm thanh tịnh, vì thân được an ổn, tâm được thanh tịnh nên người tu sĩ Phật giáo tìm cầu sự giải thoát, ra khỏi bốn sự khổ đau của kiếp người, thì dù bắt buộc hay không bắt buộc các bạn cũng phải chấp nhận sống một mình (độc cư). Vì chỉ có sống một mình thì thân tâm mới an ổn và thanh tịnh. Phải không các bạn?
Một người muốn sống thân tâm an ổn và thanh tịnh mà lại sống nơi ồn náo, nơi thường tụ tập đông người, nơi thường tập họp nói chuyện, thì làm sao sống hoan hỉ an tịnh được? Cho nên chỉ có nơi thanh vắng, yên lặng, không có người nói chuyện ồn náo thì mới chính là nơi thanh tịnh, nơi sống độc cư, nơi hoan hỉ sống an tịnh trong giới luật Phật. Dù ngoại cảnh được thanh tịnh vắng lặng nhưng nội tâm chưa hoan hỉ sống an tịnh (độc cư) thì giới luật này được xem là vi phạm.
Những giới luật trên đây các bạn còn vi phạm mà muốn sống làm Thánh Tăng, Thánh Ni thì chỉ là giấc mộng mà thôi.
Ðối với những giới luật này các bạn sẽ không bao giờ giữ gìn được trọn vẹn và như vậy những đức hạnh này không bao giờ thành hiện thực được trong đời sống của các bạn. Muôn đời ngàn kiếp con đường tu tập để tìm cầu sự giải thoát của các bạn đang theo chỉ là con đường dài vô tận.
Khi các bạn bước chân vào đạo Phật thì các bạn phải tự nguyện chấp nhận vui vẻ sống an tịnh một mình, có chấp nhận sống vui vẻ an tịnh một mình là các bạn nên biết đó là Thánh hạnh Phạm Thiên như đã nói ở trên. Thánh hạnh Phạm Thiên là những hành động sống ra khỏi sự chi phối của qui luật nhân quả. Ra khỏi sự chi phối của qui luật nhân quả thì tái sanh luân hồi chấm dứt. Vì thế, đạo Phật không bắt buộc ai phải sống như Phật: “HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”. Chỉ có những người thấy rõ đời người khổ đau như thật, thì mới tự nguyện chấp nhận sống đời Phạm hạnh, sống vui vẻ một mình như Phật. Do ý thức tự nguyện của mọi người chấp nhận sống đời Phạm hạnh, do đó đức Phật không có chế giới cấm mà chỉ dạy giới hạnh, giới đức, giới hành trong tạng kinh, không có một bài kinh nào mà đức Phật không dạy về giới luật đức hạnh làm Người, làm Thánh. Ngài đã dạy rất đầy đủ, không thiếu, không thừa. Còn giới cấm của các Tổ sau này chế ra rồi gán cho Phật thuyết, chứ sự thật đức Phật không chế giới cấm. Chế giới cấm là đi sai lòng tự giác tự nguyện của mọi người đến với đạo Phật. Bởi vì, giới luật là đức hạnh của con người đã sẵn có trong mỗi con người. Ðức Phật chỉ cần khơi dậy, làm sống lại để con người nhận ra, chứ đức Phật không có dạy giới luật đức hạnh mới. Cho nên, nói Phật chế giới luật là sai. Có đúng như vậy không các bạn?
“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” là giới hạnh độc cư. Người ở đời ít ai dám sống một mình, vì sống một mình rất cô đơn, tâm thường buồn bã khổ sở, nhớ nghĩ lung tung và thường hay sợ hãi, sợ bóng đêm âm u, sợ rừng núi, sợ sấm sét mưa gió, sợ ma, sợ quỉ thần, sợ mọi vật v.v.. Chỉ có những người quyết tâm tìm cầu sự giải thoát ra khỏi khổ đau của thân phận làm người, của qui luật nhân quả, nên mới chấp nhận sống độc cư cô đơn một mình như vậy. Sống độc cư cô đơn một mình là sống Phạm hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni như đã nói ở trên.
Cho nên, muốn làm những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni thì phải tự nguyện chấp nhận vui vẻ đời sống như vậy, chứ chẳng có ai bắt buộc mình cả. Còn nếu bị bắt buộc, thì chẳng bao giờ có ai sống được giới này cả. Do giới cấm của các Tổ bắt buộc tu sĩ phải sống đúng giới luật mà không giải rõ nghĩa đức hạnh của nó nên tất cả tu sĩ đều phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, v.v…
Giới thứ chín đã xác định điều này rất rõ ràng: “Nếu Thánh Tăng, Thánh Ni thích hội họp nói chuyện, thích chỗ đông người là phạm giới”. Người tu sĩ nào phạm giới là không phải Thánh Tăng, Thánh Ni mà chính họ là những Ma Ba Tuần trong đạo Phật. Họ chẳng tu được gì mà còn phá hoại Phật giáo. Cho nên, quý Phật tử cần phải tránh xa những hạng tu sĩ này.
Khi vua A Xà Thế nghe Phật thuyết chín giới cụ túc đầu tiên của Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni như vậy, nhất là giới thứ chín này thì nhà vua quá kính phục và tôn trọng, Ngài biết rằng: những người nào sống được như vậy, là những bậc phi phàm, những bậc Thánh, những bậc ra khỏi nhà sanh tử và chấm dứt luân hồi. Cho nên, dù vua quan hay những nhà tỷ phú giàu nhất thế gian này cũng không thể đem ra so sánh được với những bậc này. Những bậc này là những con người có được lối sống vượt ra ngoài dòng thế tục. Những người sống vượt ra khỏi dòng thế tục ở trên đời này thì không có một vật quý báu gì đem ra so sánh với họ được. Tại sao vậy?
Tại vì họ là những người biết sống an vui một mình, biết sống cho mình. Người biết sống an vui một mình, đó là những người có một lối sống mà ít ai trên thế gian này làm được. Một nếp sống ít ai làm được là một nếp sống đúng giới luật Phạm hạnh của Phật giáo, một nếp sống ly dục ly ác pháp tuyệt vời mà chỉ Phật giáo mới có những Thánh hạnh này. Ngoài Phật giáo đi tìm nếp sống này thì không bao giờ có.
“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” là một nếp sống tuyệt vời của những bậc tu hành chân chánh. Ðây là một giới luật cụtúc trong chín giới luật đầu tiên của đạo Phật. Giới luật này không bắt buộc một ai hết, nhưng những ai muốn trở thành một tu sĩ Phật giáo thì người ấy phải tự bắt buộc mình, khép mình trong khuôn khổ Phạm hạnh.
Từ đó các bạn mới nhận ra được sự giải thoát chân thật của những giới đức này. Trước khi bước chân vào đạo các bạn phải chấp nhận đời sống này, nếu không chấp nhận các bạn sẽ không thành tu sĩ Phật giáo.
Nếu dựa vào giới luật này mà xét nét những tu sĩ Phật giáo hiện giờ thì chúng ta biết rất rõ người tu sĩ nào là tu sĩ Phật giáo và người tu sĩ nào là tu sĩ ngoại đạo một cách dễ dàng. Chỉ cần nhận xét người tu sĩ nào vi phạm những giới hạnh này thì họ là những người tu sai pháp, có nghĩa là họ sống không nổi với những giới luật này, họ là tu sĩ ngoại đạo mượn danh Phật giáo.
Những người về chùa Am (tu viện Chơn Như) tu tập đụng đến những giới hạnh này thì càng thấy rõ giới này rất khó giữ gìn, phần đông họ đều vi phạm. Vi phạm nên họ tu tập không kết quả, do tâm chưa thanh tịnh nên nội lực chưa có. Nội lực chưa có thì không bao giờ nhập thiền định được.
“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” giới luật đức hạnh này nghe thì dễ dàng, rất tầm thường, nhưng có sống với nó mới thấy khó vô cùng. Chỉ có những người quyết tâm cao, tha thiết tìm cầu sự giải thoát chân thật thì mới sống nổi. Còn những người đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm thì chỉ sống được ít hôm, liền cuốn gói về đời.
Tu tập giới này mà vi phạm thì con đường tu của các bạn không bao giờ đến đích.
Tóm lại, chín giới luật đầu tiên của Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni này, nếu vị nào muốn tu theo Phật giáo giữ gìn trọn vẹn thì vịấy mới trở thành đệ tử của Phật, còn ngược lại là đệ tử của ma. Ðó là một sự xác định chắc chắn như vậy. Nếu tu sĩ phạm chín giới này, họ chỉ là cây chùm gửi ăn bám vào Phật tử để sống thật là nhục nhã.
Thưa các bạn! Người tu hành theo Phật chỉ cần giữ gìn tu tập sống đúng chín giới đầu tiên này thì người ấy cũng đã trở thành những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni. Có đúng như vậy không các bạn?
Bởi vì chín giới này là chín giới buông xả. Giới thứ nhất và giới thứ hai là buông xả vật chất. Giới thứ ba, giới thứ tư, giới thứ năm, giới thứ sáu, giới thứ bảy, giới thứ tám và giới thứ chín là giới buông xả tinh thần. Vật chất và tinh thần đều buông xả thì kết quả giải thoát ngay liền chỗ buông xả. Chỗ buông xả là tâm vô lậu.
Bởi vậy, khi nghe đức Phật trình bày kết quả của chín giới này quá cụ thể, rõ ràng và thực tế, sự trình bày không có một kẽ hở sai sót khiến cho người nghe dù có ác ý cũng không lý luận bẻ gãy được chín giới hạnh này. Khi được nghe lời dạy này xong vua A Xà Thế quá thán phục và cho rằng dù người đó là nô bộc của mình, mình cũng phải cung kính tôn trọng. Bất cứ người nào tu tập và sống đúng chín giới này thì nhà vua khi gặp họ cũng phải đứng dậy trước chào hỏi và mời người ấy ngồi.
Ðây là chín giới vô lậu đầu tiên, là pháp thực tế, cụ thể hiện tại, không có thời gian của Phật giáo đến để mà thấy Thánh quả ngay liền, chứ không phải như kinh sách Ðại Thừa, tu nhiều kiếp mới có giải thoát. Thật ra giáo pháp Ðại Thừa và Thiền Tông mơ hồ trừu tượng không đáng cho chúng ta tin tưởng và kính trọng.
C.- GIỚI HÀNH HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH
Các bạn giữ gìn giới đức hoan hỉ là các bạn đã tu tập tâm hỉ vô lượng. Tu tập tâm hỉ vô lượng là giữ gìn tâm lúc nào cũng hoan hỉ vui vẻ khi gặp ác pháp cũng như gặp thiện pháp.
Muốn tu tập tâm hoan hỉ như vậy thì tất cả pháp đến với các bạn. Các bạn phải chia ra làm ba loại:
1. Pháp ác
2. Pháp thiện
3. Pháp không thiện không ác
Ba pháp này đến với các bạn khiến cho thân tâm bất an. Muốn cho thân tâm được an ổn khi gặp các pháp này thì các bạn chỉ còn cách theo pháp như lý tác ý: “TÂM HÃY HOAN HỈ TRƯỚC TẤT CẢ CÁC PHÁP”, dù các pháp ấy có cay đắng như thế nào; có ngọt ngào như thế nào; có đau khổ như thế nào, các bạn cũng nên xem nó là pháp hữu vi, vô thường, không đáng cho các bạn phải bận tâm. Các bạn hãy luôn luôn phải giữ gìn tâm vui vẻ, thanh thản, vô sự v.v.. xem như các pháp ấy không có mặt ở đây. Nếu các bạn có hoan hỉ được như vậy thì mới thấy giải thoát thật sự.
Muốn được như vậy hằng ngày các bạn nên tu tập tâm hoan hỉ. Tu tập tâm hoan hỉ thì các bạn phải có lòng tha thứ và yêu thương, dù các pháp ấy có cực ác tột cùng, nhưng các bạn cũng nên mở rộng lòng yêu thương và tha thứ thật sự.
Có mở rộng lòng thương yêu và tha thứ thật sự thì phải có một phương pháp để giữ gìn tâm luôn luôn được hoan hỉ. Phương pháp ấy là pháp “NHƯ LÝ TÁC Ý”. Nhờ pháp như lý tác ý tâm các bạn luôn luôn được hoan hỉ sống trong cảnh nghịch cũng như cảnh thuận của đời người; nhờ pháp như lý tác ý mà tâm các bạn luôn được vui sống an tịnh.
Muốn được sống giải thoát như vậy nên Ðức Phật đã cô đọng sự sống hạnh phúc ấy bằng một cái tên “HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” rất đầy đủ ý nghĩa giải thoát. Cho nên, các bạn thường tác ý câu này và như vậy các bạn sẽ thấy ngay sự giải thoát: “HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”.
Ðúng vậy, giới thứ chín này có một cái tên rất tuyệt vời trong giáo pháp của đức Phật. Bởi vậy, những đệ tử nào đã thọ cụ túc giới đều phải sống đầy đủ những đức hạnh giới luật giải thoát này.
Ở đây, các bạn thấy rõ ràng mỗi giới luật của Phật đều mang tên đúng nghĩa giải thoát của nó. Giới luật là những phương pháp sống trực diện với kiếp sống của con người đầy sóng gió bão bùng. Nếu các bạn sống không đúng giới luật thì các bạn sẽ bị sóng gió danh, lợi, sắc, thực, thuỳ nhận chìm xuống tận đáy biển khổ đau.
“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH”. Cái tên hoan hỉ sống an tịnh, đẹp làm sao! Phải không các bạn? Cuộc đời này có những vật gì đáng cho các bạn bận tâm. Vì tất cả các pháp trên thế gian này đều vô thường, đều khổ đau. Nếu các bạn biết buông xả, bỏ xuống hết, sống đúng như tên của giới luật này thì thế gian đâu còn đau khổ nữa. Chính nơiđây là Thiên Ðàng tại thế gian. Phải không các bạn?
“HOAN HỈ SỐNG AN TỊNH” là phương pháp tu tập hỉ tâm vô lượng như trên đã nói, đấy các bạn ạ! Giới luật của Phật chính là những phương pháp để các bạn học tập và rèn luyện thân tâm các bạn từ phàm phu trở thành Thánh nhân, từ xấu xa trở thành tốt đẹp, từ khổ đau trở thành hạnh phúc, từ hung ác trở thành thiện lành, từ sân hận trở thành thương yêu, v.v...
Page 7
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 9, TG.2011, tr.53-54; tr.97-100; tr.169-171; tr.349-351)link sách: ĐVXP, tập 9
1.- NGƯỜI TU HÀNH CHƯA GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN, NẾU BỊ CHẾT THÌ...
Hỏi: Kính bạch Thầy! Người tu chưa giải thoát hoàn toàn, lỡ chết đi, người ấy có bị tái sanh không? Họ có bị vô minh che lấp không? Họ có biết mình là ai ở kiếp trước tu những gì không?
Ðáp: Người tu hành đúng chánh pháp của Phật là phải sống đúng giới luật, sống đúng giới luật tức là sống trong thiện pháp, sống trong thiện pháp thì tâm tham, sân, si của họ giảm bớt rất nhiều, do sống trong thiện pháp nên họ thường tạo nghiệp thiện, nghiệp thiện thì không còn tái sanh làm người và như vậy Thầy đã trả lời câu hỏi thứ nhất của con, nhưng ở đây con nên nhớ: Pháp thiện có hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu vẫn còn tiếp tục đi tái sinh luân hồi, chỉ có thiện vô lậu mới chấm dứt tái sinh. Ðó là điều chắc chắn mà không ai phủ nhận được.
Người sống trong thiện pháp còn bị vô minh che lấp hay không? Không, tại sao vậy? Vì đối với đạo Phật người có tri kiến giải thoát ở đâu là đạo đức ở đó, đạo đức ở đâu là tri kiến giải thoát ở đó. Vậy đạo đức là gì? Ðạo đức là giới luật, là thiện pháp, là pháp không làm khổ mình, khổ người. Người không làm khổ mình, khổ người là không bị vô minh che lấp và như vậy khi chết bỏ thân này họ đều biết kiếp trước của mình là ai? Ở làng nào, tỉnh nào, nước nào? Tên họ của kiếp trước là gì? Cha mẹ là ai? Làm nghề nghiệp gì? Tu pháp môn gì? Sống như thế nào ? Và chết như thế nào? Như vậy, Thầy đã trả lời câu hỏi thứ hai của con.
Những người tu hành không đúng pháp của Phật nghĩa là họ không tu “Giới, định, tuệ” tức là không tu đức hạnh thiện pháp đạo đức mà tu luyện theo tà giáo ngoại đạo thì phải tái sanh luân hồi và bị vô minh che lấp. Trước khi chết họ thường phải thọ lấy bệnh tật khổ đau như người thế tục và mê man không tỉnh táo nên bị nghiệp lực tương ưng với môi trường ác bất tịnh tái sanh nên không còn biết gì cả (mê muội).
2.- NẼO VỀ ĐẠO ĐỨC
Hỏi: Kính thưa Thầy! “Ngăn ác diệt ác pháp” xong lại phải “không làm khổ mình, khổ người”, trước đây con thấy nó là mâu thuẫn nhau, từ lá thư của Thầy chỉ bảo cho con, con sáng tỏ được nhiều, con hiểu rằng muốn thực hiện được điều đó còn đòi hỏi sự khéo léo phải không thưa Thầy?
Mình thấy cái ác, cái làm khổ mình, khổ người, cái vô lý thì phải chống lại nó, song phải làm sao cho người ác hiểu ra mà không được dùng lời nói hành động làm họ đau đớn phải không thưa Thầy?
Trong mọi cuốn sách của Thầy, cuốn nào con cũng thấy Thầy nhắc đi nhắc lại “không làm khổ mình, khổ người” đến nay con hiểu rằng đó là cứu cánh, nếu thực hiện đúng thì cuộc sống của chúng ta dễ chịu biết bao và đó là Niết Bàn tại thế, có phải không thưa Thầy?
Ðáp: Ðúng vậy, ngăn ác diệt ác pháp tức là không làm khổ mình, khổ người. Không làm khổ mình, khổ người là một đạo đức cao thượng tuyệt vời. Vì thế, không những phải khéo léo mà còn phải thiện xảo trong mọi hành động từ lời ăn tiếng nói đến những cử chỉ và sự tư duy suy nghĩ, phải khéo léo thiện xảo tỉnh thức hoàn toàn.
Ðúng vậy, thấy cái ác, cái làm khổ mình, khổ người, cái vô lý, cái phi đạo đức thì mình phải chống lại để đem lại sự an vui hạnh phúc cho nhiều người bằng một sự công bằng và công lý, chứ không phải chỉ có đem lại sự an vui hạnh phúc cho một cá nhân của mình.
Vì chống lại sự bất công, sự vô lý, sự phi đạo đức, thì phải có sự va chạm, sự va chạm ấy chúng ta phải khéo léo thiện xảo khiến cho sự va chạm ấy trở thành mát lạnh, vì thế mọi người mới được an vui.
Cũng như Thầy viết kinh sách nói thẳng nói thật, vì biết những lời nói này sẽ mang lại ích lợi lớn cho nhiều người và chỉ va chạm với một số ít người đang bị danh lợi làm mờ mắt, nhưng cũng là tiếng cảnh tỉnh cho họ và sẽ có lợi ích cho họ sau này.
Ngăn ác diệt ác là một việc làm rất tế nhị, thiện xảo, khéo léo, cho nên nó nêu rõ hành động của chúng ta khi gặp đối tượng có cả hai vế một lượt: “không làm khổ mình, khổ người”. Nếu một vế thì chúng ta rất dễ làm, còn hai vếlà một điều rất khó, nếu chúng ta không thiện xảo khéo léo thì không thể nào thực hiện được đạo đức nhân bản này. Cho nên đức Phật dạy: “Thiện xảo nhập vào thiện pháp, thiện xảo an trú sống trong thiện pháp”. Phần nhiều thiện xảo là cố tránh né va chạm, cho nên lấy nhẫn nhục làm đầu cuộc đấu tranh tưtưởng, kế đó mới tùy thuận nhưng tùythuận không bị lôi cuốn là một thiện xảo tuyệt vời giúp cho mình vui, người khác vui, vì thế mới được gọi là bằng lòng cả hai mình và người.
Ðúng vậy, con đã hiểu không làm khổ mình, khổ người là một cảnh giới Niết bàn, là Thiên đàng tại thế gian chứ đâu còn tìm kiếm nơi đâu.
Sự tu hành theo đạo Phật chỉ có bấy nhiêu đây thôi: “Không làm khổ mình, khổ người”. Nhưng nó là một trường kỳ chiến đấu với nội tâm chứ không phải tu một ngày một bữa là xong. Sự chiến đấu này phải có đầy đủ nghị lực kiên cường, bền chí gan dạ phi thường và còn phải có trí tuệ sáng suốt, khéo léo và thiện xảo trong mọi hành động đối xử với các pháp thì mới không làm khổ mình, khổ người, bởi chính nó là nền đạo đức nhân bản của đạo Phật.
Vài hàng cháu rõ, thăm và chúc cháu thành tựu đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người trong mọi hoàn cảnh để đem lại cho mình cho người một hạnh phúc chân thật.
Kính ghi
3.- TƯỞNG TỨC
Hỏi: Kính bạch Thầy! Có lúc hơi thở sao quá nhẹ, tưởng chừng như nó không có tựa vào đâu cả, có lúc con lại cảm thấy làm biếng không muốn thở nữa, mặc dù biết ngưng thở là mình sẽ chết. Nhưng không biết tại sao con lại thích muốn ngưng thở. Xin Thầy chỉ dạy cho.
Ðáp: “Hơi thở quá nhẹ tưởng chừng như không tựa vào đâu cả”, đó là con đã rơi vào trạng thái “tưởng tức”, hãy xả bỏ ngay liền, đứng dậy đi kinh hành vì tu như vậy là tu lạc đường. Hằng ngày cố gắng mà xem xét bốn chỗ “thân, thọ, tâm, pháp” (Tứ Niệm Xứ) có chướng ngại pháp hay không? Nếu không thì tâm con sẽ thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm con nó rất tự nhiên định vào thân con mà không bị ức chế tập trung. Nó định như thế nào? Khi nó không phóng dật theo các pháp trần bên ngoài. Vậy nó đang biết cái gì? Nó đang biết hơi thở bình thường và hơi thở đó rất bình thường không có một chút gì thay đổi, vì nó không bị ức chế. Nếu hơi thở có thay đổi là do con gom tâm tập trung trong hơi thở, do gom tâm tập trung vào hơi thở nên con rơi vào tưởng tức, thành ra tu sai, các con tu tập nên lưu ý điều này.
Khi nào tâm không phóng dật là lúc bấy giờ tâm định trên hơi thở. Tâm định trên hơi thở tức là tâm không những chỉ biết hơi thở mà còn cảm nhận được toàn thân giống như đề mục Ðịnh Niệm Hơi Thở dạy: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Ðó là tâm định trên thân. Tâm định trên thân tức là tâm đang quán thân như trong kinh Tứ Niệm Xứ đã dạy: “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu”. Khi tâm đang quán thân thì tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là chứng đạt chân lý. Vì thế đức Phật đã tuyên bố: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Người tu hành đến đây là xong, mong quý vị lưu ý.
4.- MA ĐÈ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Cách đây khá lâu con bị tình trạng ma đè hay bóng đè (theo cách gọi dân gian). Toàn thân con bị tê cứng, con không điều phục được gì, ngoại trừ hơi thở, lúc đó vô tình con nhớ đến pháp môn Ðịnh Niệm Hơi Thở của Thầy bèn tác ý “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Chỉ trong hai hơi thở con đã phục hồi trạng thái thân thể bình thường không cần xoa bóp chỗ tê như những người khác đã từng bị ma đè. Ðiều này được lý giải như thế nào? Xin Thầy chỉ dạy.
Ðáp: Ma đè là một trạng thái tưởng, khi ngủ nửa tỉnh nửa mê, tình trạng này sắc uẩn chưa ngưng nghĩ thần kinh trọn vẹn, còn tưởng uẩn mới bắt đầu hoạt động nên cũng chưa hoạt động trọn vẹn, khiến thân con bị cứng không động đậy được, miệng chỉ ú ớ, chứ không kêu la được như người ngủ mớ. Người bị ma đè cố gắng vùng vẫy cho đến khi tỉnh hẳn thì trạng thái ma đè biến mất.
Một người ngủ say thì không bị ma đè; một người ngủ trong chiêm bao cũng không bị ma đè, chỉ có người ngủ nửa tỉnh nửa mê, trạng thái ấy trong thiền định của Phật Giáo gọi là hôn tịch. Nhóm hôn tịch gồm có: hôn trầm, thùy miên, vô ký, hôn tịch, ngoan không, chiêm bao, v.v... đó là một nhóm trạng thái si mê, do tưởng uẩn hoạt động. Tưởng uẩn hoạt động điều khiển thần kinh chưa trọn vẹn, nên lúc bấy giờ có một số thần kinh không hoạt động. Một số thần kinh không hoạt động, nên người ngủ nửa tỉnh nửa mê mới có cảm giác thân bị đè nặng và không động đậy được.
Ở đây, không có ma đè mà có một số thần kinh nghỉ ngơi chưa hoạt động trở lại bình thường trong khi còn đang ngủ nên cảm thấy thân cứng đơ.
Page 8
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.1, TG. 2011, tr.303-308)link sách: trích ĐVXP.1
Hỏi: Kính thưa Thầy! Sau khi con đọc bài ÐẠO ÐẾ trong Ðặc San Kỷ Niệm Ngày Sinh Nhật Thầy, con có một vài điều thắc mắc về những bài học trong lớp Chánh kiến như: Tứ Bất Hoại Tịnh và nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn...
Tại sao lại niệm Phật, niệm Pháp, Niệm Tăng và Niệm Giới trên lớp Chánh kiến? Tu học như vậy có giống như Ðại Thừa không? Khi người mới vào tu thì Ðại Thừa dạy: niệm Phật là niệm danh hiệu đức Phật, niệm pháp là tụng kinh, niệm Tăng là cúng dường trai tăng và niệm giới là tụng giới vào ngày rằm và ngày 30 mỗi tháng. Thưa Thầy, lớp chánh kiến tu học mà Thầy đã giảng dạy như vậy thì cũng giống như bên Ðại Thừa, xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ. Còn Nhãn căn, Nhĩ căn và Tỷ căn phải tu học như thế nào trong lớp chánh kiến?
Ðáp: Nguyên nhân có bài giảng về “Ðạo Ðế” trong Ðặc San Mừng Ngày Sinh Nhật Thầy, do Phật tử Bảo Châu - Thanh Trí xin Thầy chỉnh lại bài Tứ Diệu Ðế, nhưng Thầy thấy trong bài kinh Tứ Diệu Ðế quý sư thầy đã giảng sai quá nhiều, nhất là Ðạo Ðế. Từ xưa các nhà học giả tu hành chưa chứng đạo nên đã giảng dạy Tứ Diệu Ðế sai nghĩa, lệch ý không đúng chánh pháp của Phật.
Ðạo Ðế là một mô hình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả của đức Phật (Kinh Sa Môn Quả) nhằm để hướng dẫn bốn giới đệ tử của mình tu học trở thành những bậc Thánh A La Hán. Vì thế, nó đã phân ra ba cấp và tám lớp tu học rất rõ ràng giống như chương trình giáo dục văn hóa của các quốc gia trên thế giới.
Thầy đã dự định chương trình soạn thảo giáo trình tu học cho ba cấp và tám lớp học này, nhưng phải lần lượt không thể ngay bây giờ được, vì hiện giờ Thầy còn đang soạn thảo bộ Giới Ðức Thánh Tăng, Thánh Ni trên một ngàn trang giấy và còn tiếp đến bộ sách Ðạo Ðức Nhân Bản - Nhân Quả trên 10 tập mỗi tập trên 300 trang giấy. Với việc làm quá nhiều, ngoài sức tưởng tượng của con người. Cho nên, khi Bảo Châu – Thanh Trí nhờ Thầy chỉnh lại Tứ Diệu Ðế thì Thầy viết bài Ðại Cương Về Ðạo Ðế để mọi người nhận xét và thấy rõ chương trình giáo dục đào tạo bậc A La Hán của Phật giáo rất rõ ràng cụ thể, chứ không như kinh sách Ðại Thừa của các Tổ biên soạn một cách mù mờ. Với lộ trình tu hành mơ hồ, ảo tưởng đầy hoang đường và mê tín.
Bài Ðạo Ðế này, khi đến tay quý Phật tử cũng như các bậc tôn túc Hoà Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức, Tăng, Ni cùng với các cư sĩ bốn phương sẽ làm đảo lộn sự hiểu biết xưa nay của các vị, nhưng đây là một sự thật, là một chân lý. Không lẽ, một chân lý của Phật giáo, mà hiểu một cách lầm lạc như các nhà Ðại Thừa vậy sao?
Bài giảng ấy tuy ngắn, nhưng nó là một cú “sốc” mạnh làm đảo lộn và đau đầu cho các nhà học giả và cảnh cáo cho các vị ấy, phải tu tập cho đến nơi đến chốn, chứ đừng trên chữ nghĩa kinh sách mà thuyết giảng, không có một chút kinh nghiệm bản thân tu hành nào, thành ra, các vị ấy trở thành người vọng ngữ, tội lỗi rất lớn, chẳng ích lợi gì cho ai, mà còn tai hại cho Phật giáo và cho các thế hệ tuổi trẻ sau này.
Cho nên, khi đọc bài Ðạo Ðế, không riêng Thu Phương lấy làm lạ, mà còn có nhiều người lại hỏi chúng tôi: Vậy kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy: “Tứ Bất Hoại Tịnh”. Tứ Bất Hoại Tịnh không phải là pháp môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới sao?
Kính thưa quý Phật tử! Ðức Phật dạy:
1/ Niệm Phật là sống như Phật, chứ không phải niệm danh hiệu Phật (Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật).
2/ Niệm Pháp là sống đúng như pháp, tu tập đúng như pháp, chứ không phải tụng kinh.
3/ Niệm Tăng là sống hòa hợp như chúng Tăng, không chống trái nhau, chứ không phải trai tăng cúng dàng, lạy lễ các vị Tăng để cầu phước báu.
4/ Niệm Giới là sống đúng Phạm hạnh, không hề vi phạm giới luật, và không phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, chứ không phải hằng tháng vào ngày 30 và ngày rằm cùng nhau tụng giới.
Nghe dạy niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới thì các nhà học giả kiến giải theo chữ nghĩa mà giải thích ra, niệm là đọc lầm thầm trong ý như câu: “Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay Nam Mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Hay niệm Nam Mô A Di Ðà Phật. Niệm như vậy không có nghĩa gì cả, không có sự giải thoát gì cả.
Ở đây, đức Phật dạy niệm tức là sự tư duy Phật, Pháp, Tăng và Giới để chúng ta thấu triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải thoát như thế nào, để chúng ta noi theo đó, mà thực hiện sống và tu tập đúng như Phật, như Pháp, như chúng Thánh Tăng và như Giới luật đã dạy.
Bài pháp Tứ Bất Họai Tịnh này, được tu học và rèn luyện trên lớp Chánh Kiến. Do tu học trên lớp Chánh Kiến, nên phải dùng nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn mà tu tập.
Có hiểu biết và tu tập như vậy, thì mới có giải thoát thật sự, còn niệm danh hiệu Phật, tụng kinh, cúng dàng trai tăng, đảnh lễ chư Tăng và tụng Giới, dù có niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới như vậy cho đến muôn kiếp ngàn đời, thì cũng chẳng có giải thoát được chút nào. Người ta đã lầm, niệm như vậy, là để nhất tâm bất loạn, tức là niệm không có vọng niệm xen vào, chỉ duy nhất có câu niệm Phật mà thôi, thì sẽ được vãng sanh Tịnh Ðộ, đó là hiểu theo kiến giải lầm lạc của Tịnh Ðộ Tông (Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Ðà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền...).
Còn hiểu theo Thiền Tông, thì nhất tâm bất loạn tức là chẳng niệm thiện niệm ác, chẳng niệm thiện niệm ác, thì bản lai diện mục hiện tiền. Bản lai diện mục hiện tiền, là Thiền định, là Phật tánh. Nhưng tất cả những sự tu tập như vậy đều sai hết quý vị ạ!
Chỗ nhất tâm bất loạn của quý vị, sẽ rơi vào thế giới tưởng của tưởng uẩn, nơi đây là mê hồn trận của tà giáo ngoại đạo. Quý vị tu hành cần nên cảnh giác nơi hang hùm nguy hiểm này. Nếu tu tập đến đây, quý vị coi chừng rối lọan thần kinh mà nguy hiểm tánh mạng, biến quý vị trở thành người điên khùng, mất trí, v.v...
Ðến đây, quý vị đã hiểu sơ sơ về bài học “TỨ BẤT HOẠI TỊNH” của lớp Chánh kiến. Sau này, có dịp các bạn sẽ gặp lại chúng tôi trên những giáo trình tu học của tám lớp học này, còn thú vị hơn nhiều.
Thân ái chào các bạn, chúc các bạn dồi dào sức khoẻ.
Page 9
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 1, TG. 2011, tr. 11-22)link sách: NPTCB, tập 1
Hỏi: Kính bạch Thầy, tại sao tu sĩ Phật giáo hiện giờ không giữ gìn giới luật, sống phi giới luật, sống bẻ vụn giới luật. Như vậy, con đường tu của họ sẽ đi về đâu? Và có ích lợi gì cho kiếp sống tu hành của họ? Người tu sĩ giữ gìn giới luật nghiêm túc, sống đúng Phạm hạnh, thiểu dục tri túc, phòng hộ các căn đầy đủ, con đường tu của họ sẽ đi về đâu? Và có ích lợi gì cho kiếp sống của họ cũng như cho nhân loại và đạo pháp? Cúi mong Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Ðáp: Như Thầy đã dạy, giới luật là một pháp môn tu hành của đạo Phật, chớ không phải là pháp luật như của một quốc gia. Cho nên, các bộ giới luật do các Tổ biên soạn thành một bộ pháp luật của Phật giáo, hơn là một pháp môn tu tập để tâm được vô lậu.
Pháp môn Giới luật cùng với pháp môn Thiền định và pháp môn Trí tuệ được gọi chung có tên là “Tam Vô Lậu Học”. Tam vô lậu học là ba pháp môn tu tập không còn lậu hoặc, tức là ba pháp môn tu tập sẽ chấm dứt đau khổ của kiếp người, hay nói cách khác là pháp môn làm chủ sanh, già, bịnh, chết của đạo Phật.
Ba pháp môn vô lậu này kỳ thật chỉ là một pháp môn duy nhất, nhưng chia làm ba giai đoạn tu tập: Giới - Ðịnh - Tuệ. Trong ba giai đoạn này, chỉ có giới luật là giai đoạn quan trọng nhất và tu tập khó nhất, trên đường tìm cầu đạo giải thoát theo đạo Phật.
Bởi thế, người nào tu hành mà không giữ gìn giới luật, không tu giới luật, không sống đúng giới luật, thì có tu suốt đời cũng tu chẳng tới đâu, chỉ còn tu danh, tu lợi, tu tưởng mà thôi (chẳng bao giờ có giải thoát thật sự).
Nếu không tu giới luật mà tu thiền định, thì thiền định đó là tà thiền, định tưởng. Nếu không tu giới luật mà tu trí tuệ, thì trí tuệ đó là tà tuệ, kiến giải tưởng giải, là trí tuệ tích lũy, là nước miếng, nước bọt hí luận của người xưa, thêm râu, thêm ria, vẽ rắn thêm chân. Từ xưa đến giờ, các Tổ chỉ lặp đi, lặp lại lối mòn của nhau, chỉ dùng từ hiện đại cho lạ tai mà thôi, chớ lối mòn vẫn là lối mòn, không thể nào lối mòn là đường quang lộ được.
Như trên Thầy đã dạy, giới luật là pháp môn quan trọng nhất trong Tam Vô Lậu Học. Cho nên, vì lợi ích chúng sanh, vì muốn thoát ra sự đau khổ của kiếp người, đức Phật đã dạy: “Vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy ta đã làm xong, vì lòng thương tưởng ta đã dạy các ngươi”. Ðây là một bài kinh mà đức Phật đã khéo nhắc nhở cho các vị Tỳ kheo tu tập giới luật, vì giới luật rất quan trọng trên đường cầu đạo giải thoát. Bài kinh “Ước Nguyện”, trong Trung Bộ tập 1, trang 79, Phật dạy: “Này các thầy Tỳ kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh,đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”. Ðoạn kinh này là lời dạy khuyên, nhắc nhở của đức Phật thấm thía vô cùng, một lời khuyên từ cõi lòng, vì thương tưởng chúng sanh đang sống trong cảnh khổ mà chẳng biết đường nào ra.
Trên thế gian này, chỉ còn có con đường duy nhất “Giới, Ðịnh, Tuệ” để tu tập, thoát ra sự đau khổ của kiếp người. Không thể có con đường thứ hai nào khác được. Phật đã biết rất rõ điều này, vì trên bước đường tầm sư học đạo Ngài đã trải qua sáu năm gian khổ, nhưng vẫn không tìm ra đường giải thoát. Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề trầm tư và nhập Tứ Thánh Ðịnh, chứng Tam Minh, Ngài đã tự tìm ra chơn pháp; chơn pháp ấy là thầy của Ngài, dẫn đường Ngài đi đến đích thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết. Chơn pháp ấy là gì? Chơn pháp ấy là “Giới, Ðịnh, Tuệ”. Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta với lòng tha thiết yêu thương chúng ta như con một: “Hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các giới học”. Thế mà người tu sĩ Phật giáo hiện giờ lại xem thường giới luật, oai nghi chánh hạnh không có, xem thường trong các lỗi nhỏ nhặt, phạm giới không biết xấu hổ, chẳng bao giờ lấy giới phòng hộ sáu căn, sống ăn uống phi thời, nam nữ trai gái kề cận chẳng biết đó là tai họa khổ đau, chẳng biết đó là con đường sanh tử luân hồi.
Bài kinh Ước Nguyện, đức Phật đã xây dựng nó trên nền tảng đạo đức nhân quả. Ngài không dạy chúng ta “cầu nguyện” mà dạy chúng ta “ước nguyện”. Muốn ước nguyện được thành tựu sở nguyện thì phải sống đúng giới luật. Giới luật là thiện pháp; do nhân thiện pháp thì quả của thiện pháp là ước nguyện của chúng ta viên mãn.
Ví dụ: Một người có bịnh tật, tai nạn đã xảy đến hoặc tai nạn bịnh tật chưa xảy ra, nhưng ước nguyện bịnh tật tai nạn sẽ chấm dứt và bịnh tật tai nạn sẽ không xảy ra, thì người ấy phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới, thì ước nguyện sẽ thành tựu. Nếu ai giữ gìn giới luật đúng như vậy thì tai nạn, bịnh tật sẽ qua và không xảy đến. Như vậy, Ngài đã dạy chúng ta tu tập giải thoát trên nền đạo đức nhân quả, lấy hành động thiện làm gốc, diệt trừ mọi hành động ác và lòng ham muốn.
Trong bài kinh Ước Nguyện, đức Phật dạy ta ước nguyện: “Mong rằng ta được mọi người thương mến, yêu quý, cung kính, và tôn trọng. Mong rằng ta được các vật dụng đầy đủ không thiếu hụt. Mong rằng những người bốthí cúng dường các vật dụng sẽ được quả báo và lợi ích lớn. Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi bịnh tật tai nạn chết, mệnh chung với tâm hoan hỷ, an lạc, được quả báo và lợi ích lớn”.
Trên đây là những ví dụ ước nguyện trong bài kinh, muốn được toại nguyện cho mình cho người thì chỉ tu tập và giữ gìn giới luật nghiêm túc.
Kinh Phật đã dạy như vậy, thế mà kinh sách Ðại thừa lại dạy cúng tế, cầu khẩn, tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, cầu an, cầu siêu để được tai qua nạn khỏi, bịnh tật tiêu trừ (do chư Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ). Tất cả sự tu tập của Ðại thừa đều cầu tha lực (tam bảo gia hộ), cho đến những ước nguyện cho mình, cho người cũng đều dựa vào tha lực. Còn ngược lại, kinh sách Nguyên Thủy dạy tự lực. Muốn lợi mình, lợi người thì người ấy phải tự mình tận lực sống đúng giới hạnh, nghĩa là phải sống đúng thiện pháp, không được sống trong ác pháp.
Nói chung, Phật dạy con người muốn có cuộc sống an vui, hạnh phúc thì phải sống có đầy đủ đạo đức không làm khổ mình, khổ người, thì ước nguyện đó sẽ được toại nguyện. Qua bài kinh Pháp Môn Căn Bản, ta thấy rõ Phật giáo không đi dẫm lại lối mòn của các tôn giáo khác, tự mình vạch ra một lối đi độc đáo, tự lực, chính xác, cụ thể, không mơ hồ, để giải quyết kiếp sống con người thoát ra cảnh khổ, tạo cuộc sống thế gian con người thành một Thiên Ðàng.
Ðể chiến thắng sự ưa thích dục lạc thế gian, sự không ưa thích, sự bất toại nguyện, và sự khiếp đảm, sợ hãi, Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chớ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục lạc và bất lạc được khởi lên. Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chớ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên. Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định (tỉnh thức) thành tựu quán hạnh (vô lậu) thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư)”.
Lời dạy trên đây rất cụ thể cho người tu muốn nhiếp phục tâm ham muốn và sợ hãi, thì chỉ có giới luật và bốn pháp định: định chánh niệm tỉnh giác, định niệm hơi thở (không gián đoạn thiền định) nội tâm tịch tĩnh (định sáng suốt) thành tựu quán hạnh (định vô lậu) và thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư).
Trong bài kinh Ước Nguyện, đức Phật dạy nhập bốn Thánh định rất rõ ràng và dễ dàng không có khó khăn. Muốn nhập Bốn Thánh Ðịnh này thật ra không khó khăn, không có ức chế tâm như các nhà học giả kiến giải dạy, chỉ cần sống đúng giới hạnh và tu tập các pháp Tứ Chánh Cần, Tứ niệm Xứ để xả tâm cho thật sạch (không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa), thì khi ra lệnh nhập thiền định nào thì nhập ngay thiền định ấy: “Này các thầy Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: Mong rằng, tuỳ theo ý muốn, không khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh (sáng suốt định) không gián đoạn thiền định (thân hành niệm nội ngoại), thành tựu quán hạnh (định vô lậu), thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư)”.
Nếu người nào muốn tu tập thiền định đạo Phật, nhập bốn Thánh định, làm chủ sanh, già, bịnh, chết, không có khó khăn, chỉ cần thành tựu viên mãn giới luật, tức là sống đúng giới luật. Xét ra, từ khi đức Phật nhập diệt đến giờ, không có ai nhập được bốn Thánh định, chỉ vì không thành tựu viên mãn giới luật.
Nếu đã có người tu sĩ nào viên mãn giới luật, sống đầy đủ chánh hạnh, thì ngày nay Phật pháp đâu có bị ngoại đạo biến thể như thế này. Phật giáo ngày nay đã trở thành một tôn giáo hỗn tạp, mang đủ thứ pháp môn của ngoại đạo (84 ngàn pháp môn), mà còn tự xưng những danh từ ngã mạn cống cao (Ðại thừa, Tối Thượng thừa, v.v...).
Như Phật đã dạy trong bài kinh Ước Nguyện, là phải có đức hạnh làm người, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Muốn đem lại sự giải thoát, an lạc và hạnh phúc cho nhau trên hành tinh này, thì: “Hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới" thì được toại nguyện, mãn nguyện làm người có đạo đức đầy đủ. Nếu muốn thành tựu những đức hạnh của bậc Thánh nhân và thực hiện thiền định làm chủ sự sống chết của bậc chơn nhân, thì người đời thường ưa thích tu thiền định, nhưng họ không biết thiền định nào đúng, sai, cứ nghe thiền định là tu theo, nhắm mắt tu đùa, tu không cần suy nghĩ, phân biệt là đúng, sai, phải, trái. Họ đã mất công sức tu hành lại còn mất tiền mất của, bỏ đời sống thế gian, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ thân bằng quyến thuộc, v.v... chỉ vì muốn thoát khỏi mọi sự đau khổ của cuộc đời, để trở thành bậc Thánh nhân. Nhưng họ tu sai đường, Thánh nhân đâu không thành, giải thoát đâu không thấy, ngẫm lại cuộc đời mình mà đau lòng, bị các nhà tôn giáo lừa đảo mà không dám nói ra.
Họ tự an ủi mình là: “Cần phải tu nhiều kiếp, kiếp này chưa xong thì kiếp khác tu nữa, vì đức Phật Thích Ca ngày xưa còn tu vô lượng kiếp mới thành Phật cơ mà”. Câu nói này là câu an ủi nhất của những người bị lừa đảo, tu lạc tà pháp, cố bám víu vào một hy vọng hão huyền để mà sống, được kinh sách Ðại thừa dạy...
Trong bài kinh Ước Nguyện, đức Phật dạy: “Tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú”. Như vậy, thiền định tu tập đâu có khó khăn gì, thế mà người tu thiền thời nay lại tu quá khó khăn, tu mãi cả hai ba chục năm, nhưng không thành tựu. Các Tổ như ngài Ðại An 12 năm, Diệu Cao Phong 30 năm, mà chỉ có triệt ngộ những công án mà thôi, còn làm chủ sanh tử thì chẳng biết gì, tâm sân hận thì vẫn còn cao ngút. Giải thoát đâu không thấy, làm chủ sanh, già, bịnh, chết đâu không thấy, chỉ thấy được mồm mép bén nhạy đối đáp như gió thổi (cơ phong). Còn một số người nữa lại tu vào các loại thiền khác, xuất hồn, khí công, Yoga, Mật tông luyện bùa, niệm chú, bắt ấn, v.v... Các tu sĩ này, thay vì tu tập giải thoát, họ lại tu để làm thầy trị bịnh, trừ tà, ếm quỷ, hoặc tập luyện dưỡng sinh, tức là thiền định biến thái thành phương pháp ngừa bịnh.
Thiền định thời nay biến dần thành phương pháp ngừa bịnh (dưỡng sinh), chớ đâu phải là thiền định làm chủ sự sống chết như thời đức Phật. Nhìn sự tu hành của Phật giáo hiện giờ, chúng ta thấy thật xót xa! Thiền định của Phật thì dẹp qua không tu, mà lại tu thiền của ngoại đạo, chỉ vì thiền của ngoại đạo không có giới luật nghiêm túc, đời sống theo dục lạc dễ dàng, ăn uống ngủ nghỉ phi thời!!!...
Do tu mãi không kết quả, họ chạy sang tu các pháp môn khác như Tịnh Ðộ, “vừa tu Thiền vừa niệm Phật”, như các tổ Vĩnh Minh, Vân Thê, Từ Vân, v.v... Có người chuyển sang Tịnh Ðộ hẳn, chuyên ròng niệm Phật, cầu vãng sanh Cực Lạc, như tổ Tông Bổn, Khánh Anh, Thiện Hoa, Thiện Hòa, v.v... Có người chuyển sang vừa tu Tịnh Ðộ cầu vãng sanh, vừa tu Mật tông; có người lại chuyển sang qua hẳn Mật tông, chuyên ròng niệm chú.
Có người tu Tịnh Ðộ lâu ngày chẳng thấy kết quả gì chuyển qua tu Thiền tông, lại cũng có người tu Mật tông lâu ngày chẳng thấy linh ứng chuyển qua tu Thiền tông... Họ chuyển qua pháp môn này, chuyển lại pháp môn kia, tu mãi từ đời này sang đời khác mà chẳng ra gì, vẫn chết trong đau khổ và còn đau khổ hơn người thế gian.
Hiện giờ, người ta tu theo Phật giáo Ðại thừa, cứ chạy theo ba pháp môn Thiền, Tịnh, Mật, và chuyển qua chuyển lại tu tập, cứ thế tu tập cho đến bây giờ chẳng ai tu đến đâu, cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong vòng luẩn quẩn, loanh quanh. Có người tu các loại tà thiền Yoga xuất hồn lại rơi vào trạng thái định tưởng, có người tu Thiền Ðông Ðộ rơi vào pháp tưởng nên gọi là triệt ngộ.
Tịnh Ðộ tông thì rơi vào sắc tưởng, thinh tưởng, thấy cảnh giới Tây Phương, Phật Di Ðà và Thánh Chúng, thấy hoa sen, thấy tên họ được đăng ký trên hoa sen và thấy ánh sáng hào quang, nghe Phật Di Ðà thuyết pháp, v.v... Ðó toàn là sắc, thinh tưởng.
Mật tông thì rơi vào tha tâm tưởng, nên biết chuyện quá khứ vị lai, khiến cho mọi người quá nể phục, và họ thường làm trò ảo thuật (thần thông) lừa đảo người. Tất cả những sự việc xảy ra khiến cho người tu tưởng mình đã chứng đạo, nên trong kinh Pháp Môn Căn Bản, Phật dạy: “Tất cả những kết quả đó là tưởng tri, chớ không phải thực chứng giải thoát (liễu tri)”.
Bởi vậy, một người tu tìm cầu sự giải thoát mà không sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống không phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, không đầy đủ oai nghi chánh hạnh, không thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, không chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới, thì dù tu ngàn đời Thiền, Tịnh, Mật cũng chẳngđi đến đâu, chỉ uổng phí một đời tu hành mà thôi, rồi cũng chạy theo danh lợi, buôn Phật, bán pháp mà sống, sống trong cách thức lừa đảo tín đồ để ngồi trong mát ăn bát vàng.
Thần thông của ngoại đạo do dùng tưởng tu tập như Yoga, Mật tông, Khí Công, Nội Công, v.v... Do dùng tưởng tu tập nên có thần thông mà tâm dục chưa diệt, ác pháp chưa trừ, nên dễ sa ngã trong nữ sắc, danh, lợi thế gian, v.v... Do sa ngã nữ sắc, danh lợi thế gian, nên thần thông mất dần.
Vì vậy, có nhiều vị Giáo chủ mới xuống núi, thanh sắc đầy đủ, uy nghi chánh hạnh nghiêm trang khiến cho mọi người ai cũng kính nể, lại có thần thông kêu mây hú gió, sai binh khiển tướng, sái đậu thành binh, tàng hình biến hóa, đi trên nước lửa như đi trên đất bằng, ngồi trên hư không như thuyền nổi trên nước, đi xuyên qua vách đá, chôn dưới đất mà vẫn sống, đi trong hư không như chim bay, v.v... Những hành động trên đã khiến cho mọi người kính trọng, đem dâng cúng của cải, tài sản và ngay cả sắc đẹp, không có vật gì mà họ tiếc.
Thử hỏi, thần thông như vậy để làm gì, có ích lợi gì cho loài người đâu? Chỉ là một trò ảo thuật cho người ta xem chơi, để cám dỗ những người nhẹ dạ, ham mê thần thông, chớ không thể lường gạt những người đệ tử Phật chơn chánh được. Những hành động lừa đảo gạt người, như một vị Ðạo sư chỉ dùng một tờ báo nấu sôi một nồi nước, đã làm cho mọi người kính nể. Nấu sôi một nồi nước bằng một tờ báo thì có ích lợi gì cho con người ở thế gian? Vậy mà những người vô minh đều kính phục. Các vị giáo chủ loại này tâm dục chưa trừ, ác pháp chưa diệt, nên khi thấy của cải, tài sản, sắc đẹp thì ham thích, nên lần lần sa ngã và thần thông tưởng tiêu mất. Cho nên thỉnh thoảng, trên báo Công An phát giác ra đăng tin, vị giáo chủ này, vị giáo chủ kia, ông đạo này, ông đạo kia làm chuyện lừa đảo tín đồ nhẹ dạ.
Ngược lại, thần thông của đạo Phật không do tu tưởng mà có, chỉ dùng Pháp Hướng Như Lý Tác Ý của Đạo, tác ý để ly dục, ly ác pháp, diệt ngã xả tâm, đoạn dứt tâm tham, sân, si, mạn, nghi, diệt sạch thất kiết sử. Do tu tập đoạn dứt những điều này mà tâm được thanh tịnh. Nhưng phải biết rõ, muốn dùng pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý có hiệu quả, thì phải sống đúng giới luật, lấy giới luật phòng hộ sáu căn, sống đời sống thiểu dục tri túc, oai nghi tế hạnh hẳn hòi, đi đứng trang nghiêm, đức hạnh trọn vẹn, không hề sai sót một lỗi nhỏ.
Thần thông của đạo Phật là thần thông không có dục, không có ác pháp. Người tu sĩ đạo Phật phải biết rõ vô dục, vô ác pháp, là nhờ có giới luật mới diệt trừ được dục và ác pháp. Trong kinh Ước Nguyện, Phật dạy: “Nếu Tỳ kheo có ước nguyện: Mong rằng ta chứng được các loại thần thông, một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện ra một thân, ta hiện hình tất cả các loài vật, biến hình đi ngang qua vách qua thành, qua núi đá như đi ngang qua hư không; ta độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như trên đất liền, ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần, thân ta có thần thông bay đến Phạm thiên. Muốn được vậy, Tỳ kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới”.
Qua bài kinh Ước Nguyện, nếu ta muốn thành tựu những gì mà mình mong muốn, thì phải thực hiện tu tập và sống đúng giới luật. Ðó là một nền tảng vững chắc của đạo Phật, một nền tảng đạo đức thật sự của loài người. Nếu ai bỏ nền tảng đạo đức vững chắc này mà tu tập, dù có tu đúng thiền định của đạo Phật cũng trở thành tà thiền, tà định. Tại sao vậy? Tại vì khi lìa khỏi pháp môn căn bản của đạo Phật, tức là giới luật (pháp môn đầu tiên trong ba pháp môn vô lậu “Giới, Ðịnh, Tuệ”) thì người đó dù có tu theo đạo Phật, nhưng thực tế vẫn là tu tà đạo.
Bởi vậy, chỉ cần nhìn các tu sĩ Phật giáo hiện giờ là biết Phật giáo suy hay thịnh, mất hay còn. Thịnh không phải do số tu sĩ Phật giáo đông, không phải ở chỗ Phật giáo được chấp nhận là quốc giáo, không phải Giáo Hội Phật Giáo được tổ chức như một quốc gia có tổ chức hẳn hòi, có các trường học từ Sơ, Trung, Cao đẳng để tu sĩ học tập có cấp bằng Cử nhân, Tiến sĩ, v.v... Phật giáo thịnh không phải ở chỗ xây cất chùa to tháp lớn, kiến trúc kiên cố vĩ đại, mà ở chỗ tu sĩ phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt. Nói tóm lại, vị Tỳ kheo phải giữ gìn giới luật nghiêm túc, thì Phật giáo mới còn và hưng thịnh, còn chúng Tỳ kheo phá giới thì Phật giáo mất và không hưng thịnh.
Lời di chúc năm xưa của đức Phật còn vang mãi trong tai chúng ta: “Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”.
Hỡi quý vị tăng, ni và cư sĩ! Quý vị có muốn Phật giáo trường tồn với loài người trên hành tinh này chăng? Hay là để cho Phật giáo mai một suy tàn, chìm mất trong lớp bụi mù dày đặc của tà pháp ngoại đạo (Ðại thừa) đang phủ trùm che khắp các nơi? Nếu muốn Phật giáo được trường tồn và hưng thịnh mãi mãi, đem lại hạnh phúc an vui cho loài người và mọi người trên hành tinh này, để không còn làm khổ mình, khổ người nữa, thì người cư sĩ, đệ tử Phật tại gia, hãy giữ gìn giới luật của người cư sĩ mà đức Phật đã dạy, phải nghiêm túc khi thọ Tam Quy, Ngũ Giới và Thập Thiện, phải lấy nó phòng hộ cuộc sống của mình, giữ gìn đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, không làm khổ mình, khổ người, thì Phật giáo sẽ còn với quý vị, với loài người trên hành tinh này.
Còn Tỳ kheo tăng và Tỳ kheo ni, đệ tử xuất gia của đức Phật, nếu muốn Phật giáo được trường tồn làm ngọn đuốc sáng soi đường đạo đức cho mọi người trên quả địa cầu này, và để có hướng đi tìm chân lý giải thoát, thoát khỏi kiếp sống khổ đau của loài người, thì chính ngay bản thân của quý vị phải nghiêm trì giới luật.
Quý vị có muốn làm chủ bốn sự khổ đau sanh, lão, bịnh, tử đang tấn công quý vị hằng giây, hằng phút không? Nếu quý vị lơ đễnh thì ô hô, uổng một kiếp người! Nếu muốn làm chủ bốn sự khổ đau này thì quý vị đã thọ cụ túc giới phải nghiêm chỉnh sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, không được bẻ vụn giới, sống phá giới. Quý vị hãy bỏ xuống những gì của các Tổ, mà phải trở lại sống đúng như Phật, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới.
Page 10
(Trưởng lão Thich Thông Lạc, trích NPTCB, tập 3, TG. 2011, tr.13-19)link sách: NPTCB, tập 3
LỜI PHẬT DẠY
Này Sandha, hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ có Thiền định của con ngựa chưa thuần thục. (Tăng Chi Bộ Kinh, tập 4, trang 655).
CHÚ GIẢI:
Người tu thiền định cần phải lưu ý lời khuyên dạy trên đây của Đức Phật: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ có Thiền định của con ngựa chưa thuần thục”. Hầu hết người tu thiền định thời nay không quan tâm đến vấn đề này, nên muốn tu thiền định là đi học thiền, tu thiền chứ họ đâu biết rằng tu thiền định như vậy là sai, tu như vậy không bao giờ nhập được thiền định. Tại sao vậy?
Vì thân tâm họ chưa thuần thục, còn đắm nhiễm dục và ác pháp tức là chưa ly dục ly ác pháp có nghĩa là giới luật chưa nghiêm túc. Bởi vậy Đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục”.
Thưa các bạn! Con ngựa thuần thục và con ngựa chưa thuần thục nghĩa như thế nào? Con ngựa thuần thục là chỉ cho tâm đã ly dục ly ác pháp, tâm đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi. Khi tâm đã ly dục ly ác pháp thì lúc bây giờ chúng ta mới tu tập Thiền định. Cho nên Đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục”. Thân tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng. Lúc bấy giờ chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Định. Tu như vậy mới đúng như lời Phật dạy. Phải không các bạn?
Cho nên nền tảng thiền định của Đạo Phật là giới luật mà giới luật thì phải nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Do lời dạy trên đây của Đức Phật mà chúng ta xét thấy những người tu theo thiền định của Phật Giáo thời nay đều tu sai pháp, vì giới luật chưa nghiêm chỉnh, hạnh ly ăn, ly ngủ, hạnh sống độc cư chưa trọn vẹn mà đòi nhập thiền định thì làm sao nhập được. Các bạn chỉ tu tập thiền tưởng, chứ chánh định chánh thiền thì không thể tu tập như vậy được.
Đoạn kinh trên đây cho chúng ta thấy tu sĩ Phật Giáo hiện giờ chưa có ai nhập Chánh định được, chỉ nhập vào Tà định của ngoại đạo mà thôi. Giới luật không tu tập, mà lại còn phá giới, phạm giới, tu như vậy cho phù hợp với thời đại thì chỉ có các nhà Sư Đại Thừa và kinh sách Đại Thừa dạy chứ kinh sách Nguyên Thủy thì không có dạy như vậy.
Xét qua lời dạy trên thì thấy giáo lý Đại Thừa xem nhẹ giới luật, hướng dẫn tu sĩ đi đến con đường sai lệch: Cúng bái, cầu siêu, cầu an, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn, ngồi thiền ức chế tâm, v.v... Thưa các bạn! Chúng ta là những Tu sĩ và Cư sĩ Phật Giáo sao lại không sáng suốt phân biệt pháp môn nào của Phật, pháp môn nào của ngoại đạo, của các Tổ, để tu hành tránh khỏi lầm lạc. Và như vậy vô tình chúng ta lại cố ý tiếp tay diệt sạch Phật Giáo theo mưu đồ của Bà La Môn bất chánh. Phải không hỡi các bạn? Nhìn thấy các bạn tu theo kinh sách Đại Thừa, chúng tôi dựa theo lời dạy Nguyên Thủy của Phật trên đây mà khẳng định rằng: Các bạn tu tập như vậy là sai, chỉ uổng công, chẳng bao giờ nhập được Chánh định, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Các bạn tin hay không tin là quyền ở các bạn, nhưng điều chúng tôi quyết chắc là các bạn sáng suốt nhận định rõ ràng những gì các bạn tận mắt thấy, tai nghe và những gì chúng tôi nói. Đó là những điều chứng thực để các bạn tin hay không tin.
Thiền định của con ngựa chưa thuần thục nghĩa là gì? Con ngựa chưa thuần thục có nghĩa thân tâm của các bạn còn tham, sân, si, mạn, nghi, còn chưa ly dục ly ác pháp. Khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, chưa ly dục ly ác pháp thì đừng có tu thiền định, vì có tu thiền định cũng chỉ mất công phí sức chẳng bao giờ nhập được định, bởi vì nền tảng tu thiền định của Đạo Phật là Giới luật. Có nền tảng giới luật thì tu thiền định mới bảo đảm. Tâm phải thanh tịnh ly dục ly ác pháp thì mới nên tu tập thiền định.
Cho nên các bạn về tu viện Chơn Như mà không dọn mình cho trong sạch thì về đây tu hành cũng chẳng ích lợi gì. Hạnh ăn, hạnh ngủ, hạnh độc cư chưa tròn mà về đây tu tập là tu tập cái gì? Thưa các bạn! Các bạn còn tham mê ăn, tham mê ngủ, còn thích sống nói chuyện mà các bạn về đây tu tập thì chỉ uổng công và vô ích. Ở đây không có dạy tu ăn, tu ngủ, tu nói chuyện các bạn ạ!. Các bạn cứ nghĩ rằng cúng dường tiền bạc nhiều là để tu viện Chơn Như phục vụ về ăn uống cho các bạn, đó là các bạn đã nghĩ sai. Dù các bạn có cúng dường bao nhiêu tiền thì tu viện cũng vẫn giữ lập trường giúp các bạn ăn uống đơn giản vừa đủ sống để ly dục ly ác pháp, chứ không phải phục vụ các bạn ăn uống như trong khách sạn nhà hàng. Khi các bạn về đây tu hành mà còn mang theo thực phẩm để ăn uống, không thực hiện đời sống bình đẳng về ăn uống trong tu viện, thì chúng tôi nói rằng các bạn chỉ tu cho có hình thức chơi chứ kỳ thực chẳng có kết quả lợi ích gì cho các bạn. Tu mà còn tham đắm ăn uống, ngủ nghỉ; tu mà còn thích hội họp nói chuyện khoe khoang sự tu tập của mình với mọi người. Vậy thì nền tảng ly dục ly bất thiện pháp là ở chỗ nào? Xin các bạn chỉ cho. Các bạn chỉ sống trong tưởng, nói thiền định tưởng, chứ kỳ thực các bạn chưa có nếm được mùi vị ly dục ly ác pháp.
Đây, các bạn hãy nghe tiếp lời dạy của Đức Phật để mà suy ngẫm con đường tu hành của mình: “Này Sandha, ở đây có hạng người tâm chưa được thuần thục, khi đi đến ngôi rừng hay khi đi đến gốc cây, hay khi đến ngôi nhà trống, trú với tâm bị dục tham ám ảnh, bị dục tham chi phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Người ấy tàng trữ dục tham trong tâm (ức chế), rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán, trú với tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi phối... trú với tâm bị hôn trầm thùy miên ám ảnh, bị hôn trầm thùy miên chi phối... trú với tâm bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối... trú với tâm bị nghi hoặc ám ảnh... trú với tâm bị nghi hoặc chi phối, không như thật biết ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Người ấy tàng trữ nghi hoặc vào trong (ức chế), rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán. Người ấy Thiền tư y chỉ vào đất, Thiền tư y chỉ vào nước,... vào gió,... vào Không vô biên xứ,... vào Thức vô biên xứ,... vào Vô sở hữu xứ,... vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ,... vào đời này,... vào đời sau. Phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, đều y chỉ vào đấy người ấy thiền tư. Như vậy này Sandha là người tu Thiền tư không thuần thục (không kết quả).” Đọc đoạn kinh này các bạn tự quan sát sự tu tập của mình là sẽ biết ngay liền sai hay đúng. Thường các bạn trình pháp đều chứng tỏ mình tu rất tốt, nhưng gặp chuyện thì biết ngay liền các bạn chưa “Xả Tâm”. Chưa Xả Tâm mà có thiền định gì mà thưa hỏi. Phải không hỡi các bạn? Để thấy sự tu hành của chúng ta sai như thế nào, vậy chúng ta hãy quán xét lại đoạn kinh trên cho kỹ. Chúng ta nên xét câu thứ nhất: “Này Sandha, ở đây có hạng người tâm chưa được thuần thục”. Vậy, tâm chưa thuần thục là thuần thục cái gì? Ở đây Đức Phật muốn nói giới luật chưa nghiêm chỉnh, tâm chưa ly dục ly ác pháp.
Chúng ta xét đến câu thứ hai: “Khi đi đến khu rừng hay khi đi đến gốc cây, hay khi đến ngôi nhà trống”. Vậy, khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là nghĩa gì? Ở đây có nghĩa là chọn lấy một nơi thanh vắng để sống độc cư, một mình trong cảnh cô đơn.
Chúng ta quán xét đến câu thứ ba: “Trú với tâm bị dục tham ám ảnh, bị dục tham chi phối”. Vậy, dục tham ám ảnh, dục tham chi phối nghĩa là gì? Dục tham là lòng ham muốn; ám ảnh là hiện ra lởn vởn trong trí ray rứt không yên; chi phối là tác dụng điều khiển. Nghĩa chung của câu tham dục ám ảnh là lòng tham muốn hiện ra lởn vởn trong trí ray rứt không yên, nghĩa câu tham dục chi phối là lòng tham muốn tác dụng điều khiển, sai khiến. Nghĩa chung của đoạn này là khi ngồi lại một mình nơi thanh vắng thì lòng tham muốn khởi lên ray rứt, tác động điều khiển sai khiến chúng ta làm theo ý muốn của tâm, làm cho ta mất tự chủ. Người đời không biết tu hành nên dễ bị tâm tham dục sai khiến, khiến cho cuộc đời vốn khổ đau lại càng khổ đau hơn.
Chúng ta quán xét đến câu thư tư: “Không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Người ấy tàng trữ dục tham trong tâm (ức chế )”. Vậy xuất ly và tàng trữ nghĩa là gì?
Xuất ly là lìa ra, bỏ ra; tàng trữ là giữ lại, nén lại. Ý nghĩa của câu này là không biết cách xuất ly dục tham, nên dục tham thường khởi lên chỉ còn có giữ gìn trong tâm nên gọi là nén tâm. Do đó dù có tu thiền định gì đi nữa thì vẫn bị sân, hôn trầm thùy miên, trạo cử, trạo hối và các loại tưởng định khởi lên như trong đoạn kinh này dạy: “Rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán, trú với tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi phối... trú với tâm bị hôn trầm thùy miên ám ảnh, bị hôn trầm thụy miên chi phối... trú với tâm bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối... trú với tâm bị nghi hoặc ám ảnh... trú với tâm bị nghi hoặc chi phối, không như thật biết ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Người ấy tàng trữ nghi hoặc vào trong (ức chế), rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán. Người ấy Thiền tư y chỉ vào đất, Thiền tư y chỉ vào nước,... vào gió,... vào Không vô biên xứ,... vào Thức vô biên xứ,... vào Vô sở hữu xứ,... vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ,... vào đời này,... vào đời sau. Phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, đều y chỉ vào đấy người ấy thiền tư. Như vậy này Sandha là người tu Thiền tư không thuần thục (không kết quả).” Theo lời dạy trong kinh này: Khi giới luật không nghiêm chỉnh thì dù có tu tập cách gì cũng không có kết quả.
Page 11
(Trươrng lão Thích Thông Lạc, trích SMMNCTN, TG. 2010, tr. 77-104)link sách: SMMNCTN
BÀI KỆ THỨ 11
“Từ bỏ để một bên,Mọi hiện tượng gia đình,Như loại cây san hô,Tước bỏ mọi lá câyBậc tu hành cắt đứt,Mọi trói buộc gia đình,Hãy sống riêng một mìnhNhư Tê Ngưu một sừng!”
Nếu một người tu theo Phật giáo thì nên cắt đứt mọi trói buộc của gia đình mới mong tìm thấy được giải thoát.
Cho nên người nào theo Phật giáo tu tập thì nên cắt ái ly gia. Vì thế người tu sĩPhật giáo đều phải cắt ái lìa gia đình. Bởi vậy bài kệ thứ mười một dạy:
“Từ bỏ để một bên,Mọi hiện tượng gia đình”
Bỏ hết tình ái gia đình thì mới làm CON TÊ NGƯU SỐNG MỘT MÌNH. Bởi tình ái đối với tất cả những người thân thuộc trong gia đình là những điều đau khổ mà con người ngàn đời, muôn kiếp phải gánh chịu. Buông bỏ hết những sợi dây tình ái cũng giống như cây san hô tước bỏ hết những chiếc lá và sống trơ trụi MỘT MÌNH.
Có làm được như vậy mới tìm thấy được sự giải thoát bằng không thì sự tu tập cũng chỉ hoài công vô ích.
Làm được như CON TÊ NGƯU SỐNG MỘT MÌNH là một điều khó trên cuộc đời này, vì vậy mà người tu theo Phật giáo thì đông vô số kể, mà những người làm được như CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG thì quá ít.
Phật pháp tu hành không khó mà khó là vì mọi người còn tiếc các pháp thế gian nên chưa muốn bỏ. Pháp thế gian là pháp đau khổ, ai ai cũng biết vậy, nhưng bỏ nó thì ai cũng tiếc, do còn tiếc nên không muốn bỏ, vì sợ bỏ là uổng. Do tâm niệm này mà người tu tập theo Phật giáo thì nhiều mà chứng đạo thì chẳng có mấy người.
BÀI KỆ THỨ 12
“Nếu tìm được bạn lành,Thận trọng và sáng suốt,Bạn đồng hành chung sống,Bạn thiện trú hiền trí,Chẳng ai nói với aiCùng nhau đồng nhiếp phục,Tất cả mọi hiểm nạnHãy sống riêng một mìnhNhư Tê Ngưu một sừng!”
Những người bạn đồng tu là những người bạn không giao tiếp nói chuyện với nhau, họ chuyên sống MỘT MÌNH trong thất với TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ. Ðó là những người bạn lành, những người bạn tốt. Còn ngược lại những người bạn nào chuyên phá hạnh sống MỘT MÌNH đi nói chuyện với người này, người khác là những người bạn ác. Những người ấy chúng ta không nên kết bạn với họ, vì họ sẽ phá hạnh sống MỘT MÌNH của chúng ta, họ làm cho chúng ta tu hành sống MỘT MÌNH không được.
Sống MỘT MÌNH không được thì làm sao giải thoát được, vì thế nên tránh xa những người này, họ là những người ác tri thức. Chúng ta nên đề phòng những người phá hạnh sống MỘT MÌNH, họ không tu hành gì được.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đạo là nhờ sống MỘT MÌNH, vì thế bốn mươi hai bài kệ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG là do đức Phật thuyết giảng dạy chúng ta tu hành phải sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG.
SỐNG MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG tức là chẳng ai nói với ai một lời nào cả thì đó là lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy quý vị muốn biết rõ những lời dạy này thì chúng ta nên đọc bài kệ thứ mười hai CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG thì sẽ thấy biết lời dạy này rất rõ ràng.
Trên đường tu hành muốn sống như CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG thì phải chọn những người bạn đồng tu đã đúng, họ cũng muốn sống như CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG thì sự tu hành sẽ sách tấn với nhau, còn nếu chọn bạn đồng tu là những người thích đi nói chuyện, phá hạnh sống MỘT MÌNH thì đó là những người bạn không xứng đáng cùng bước đi trên đường tu tập giải thoát của Phật giáo, chúng ta nên tránh xa.
Trong bài kệ có hai câu đáng lưu ý và rất tuyệt vời cho bước đường tu tập đến thành chánh giác:
“Bạn thiện trú hiền trí,Chẳng ai nói với ai”
Người bạn cùng sống chung mà sống MỘT MÌNH là người bạn hiền trí. Còn những người bạn giao thiệp nói chuyện là những người bạn không hiền trí, là ác hữu tri thức, họ không phải là những bậc long tượng trong Phật giáo.
Người thích giao thiệp nói chuyện là những người phàm phu tục tử chớ không phải bậc tu hành tìm cầu sự giải thoát. Quý vị nên nhớ điều này!
Khi chúng ta đến TU VIỆN CHƠN NHƯ tu tập, nên xét qua hạnh sống MỘT MÌNH của ngưới khác thì biết ngay là những người đó tu hành chân chánh hay là những người tu hành giả dối, chỉ đi tìm nơi an dưỡng để nghỉ ngơi, để mưu cầu mạng sống bằng cách ngồi trong mát ăn bát vàng. Cho nên những người tu thật hay tu giả chỉ cần nhìn vào hạnh sống MỘT MÌNH là biết ngay.
Bốn mươi hai bài kệ sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG đã xác nhận điều này, nhờ đó chúng ta tu tập đúng hay tu tập sai Phật pháp đều ở nơi hạnh sống như CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG.
Cho nên tu theo đạo Phật mà tu tập sai hay tu tập đúng đều không che dấu ai được, nó thể hiện ra lối sống rất rõ ràng.
Ðạo Phật không có giấu giếm một bí quyết nào cả, dạy thẳng giúp người tu hành ngay liền thấy sự giải thoát chớ không có chờ đợi. Bởi vậy, người nào thường sống với TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ, là những người sống NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG, là những người đã chứng đạo hay sẽ chứng đạo.
Chứng đạo của Phật giáo không có khó khăn, không có tu tập mệt nhọc như những pháp môn của ngoại đạo. Người có trí hiểu biết sáng suốt buổi sáng nghe Phật thuyết pháp thì buổi chiều đã chứng quả A LA HÁN ngay liền.
BÀI KỆ THỨ 13
“Nếu không được bạn lành,Thận trọng và sáng suốtCũng đừng sống với họHọ chẳng phải hiền tríHãy như vua từ bỏĐất nước bị bại vong,Hãy sống như voi chúaMột mình trong rừng sâuHãy sống riêng một mìnhNhư Tê Ngưu một sừng!”
Trên cuộc đời tu hành nếu không gặp được bạn đồng tu giữ gìn hạnh sống MỘT MÌNH trọn vẹn thì chúng ta không nên tìm những người bạn đồng tu khác không giữ hạnh sống MỘT MÌNH như bài kệ thứ mười ba trên đây đã nhắc nhở:
“Nếu không được bạn lành,Thận trọng và sáng suốtCũng đừng sống với họHọ chẳng phải hiền trí,Hãy như vua từ bỏÐất nước bị bại vong”
Nếu không có bạn đồng tu sống MỘT MÌNH thì chúng ta hãy sống MỘT MÌNH như con voi chúa sống trong rừng sâu mà chẳng hề biết sợ ai cả. Muốn đi dọc đi ngang như thế nào tùy thích.
Mục đích tu hành của chúng ta là đi tìm đường thoát khổ đau. Nhưng con đường thoát mọi khổ đau thì chỉ có con đường của Phật giáo mà con đường của Phật giáo thì có 37 pháp môn tu tập. Vì thế người tu hành theo Phật giáo phải có một thời gian dài tu tập. Vì phải mất một thời gian dài như vậy nên đức Phật cố gắng đưa ra một pháp môn ngắn gọn dễ dàng tu tập và có kết quả ngay liền. Ðó là TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ.
Với pháp môn này ai tu cũng được, già trẻ bé lớn hay những người đang gặp tai nạn tù tội hoặc bệnh tật nằm liệt giường, liệt chiếu cũng đều tu tập được cả. Với pháp môn này không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ, ngoại đạo hay không ngoại đạo đều tu tập được cả. Người già yếu hay người trẻ trung; người bệnh tật hay người khỏe mạnh cũng đều tu tập được cả.
Với pháp môn này tu tập là có kết quả giải thoát ngay liền, chỉ những người có quyết tâm, có ý chí, có nghị lực siêng năng, tinh tấn tu tập thì sự giải thoát hiện tiền.
Muốn đạt được kết quả tốt đẹp này thì không gì hơn là phải sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG. Chỉ có sống MỘT MÌNH như vậy mà làm nên sự chứng đạo giải thoát.
BÀI KỆ THỨ 14
“Thật chúng ta tán thán,Những bạn hữu chu toàn,Bậc hơn ta, bằng ta,Ta nên gần thân cận,Nếu không gặp bạn này,Thì ta phải cố gắngHãy sống riêng một mìnhNhư Tê Ngưu một sừng!"
Trong cuộc đời tu hành của chúng ta nếu may mắn gặp được những bạn đồng tu hơn ta hoặc bằng ta thì chúng ta sẽ học hỏi nhiều điều hay ở họ, còn ngược lại kém hơn ta thì chẳng có ích lợi gì cho ta cả.
Bởi những bạn hơn ta, bằng ta đều là những bậc sống MỘT MÌNH, và chỉ cần học ở họ hạnh sống MỘT MÌNH cũng đủ cho chúng ta tìm thấy sự giải thoát. Còn nếu không gặp những người bạn này thì chúng ta nên tập sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG.
Tại sao đạo Phật chủ trương người tu hành phải sống MỘT MÌNH? Bằng chứng là bốn mươi hai bài kệ con TÊ NGƯU MỘT SỪNG đã nói lên được thánh hạnh này. Thánh hạnh giải thoát đó chỉ có sống MỘT MÌNH. Sống MỘT MÌNH mới thấy sự giải thoát của Phật giáo là chân thật. Còn chưa sống MỘT MÌNH được, mà nói ngồi thiền hai ba giờ, nhiếp tâm không vọng tưởng, đó là quý vị tu theo Phật giáo Trung Quốc pha màu vô vi của Lão Tử.
Người tu theo Phật giáo không diệt ý thức nên lúc nào cũng còn niệm khởi. Niệm có hai loại rõ ràng:
1- Niệm khởi chạy theo tâm dục.
2- Niệm khởi làm chủ tâm dục.
Ví dụ: Có một niệm khởi lên bảo rằng: Ta muốn ăn một cái bánh phi thời thì đồng thời lúc đó cũng có một niệm khác cũng khởi lên ngăn lại và bảo rằng: giờ này không được ăn phi thời, ăn như vậy là phạm giới về ăn uống; ăn như vậy không xứng đáng là người tu sĩ Phật giáo.
Cho một ví dụ khác nữa: Có một người nằm trên giường bệnh tâm khởi niệm lo lắng: Theo như lời bác sĩ nói căn bệnh ung thư của ta sẽ sống không còn bao lâu nữa, vậy ta hãy mua thịt cá ăn cho “đã” để có chết cũng không còn thèm nữa.
Trong khi đó lại có một niệm khác khởi lên bảo rằng: Sắp chết rồi ta phải ăn chay làm thiện để kiếp sau có sinh lên làm người cũng được mạnh khỏe, vì ăn thịt cá là huân thêm tội ác, do sát hại chúng sinh nên khó mà sinh làm người. Bởi vì luật nhân quả ai gieo nhân nào thì phải gặt quả nấy. Ví như những người làm nghề chài lưới bắt cá tôm đem giết hại làm thực phẩm để nuôi thân mạng sống hằng ngày của mình, thì tội ác đó không thể lường được. Cho nên dân chài lưới thường chết sông, chết biển, chết vì bệnh tật nan y.
Bởi vậy thế giới không giờ phút nào ngưng chiến tranh, không nước này đánh giết nhau thì nước khác. Ðó là một bằng chứng mà không ai chối cãi được. Vì giết hại và ăn thịt chúng sinh nên thế giới làm sao có hòa bình.
Từ xưa đến nay người ta hiểu ăn chay là theo một tôn giáo nào đó để được thánh thần phò hộ tai qua nạn khỏi, chớ người ta đâu ngờ rằng ăn chay là nuôi lớn LÒNG YÊU THƯƠNG của chúng ta đối với sựsống của muôn loài. Vì chính LÒNG YÊU THƯƠNG mới đem lại sự an vui bình yên cho chúng ta chớ không có thần thánh nào giúp chúng ta tai qua nạn khỏi bệnh tật tiêu trừ.
Trên đời này nếu tìm được một người bạn lành có LÒNG YÊU THƯƠNG rộng lớn như vậy thì người bạn đó là tấm gương sáng để chúng ta soi. Vì chính người nào có LÒNG YÊU THƯƠNG rộng lớn thì người đó thích sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG.
BÀI KỆ THỨ 15
“Thấy đồ trang sức vàng,Lấp lánh và sáng chói,Được người thợ kim hoàn,Khéo làm, khéo tay làm,Đối với những vật nàyNguy hiểm tự hại thânHãy sống riêng một mìnhNhư Tê Ngưu một sừng!”
Một người muốn tìm tu giải thoát thì vàng bạc của báu cần nên tránh xa, không cất giữ mà hãy buông xả hết. Bởi vì vàng bạc của báu đều là rắn độc.
Ngày xưa đức Phật và ông A Nan đi khất thực, khi đi ngang qua một lỗ trổ mà người nông dân dùng để khai nước. Dưới lỗ trổ ông A Nan nhìn thấy một hủ vàng và gọi đức Phật đến xem, khi đức Phật đến xem liền bảo với ông A Nan: “Ðây là rắn độc chúng ta hãy mau mau rời khỏi nơi này”. Khi đức Phật và ông A Nan đã đi xa thì người nông dân ở gần đó nghe đức Phật nói với ông A Nan như vậy liền đến xem, khi thấy một hủ vàng to tướng người nông dân cả cười và nói: “Ðể ta mang con rắn độc này về nhà xem nó có cắn ai chết không?”. Ông nông dân khệ nệ mang hủ vàng về nhà rồi đem bán lấy tiền xây cất nhà cửa khang trang. Thấy người nông dân bổng nhiên giàu có, nhà vua cho người đến điều tra và cuối cùng nhà vua khép tội tử hình cả dòng họ vì tội ăn cắp vàng của nhà vua. Ngày đem cả dòng họ ông nông dân ra xử tử hình thì người nông dân chỉ than thở một mình: “Ðúng là đức Phật nói vàng là rắn độc, bây giờ nó cắn cả dòng họ của ta. Hiểu được thì quá muộn màng”.
Nếu một người muốn sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG thì không nên cất giữ vàng bạc của báu. Người nào còn cất giữ vàng bạc của báu thì chẳng bao giờ làm CON TÊ NGƯU SỐNG MỘT MÌNH.
BÀI KỆ THỨ 16
“Như vậy nếu ta cùng,Với một người thứ hai,Tranh luận cãi vã nhau,Sân hận, gây hấn nhau,Nhìn thấy trong tương lai,Sợ hãi hiểm nguy nàyHãy sống riêng một mìnhNhư Tê Ngưu một sừng!”
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đã nhận thấy mọi người không sống MỘT MÌNH nên thường hay có sự xung đột tranh cãi với nhau, sân hận rồi đánh nhau có khi giết nhau tạo ra những tội ác mà bản án tử hình không sao tránh khỏi. Bởi sống MỘT MÌNH thì làm gì có sự tranh cãi hơn thua với nhau, vì thế sống MỘT MÌNH có lợi ích rất lớn là không làm ai buồn phiền và mọi người cũng không ai làm buồn phiền mình.
Sống MỘT MÌNH thật là an vui và hạnh phúc biết bao, vì chẳng có ai làm trái ý mình và mình cũng không làm trái ý người. Cho nên hạnh sống MỘT MÌNH thật là giải thoát. Bởi vậy đức Phật ví người sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG.
Người nào tu hành theo Phật cố gắng sống NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG thì sự giải thoát ở ngay trước mặt. Càng kết bè, kết bạn thì sự gây hấn không sao tránh khỏi, mà không tránh khỏi sự gây hấn thì sân hận ngày một tăng trưởng, vì thế cuộc đời tu hành chúng ta chẳng có ích lợi gì.
Vì thế, muốn được giải thoát an vui thì nên sống MỘT MÌNH. Bí quyết thành công trên đường tu tập theo Phật giáo không có gì đặc biệt mà chỉ có sống MỘT MÌNH.
Sống MỘT MÌNH đâu có khó khăn gì, chúng ta hãy sống thử từ 1 tuần lễ, 1 tháng đến 3 tháng, rồi 1 năm, 5 năm, 10 năm và suốt cả đời thì quý vị sẽ thấy một sự sống tuyệt vời mà không có sự sống nào hơn được.
SỐNG MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG đó là lối sống của những bậc thánh nhân chớ phàm phu không thể sống MỘT MÌNH được.
Những người tu theo Phật giáo là những người vượt khỏi đời sống thế gian, vì thế nên họ SỐNG MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG.
BÀI KỆ THỨ 17
“Các dục thật mỹ miều,Ngọt thơm và đẹp ý,Mọi hình sắc, phi sắc,Làm mê loạn tâm tư,Thấy sự nguy hiểm này,Trong các dục trưởng dưỡngHãy sống riêng một mìnhNhư Tê Ngưu một sừng!”
Nếu chúng ta không sống MỘT MÌNH thì các món dục lạc sẽ lôi cuốn chúng ta vào sáu nẻo luân hồi mà không sao tránh được. Khi bị dục lạc lôi cuốn mà không xả được thì chúng ta sẽ bị trôi lăn trong đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ thoát ra được. Quý vị có biết không?
Dục không hình dáng, khó thấy nhưng nó có một sức mạnh vô biên. Chính muôn loài trên hành tinh này đều bị nó lôi đi chẳng khác nào như bác nông dân lôi một con trâu to lớn khi bị xỏ mũi. Chúng ta cũng vậy đều bị dục xỏ mũi, nó muốn lôi chúng ta đi đâu thì lôi không bao giờ chúng ta chống lại sức mạnh của nó được.
Vì thế chỉ có những người quyết tâm sống MỘT MÌNH thì mới làm chủ được dục, mới sai khiến dục như thế nào thì dục làm theo như thế nấy. Do đó dục không còn lôi chúng ta được nữa. Và nhờ đó nó đành chịu thua vì không còn đủ sức níu kéo chúng ta được nữa.
Người nào sống được MỘT MÌNH không giao tiếp với ai là người làm chủ được thân tâm của mình, là người đã giải thoát hoàn toàn. Bởi vậy hạnh sống MỘT MÌNH nghe nói thì dễ, nhưng có sống rồi mới thấy khó vô cùng. Khó là do những người không có ý chí dũng mãnh; khó là do những người còn ham vui, thích nói chuyện, thích kết bè, kết bạn; khó là do những người xem thường hạnh sống MỘT MÌNH, họ nghĩ rằng tu hành nhiếp tâm không vọng tưởng, ngồi thiền bảy, tám giờ mà còn chưa giải thoát huống là sống MỘT MÌNH làm sao giải thoát cho được. Ở bên Miến Ðiện, Thái Lan, Nhật Bản, Tây Tạng người ta tu tập ngồi thiền bảy, tám giờ không một niệm khởi mà còn chưa chứng đạo. Vậy mà ở đây thầy dạy chỉ có sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG là chứng đạo, điều ấy làm sao chúng con tin được.
Nếu các con không tin thì hãy đọc bốn mươi hai bài kệ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG mà đức Phật đã dạy cách đây hơn mấy ngàn năm rồi các con có tin hay không tùy ý. Còn riêng Thầy thì Thầy tin ngay, vì muốn sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG đâu phải dễ. Nếu thân tâm không thanh tịnh thì đừng mong sống như CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG. Vậy thân tâm thanh tịnh như thế nào?
Thân tâm thanh tịnh là thân TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ, chỉ có giữ gìn được tâm này mới sống MỘT MÌNH NHƯ CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG được.
Page 12
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 4, TG.2011, tr.338-341)link sách: ĐVXP, tập 4
Hỏi: Kính bạch Thầy! “Tứ Bất Hoại Tịnh” là gì? Ngưỡng mong Thầy dạy lại cho chúng con được thấu suốt hơn.
Ðáp: Tứ Bất Hoại Tịnh là một pháp môn tu tập làm cho sự thanh tịnh của thân tâm không bị hư hoại. Tứ Bất Hoại Tịnh chính là pháp môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới của Phật giáo Nguyên Thủy, nó không giống pháp môn niệm Phật của Phật giáo phát triển (Tịnh Ðộ Tông) chuyên niệm hồng danh của Phật A-Di-Đà.
Kính thưa các bạn! Theo như kinh Nguyên Thủy đức Phật dạy:
1/ Niệm Phật là sống như Phật, chứ không phải niệm danh hiệu Phật (Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật).
2/ Niệm Pháp là sống đúng như pháp, tu tập đúng như pháp, chứ không phải tụng kinh.
3/ Niệm Tăng là sống hòa hợp như chúng Tăng, không chống trái nhau, chứ không phải trai tăng cúng dàng, lạy lễ các vị Tăng để cầu phước báu.
4/ Niệm Giới là sống đúng Phạm hạnh, không hề vi phạm một giới luật nào và không phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
Chứ không phải hằng tháng vào ngày 30 và ngày rằm cùng nhau tụng giới. Bởi không tu hành nên các nhà học giả y cứ trên chữ nghĩa kiến giải niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới thì giải thích niệm là đọc lầm thầm trong ý như câu: “Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay Nam Mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật, Thế Tôn”. Hay niệm Nam Mô A Di Ðà Phật. Niệm như vậy là niệm theo kiểu Phật giáo phát triển, niệm ức chế tâm không có nghĩa lý gì cả, không có sự giải thoát gì cả. Ở đây, đức Phật dạy niệm tức là sự tư duy Phật, Pháp, Tăng và Giới để chúng ta thấu triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải thoát như thế nào, để chúng ta noi theo đó mà thực hiện sống và tu tập đúng như Phật đã sống, đúng như Pháp Phật đã thuyết, đúng như chúng Thánh Tăng đã sống và đúng như Giới luật đã dạy.
Bài pháp Tứ Bất Họai Tịnh này được tu học và rèn luyện trên lớp Chánh Kiến. Do tu học trên lớp Chánh Kiến, nên phải dùng nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn mà tu tập. Có hiểu biết và tu tập như vậy thì mới có giải thoát thật sự, còn niệm danh hiệu Phật, tụng kinh, cúng dường trai Tăng, đảnh lễ chư Tăng và tụng Giới, dù có niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới như vậy cho đến muôn kiếp ngàn đời thì cũng chẳng có giải thoát được chút nào. Người ta đã lầm cho rằng niệm như vậy là để nhất tâm bất loạn, tức là trong lúc niệm không có niệm nào khác xen vào, chỉ duy nhất có câu niệm Phật mà thôi, thì sẽ được vãng sanh vào cõi Tịnh Ðộ, đó là hiểu theo kiến giải lầm lạc của Tịnh Ðộ Tông (Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Ðà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền). Còn hiểu theo nghĩa Thiền Tông thì nhất tâm bất loạn tức là chẳng niệm thiện niệm ác, chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền là thiền định, là Phật tánh.
Nhưng tất cả những sự tu tập như vậy đều sai hết các bạn ạ! Khi nhất tâm bất loạn như vậy, các bạn sẽ rơi vào thế giới tưởng của tưởng uẩn, nơi đây là mê hồn trận của tà giáo ngoại đạo. Các bạn tu hành cần nên cảnh giác hang hùm nguy hiểm này. Khi tu tập đến đây các bạn coi chừng bị ức chế tâm quá độ thì sẽ bị rối loạn thần kinh, trở thành nguy hiểm cho tánh mạng của các bạn. Sự tu sai lạc này, các bạn sẽ mằc những bệnh thần kinh, điên khùng, mất trí, v.v... khi cười, khi khóc hay làm ra vẻ sống kỳ lạ không giống ai hết.
Ðến đây các bạn đã hiểu sơ sơ về bài học của lớp Chánh kiến “TỨ BẤT HOẠI TỊNH”. Sau này có dịp các bạn sẽ gặp lại chúng tôi trên những giáo trình tu học của lớp này thì còn thú vị hơn nhiều.
Thân ái chào các bạn, chúc các bạn dồi dào sức khoe tu tập xả tâm tốt.
Page 13
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 1, TG. 2011, tr. 210-214)link sách: NPTCB, tập 1
Hỏi 1: Kính bạch Thầy, trong gia đình nào có người chết rất quan trọng là giờ phút lúc tắt thở. Họ đến nhờ ông thầy cúng xem người chết lúc đó giờ tốt hay xấu, giờ trùng hay không trùng, nếu ông thầy nói chết được giờ tốt không có trùng thì gia đình yên tâm, nếu ông thầy bảo giờ xấu có trùng thì ông thầy ấy cho bùa yếm để trong gia đình không có người chết nữa. Như vậy có đúng không, thưa Thầy?
Ðáp 1: Không đúng con ạ! Ðó là những kinh sách mê tín lạc hậu của người xưa, khi đời sống con người còn lạc hậu, dân trí chưa cao, kiến thức khoa học chưa có, tầm hiểu biết không nhìn rộng, thấy xa được. Con người thời ấy bản chất còn mang tính thú vật, chưa biết đạo đức là gì, chỉ đi lượm trái cây rừng hoặc đào rễ cây mà ăn.
Cho nên trước những hiện tượng thiên nhiên thời tiết thì họ không thể nào hiểu được, nên đành dùng tưởng tri để hiểu. Do tưởng tri để hiểu thì những cái không hiểu được đã biến thành một thế giới siêu hình. Từ tưởng tri thế giới siêu hình, họ mới tưởng tri ngày, tháng, năm để hoàn thành lịch và dịch số chiêm tinh. Do chỗ không thấu rõ hiện tượng thiên nhiên vũ trụ, nên các nhà tôn giáo và triết gia sản xuất ra biết bao nhiêu loại kinh sách tưởng để thuyết minh các hiện tượng siêu hình.
Hiện tượng siêu hình ngày nay đã biến thành một tai họa rất lớn cho con người trên thế giới; muốn phá bỏ nó thật là điều nan giải. Nó đã in sâu vào tâm khảm và truyền từ thế hệ trước đến thế hệ sau những cái không đúng sự thật, chỉ là tưởng mà thôi, những cái tai hại cho con người vô cùng to lớn từ đời này đến đời khác, những cái phi đạo đức đã đưa con người đến chỗ hung ác, gian xảo hơn loài cầm thú, dùng mọi cách lừa đảo, lường gạt. Báo công an đã tường thuật không biết bao nhiêu là mánh khóe cưỡng đoạt tài sản của kẻ khác, chỉ cần 100 ngàn hay 1 triệu đồng là xem mạng sống con người không ra gì. Những kẻ đầu trộm, đuôi cướp này chỉ mua một cuốn sách tử vi xem ngày tốt, xấu rồi đi trộm cướp, giết người lấy của, mà không bị ai bắt thì cần gì phải đi lao động khó nhọc mà chưa chắc đã có tiền như đi ăn trộm, ăn cướp. “Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm”, đó là tục ngữ dân gian đã dạy như vậy.
Trên cuộc đời thứ nhất là danh, thứ hai là lợi.
Các nhà triết học đua nhau đưa ra triết thuyết này triết thuyết khác đủ mọi thứ mọi loại, phần nhiều đều nằm ở trong tưởng thức mà luận ra, không thực tế, mơ hồ, trừu tượng, khi áp dụng vào đời sống con người, vốn đã khổ đau lại càng khổ đau hơn. Như thuyết hiện sinh, thuyết vô ngã của Ðại thừa giáo, thuyết hữu ngã của thiền Ðông độ, thuyết vô sản của Kark Marx, thuyết hữu thần của các tôn giáo khác, thuyết âm dương của Trung Quốc, thuyết luân hồi tái sanh của Phật giáo Ðại thừa và các tôn giáo khác, v.v... đều đưa con người quay cuồng trong các học thuyết đảo điên và điên đảo.
Thuyết âm dương của Trung Quốc mới có xem giờ tốt, xấu, coi cung mạng xung khắc trong càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Họ lý luận rằng con người khi chết, cũng như lúc sanh ra phải ở trong một cung nhất định. Các nhà học giả thời nay đua nhau nghiên cứu triết thuyết trừu tượng này, và đã tốn biết bao nhiêu tâm lực và giấy mực. Nhưng nó không đem lại lợi ích cụ thể thiết thực cho loài người đâu, chỉ toàn là luận thuyết để mà cầu danh và càng làm thêm rắc rối cho tư tưởng con người.
Những loại triết thuyết này đưa ra biến thành một cuộc nội chiến trong tâm của mọi người. Có những người cuồng tín, tin một cách mù quáng, biến mình thành những công cụ cho những triết thuyết sai khiến. Ðó là những tín đồ hăng say, điên khùng xông vào cái chết, và giết người như cỏ rác mà chẳng xót thương.
Năm, tháng, ngày, giờ tốt, xấu, đó là một triết thuyết về luật âm dương, đưa con người đến chỗ mê tín tận cùng, mỗi khi làm việc gì cũng xem ngày, giờ tốt, xấu và tuổi tác có hợp hay không.
Hiện giờ ai cũng biết đó việc mê tín, lạc hậu, phi đạo đức, vậy mà người ta không thể bỏ được tập quán, thói quen này, ngay kể cả người có học thức, có kiến thức về khoa học.
Ðạo đức nhân quả đã xác định, kẻ làm ác dù có xem ngày, giờ, tuổi tác tốt, xấu khi cất nhà, dựng vợ, gả chồng cho con cái, hoặc xem giờ an táng, hoặc xem tuổi tác người chết tránh trùng tang liên táng, bằng mọi cách mua bùa về yểm cho tai qua, nạn khỏi, bệnh tật được triêu trừ và hưởng được phước báo đầy nhà, thì chẳng bao giờ được. Nếu được thì đó là một điều vô đạo đức, không công bằng và không công lý.
Người ta sanh ra ở đời phải chấp nhận luật nhân quả. Nếu ta làm điều thiện thì ngay đó tâm ta được an vui, thanh thản, đó là phước báo của mình làm ra, còn nếu mình làm ác mà cầu phước báo thì chẳng bao giờ có được, dù cho những bậc xem ngày, giờ tốt, xấu giỏi như Trương Lương, Tiêu Hà, Khổng Minh, Quỷ Cốc Tử, cũng không tránh khỏi luật nhân quả. Cho nên Trương Lương phải ẩn bóng, Tiêu Hà bị chết, Khổng Minh thất bại trong việc chấn hưng nhà Hán.
Xét cho cùng, từ xưa cho đến nay, có mấy ai xem ngày, giờ tốt, xấu mà làm nên sự nghiệp đâu. Làm nên sự nghiệp đều do nhân quả thiện của mình. Người xưa nói: “Tích ác phùng ác, tích thiện phùng thiện”, làm ác gặp khổ, làm lành gặp phước an vui, thanh thản.
Hỏi 2: Kính bạch Thầy, khi linh cữu hạ huyệt có phải xem giờ không thưa Thầy?
Ðáp 2: Theo sự mê tín, lạc hậu của những người xưa thường sống trong tưởng thức, nên dễ bị ảnh hưởng của sách vở mê tín, phi đạo đức của nền văn minh Trung Quốc, cho nên xem giờ tốt, xấu rồi mới được chôn cất để không ảnh hưởng xấu đến con cháu sau này.
Phật giáo truyền sang qua Trung Quốc, thấy dân chúng ở xứ này đang tin tưởng vào ngày, giờ, năm, tháng, tuổi tốt, xấu của những người giàu tưởng tượng, nên cũng chế ra những loại sách vở mê tín để bói toán, xem số mạng, vận nước tốt, xấu. Những nhà thiên văn, địa lý dựa vào luật âm dương, tạo ra sách vở chiêm tinh, bói toán, dịch số, như Châu Văn Vương sống trong tù bảy năm ở Vạn Lý Gia soạn bộ dịch số, Quỷ Cốc Tử, Tôn Tử, Trương Lương, Khổng Minh, đều là những tay bói toán thần kỳ, biết trước những sự việc xảy ra. Thế mà Châu Văn Vương không tránh khỏi 7 năm tù và ăn thịt con, Trương Lương vào núi ở ẩn, Khổng Minh tan mộng phục hưng nhà Hán.
Tất cả những sự thành bại trong đời người đều do nhân quả, không có nhà chiêm tinh bói toán nào giải quyết được luật nhân quả, không thể nào xem giờ tốt, xấu cất nhà, hạ huyệt, an táng mà tránh khỏi luật nhân quả.
Nếu là chiêm tinh gia, tiên tri mọi việc, sao quý vị không xem giờ tốt xấu để cãi lại luật nhân quả số phận của mình, để mình giàu sang và quyền cao quan tước trọng. Cớ sao lại đi ngồi ngoài hè đường phố, hoặc mở phòng xem bói, chiêm tinh, tử vi, hoặc ẩn náu trong chùa, mang hình thức tu sĩ Phật giáo làm chuyện phi Phật giáo, phi pháp, phi đạo đức, lừa đảo tín đồ bằng cách xem ngày, giờ tốt, xấu như các nhà Nho lỗi thời. Ðúng là không biết nghề nào làm ăn, mượn ba thứ sách mê tín, dị đoan để gạt người nhẹ dạ.
Phần nhiều những hạng người có học Nho như các thầy đồ Nho, học hành, thi cử thất bại, và các ông Thầy chùa, tu chẳng lo tu, mượn chiếc áo Tỳ kheo làm những điều mê tín, lường gạt người bằng những trò bịp bợm xem ngày, giờ tốt, xấu, cung mạng sao hạn, để khiến người khác sợ hãi, bỏ tiền ra cúng bái, tế lễ và tiền tổ, tiền sư, đủ mọi thứ để rồi tiền mất, tật mang. Luật nhân quả rất công bằng và rất cụ thể, nếu ai làm điều ác, dù xem ngày, giờ tốt, xấu cũng không tránh khỏi tai họa, nếu ai làm việc lành, dù chẳng xem ngày, giờ tốt, xấu, chẳng cúng sao hạn mà phước báo vẫn cứ đến.
Xưa, đức Phật dạy: “Nếu một người làm ác, như cục đá ném xuống hồ, dù cho tụng kinh, niệm chú, cầu khẩn cho cục đá nổi lên thì nó chẳng bao giờ nổi. Nếu một người làm thiện, giống như những giọt dầu nổi trên mặt nước, dù không cần tụng kinh, niệm chú và cầu khẩn, giọt dầu vẫn nổi, không ai làm cho nó chìm được”.
Theo đạo Phật, chết là nên thiêu đốt, và chôn cất không cần phải xem ngày, giờ tốt xấu, vì thây người chết bất tịnh, uế trược, hôi thối, để lâu sình ra truyền nhiễm những bịnh tật khổ đau cho người còn sống.
Không có giờ, ngày nào là tốt hay xấu. Tốt xấu là do hành động thiện ác của con người tạo ra để rồi thọ lây tai nạn, bịnh tật, khổ đau, chớ không phải người chết nhằm giờ ngày xấu, hoặc hạ huyệt vào giờ, ngày xấu mà con cháu, những người thân trong gia đình xảy ra tai nạn, bịnh tật. Ðạo Phật không hề có chủ trương sự mê tín như vậy. Ðạo Phật xây dựng tôn giáo mình trên một nền đạo đức khoa học, phá vỡ những điều mê tín mù mờ, dị đoan, tưởng tượng của những loại kinh sách phản khoa học, phi đạo đức, v.v...
Ðạo Phật chủ trương ai làm ác người ấy chịu quả, chứ không có kẻ này làm mà người khác chịu. Ðạo Phật không có dạy rằng cha giết người mà con bị tù tội, cha ăn trộm mà con bị chặt tay.
Quý phật tử hãy tin nhân quả, và sống cho đúng nhân quả, đừng làm khổ mình, khổ người, thì cuộc đời sẽ được an vui và hạnh phúc, không bao giờ có tai nạn, bịnh tật nan y xảy đến. Chết muốn chôn giờ nào, ngày nào cũng đều tốt, vì ngày, giờ là thời gian tự nhiên của vũ trụ, không bao giờ có tốt, xấu. Nếu lúc nào chúng ta cũng làm thiện, làm lành, thì hà tất phải sợ những tai nạn, bịnh tật.
Xem ngày, giờ tốt, xấu để chôn cất là những người lạc hậu, mê tín, bị kẻ khác lừa đảo, tiền mất chẳng ích lợi gì. Hãy mạnh dạn, đừng sợ hãi, bất chấp mọi thử thách, lúc nào cũng làm lành, không làm khổ mình, khổ người rồi mọi sự tốt đẹp sẽ đến với mình.
Page 14
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 4, TG. 2010, tr. 57-66)link sách: NLGPD, tập 4
LỜI PHẬT DẠY:
“Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến, và tôi đã được nghe: “Này các Tỳ kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Ngươi không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỳ kheo! Là một pháp các Ngươi hãy từ bỏ, Ta bảo đảm cho các Người không đi tái sanh”. (Kinh Thuyết Như Vậy, trang 413, Chương I, Tập Một Pháp)
CHÚ GIẢI:
Kính thưa các bạn! Ðọc qua lời Phật dạy trên đây chúng ta có đặt trọn lòng tin nơi lời dạy này hay không?
Riêng chúng tôi khi tu tập Thiền Ðông Ðộ bị bế tắc, không biết đường tiến tới nữa, nên đọc được lời dạy này chúng tôi nổ lực hằng ngày tu tập với câu tác ý: “Tâm như đất, ly tham, sân, si cho thật sạch, vì tâm tham,sân, si là ác pháp, là đau khổ”. Khi tác ý mỗi lần như vậy nếu có điều gì khiến tâm khởi lên tham, sân, si là chúng tôi quyết định dừng lại một cách kiên cường dũng mãnh, không để một phút giây tham, sân, si trong tâm mình tác động. Do đặt trọn niềm tin nơi những lời Phật dạy, vì thế, chúng tôi nhiếp phục tâm mình một cách dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức.
Trong lời dạy này chỉ cần có “từ bỏ tâm tham” là chấm dứt tái sanh luân hồi. Nhớ lời dạy lời dạy ấy nhất là có sự quả quyết của đức Phật: “Ta bảo đảm cho các Ngươi”. Vì thế, sáu tháng trời chúng tôi chuyên cần tu tập từ bỏ tâm tham, sân, si, đúng pháp như lý tác ý, thế là chúng tôi đã thành tựu đạo giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi như lời đức Phật đã bảo đảm.
Bởi vậy bài kinh này lấy tên là Tập Một Pháp trong Tập Kinh Phật Thuyết Như Vậy.
Ðể bảo đảm lời dạy này, đức Phật đã đọc một bài kệ ngắn gọn:
“Với tham bị tham đắm,Chúng sanh đi ác thú (tái sanh),Bậc thiền quán chánh trí,Từ bỏ tham ái ấy,Từ bỏ không bao giờ,Trở lại đời này nữa”
Kính thưa các bạn! Vậy tâm tham ái là gì? Tham là sự tham lam, ham muốn, thường con người ai cũng có tâm tham lam và ham muốn: nhưng có người tham muốn nhiều, lại có người tham muốn ít. Muốn từ bỏ tâm tham muốn là các bạn nên lưu ý từng hành động nhỏ nhặt của các bạn như: ăn, uống, ngủ nghỉ, vui chơi, giao tiếp với bạn bè, v.v...
Khi muốn từ bỏ tâm tham muốn các bạn phải xem xét kỹ lưỡng từ cái ăn, cái mặc, cái vui chơi xem coi nó còn tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện không?
Ăn ngủ và nói chuyện là tướng tham sẽ hiện nơi đó. Khi tướng tham còn hiện nơi đó là tâm các bạn chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh dù các bạn có muốn tu pháp nào đi nữa thì các bạn cũng đều là tu sai pháp, tu lạc đường cả. Do đó, sự tu tập của các bạn chỉ uổng công mà thôi.
Bởi vậy, khi tu tập từ bỏ tâm tham thì các bạn nên xem mình ưa thích ăn cái này, cái kia không? Nếu còn thích ăn cái này, cái kia thì tâm các bạn còn tham ái. Biết tâm còn tham ái thì các bạn phải cố gắng nhiếp phục tâm mình để từ bỏ tâm tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ phi thời. Khi từ bỏ được tâm tham ăn là các bạn không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt, đúng giờ thì ăn, không đúng giờ thì không ăn. Và không bao giờ thèm ăn cái này hay thèm ăn cái kia. Như vậy các bạn đã lìa hay từ bỏ tâm tham ăn.
Trong giới luật Phật có giới cấm không ăn phi thời. Không ăn phi thời là đức hạnh ly tâm tham của một vị tu sĩ. Thế mà giới này các tu sĩ Phật giáo ngày nay đều vi phạm ăn uống phi thời, các thầy còn tâm tham ăn chưa từ bỏ. Chưa từ bỏ tâm tham ăn mà muốn kiến tánh thành Phật, thì Phật đó là Phật còn tham ăn ư! Vậy mà muốn sau khi chết được trực vãng Tây Phương Cực Lạc. Chả lẽ cõi Cực Lạc đó lại dung chứa những tâm tham dục ăn uống phi thời ấy sao? Những pháp môn này tu hành mong cầu tha lực ảo tưởng như vậy thì không bao giờ có giải thoát thật sự, phải không các bạn?
Bài kinh Tập Một Pháp đã xác định rõ ràng như vậy, không còn có một giáo pháp nào lừa đảo chúng ta được nữa. Không lìa tâm tham mà muốn chứng quả A La Hán, muốn kiến tánh thành Phật và muốn trực vãng Tây Phương Cực Lạc, thì đó là giấc mộng, các bạn ạ!
Ðây là con đường từ bỏ tâm tham đưa đến làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi mà đức Phật đã thường nhắc nhở chúng ta: “Này Vàsettha, nay ở đời đức Như Lai xuất hiện là bậc A La Hán, Chánh kiến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn, đức Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với thượng trí, thế gian này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới gồm cả thế giới này với Sa Môn, Bà La Môn, Trời, Người lại tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh”. (Trường Bộ Kinh tập 1, trang 425 kinh Tevijja thuộc tạng kinh Việt Nam do Hòa Thượng Minh Châu dịch).
Khi được nghe đức Phật dạy đạo đức làm Người, làm Thánh sống không làm khổ mình, khổ người tức là dạy sơ thiện, trung thiện, hậu thiện. Nghe dạy đạo đức như vậy ai mà không muốn tu. Phải không các bạn?
Chỉ có từ bỏ được tâm tham là các bạn đã chấm dứt được sanh tử luân hồi, chứng quả vô lậu A La Hán, quá dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức. Vậy mà mọi người chịu ảnh hưởng của kinh sách tưởng giải rồi nghĩ rằng quả A La Hán tu rất khó khăn.
Vậy các bạn hãy nghe tiếp lời đức Phật: “Người gia trưởng hay con vị gia trưởng hay một người sinh ở giai cấp hạ tiện nàonghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp người ấy sinh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, vị ấy suy nghĩ: “Ðời sống gia đình đầy những phiền trược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình”. Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa!”.
“Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri túc”.
Ðoạn kinh trên đây là chỉ cho con đường Phạm hạnh mà những ai muốn làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi đều phải đi con đường này, không thể còn có một con đường nào khác hơn được nữa. Nếu có con đường nào hơn khác nữa thì đó không phải là con đường của đạo Phật mà đó là con đường lừa đảo của tà giáo ngoại đạo lường gạt người. Xin các bạn nên lưu ý.
Các bạn hãy đọc kỹ lại đoạn kinh trên, vì trước khi tuyên bố con đường này đức Phật đã xác định cho chúng ta biết: “Bất cứ một người nào muốn đưa ra một giáo lý chỉ dạy con đường tu tập giải thoát sinh tử luân hồi thì phải là người chứng đạt được 10 danh hiệu như đoạn kinh trên đã nói:
1- Bậc A La Hán
2- Bậc Chánh Biến Tri
3- Bậc Minh Hạnh Túc
4- Bậc Thiên Thệ
5- Bậc Thế Gian Giải
6- Bậc Vô Thượng Sĩ
7- Bậc Ðiều Ngự Trượng Phu
8- Bậc Thiên Nhân Sư
9- Bậc Phật
10- Bậc Thế Tôn
Người chứng đạt được 10 danh hiệu này mới dám đưa ra con đường duy nhất cứu cánh giải quyết mọi sự khổ đau của kiếp người.
Trong khi thực hành tu tập thì pháp hành rất thực tế, cụ thể qua những hành động sống đều được gắn liền trong đời sống bình thường hằng ngày, vì nó là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Cho nên, ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày mà tâm tham, sân, si đều đã được từ bỏ và đoạn diệt một cách tự nhiên. Bởi vậy, không còn có con đường nào khác hơn được nữa.
Xin các bạn lưu ý và đọc lại đoạn kinh trên để hiểu thấu suốt lời dạy của Phật, nó không phải là lời nói suông mà là một sự sống của những bậc Thánh A La Hán. Cho nên, các bạn đừng xem thường những lời dạy này. Ðó là những lời dạy tâm huyết của đức Phật gửi lại cho đời sau một thông điệp nói về sự sống giải thoát mọi sự khổ đau của kiếp người mà đức Phật đã chỉ rõ mục đích của nó là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Kính thưa các bạn! Con đường ấy là con đường Thánh thiện luôn luôn gắn liền với sự sống hằng ngày của mọi người rất chân thật, chứ không có mơ hồ, trừu tượng ảo giác chút nào, nó không giống như những con đường ảo tưởng của các tông phái các tôn giáo khác.
Ðây các bạn hãy lắng nghe đức Phật chỉ dạy con đường giải thoát rất thực tế và cụ thể. Sự giải thoát ấy chính nơi trạng thái tâm của các bạn mà không ai không nhận ra được:
“Này Vàsettha, Ngươi nói Tỳ kheo không có ái dục, Phạm thiên không có ái dục. Vậy giữa Tỳ kheo không có ái dục với Phạm thiên không có ái dục, có thể có một sự cộng hành, cộng trú không?
- Thưa Tôn giả Gotama, có thể được.
- Lành thay! Này Vàsettha Tỳ kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên. Thật có thể có sự kiện ấy”.
Ðọc đoạn kinh này ai cũng biết con người thường đau khổ là vì tâm ái dục. Nếu tâm dục ái hết thì con người giải thoát, không còn đau khổ nữa. Có phải vậy không các bạn? Ðó là một sự chân thật cụ thể không mơ hồ, trừu tượng mà không còn ai dám cho rằng đây là không đúng.
Muốn từ bỏ tâm dục ái thì chỉ có con đường duy nhất của đạo Phật như đoạn kinh trên đã dạy, ngoài con đường ấy ra, thì không còn có con đường nào khác nữa. Cho nên, Bà La Môn bảo rằng: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo. Mọi pháp môn đều dẫn đến nơi cứu cánh giải thoát”, đó là lời nói suông. Lời nói suông là lời nói không chỉ rõ mục đích giải thoát rõ ràng, cụ thể.
Page 15
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 2, TG. 2011, tr.226-230)link sách: NPTCB, tập 2
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong nhiều sách Thầy nói về chùa to, Phật lớn và có ví dụ như nước Campuchia có chùa Ðế Thiên Ðế Thích và tháp Anko. Về phần này có hai cách hiểu khác nhau: Thưa Thầy, Thầy dạy những bậc tu Phạm hạnh của đạo Phật là ba y một bát, nay đây mai đó. Chùa càng to, Phật càng lớn thì càng bận tâm. Có đúng như vậy không thưa Thầy?
Hiện nay về phương diện lịch sử, kinh tế, du lịch, mỹ quan, thì người ta cho đó là những kỳ quan cả thế giới công nhận. Tuy nhiên, khi làm ra nó thì vất vả tốn kém. Song, hiện nay người ta thu lợi rất lớn về du lịch, và người họ tự hào vì đã được Unesco công nhận là di tích lịch sử văn hoá hàng đầu của thế giới trong tám kỳ quan.
Vậy, Thầy có thể dạy trong sách việc xây chùa bằng hai cách:
- Một là đối với tu sĩ chuyên tu thì nên sống đơn giản.
- Hai là đối với tu sĩ đã tu xong thì có thể đến nơi đó để thuyết pháp, vì những người này chùa nào họ cũng không động tâm. Nhờ nơi đó, người dân dễ tập trung nghe pháp, nó sẽ làm tăng giá trị lịch sử của Phật giáo. Các thế hệ sau này cũng tự hào về tôn giáo của họ. Xin Thầy giảng cho con tường tận về vấn đề này, được không ạ?
Ðáp: Ai đọc kinh sách Phật giáo Nguyên Thuỷ đều phải công nhận giáo lý của đạo Phật là chân lý của loài người. Nói chân lý loài người là nói đến một sự thật, không hề có một chút xíu nào không đúng. Chính vì vậy, nó là đạo đức nhân bản -nhân quả, nên đức Phật đã xác định:
“Thiên thượng thiên hạ,Duy ngã độc tôn”.
Ðạo Phật chủ trương nhân bản, lấy con người làm trụ cột, biến cõi sống thế gian thành cảnh Cực Lạc, Thiên Ðàng, chứ không có hình thức mơ mộng, ảo tưởng Thiên Ðàng, Cực Lạc hoặc Thần, Thánh, Tiên Phật, Ngọc Hoàng, Thượng Ðế, Chúa Trời, v.v...
Do chủ trương nhân bản - nhân quả, nên Phật giáo lấy đức hạnh (Giới luật) làm chỗ nương tựa,làm thầy hướng dẫn, làm cuộc sống cho mình. Vì thế, xây chùa to, Phật lớn là sai. Gương hạnh đức Phật ngày xưa còn đó. Thành đạo dưới cội cây Bồ Ðề. Chết dưới cội Sa La song thọ. Thế mà ngày nay chùa to, Phật lớn khắp nơi, lại còn có những ngôi chùa, tháp được mọi người công nhận là kỳ quan đệ nhất thế giới, thì thử hỏi những việc làm này đi ngược lại tinh thần “xả phú cầu bần” của Phật giáo, thì còn gì là Phật giáo nữa. Phải không các bạn?
Vì lấy con người làm gốc, nên Phật giáo phải xây dựng con người. Xây dựng con người để trở thành những kỳ quan thế giới bằng chất liệu đức hạnh không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Theo chúng tôi thiết nghĩ, đó là một kỳ quan thế giới tuyệt vời. Xứng đáng để con người tự hào, hãnh diện về con người thì mới đúng nghĩa. Còn xây chùa to, Phật lớn, lấy chất liệu đất đá mô phỏng theo hình thức vạn vật vũ trụ thiên nhiên tạo ra, rồi tự hào bảo nhau đó là kỳ quan thế giới. Thực tế trên hành tinh này, vũ trụ đã xây dựng biết bao nhiêu kỳ quan đẹp đẽ gấp trăm ngàn lần những kỳ quan của loài người, như Vịnh Hạ Long, động Phong Nha, v.v... So với những cảnh này, con người có làm được như vậy không?
Những kỳ quan thế giới hiện giờ chỉ là những sự mô phỏng bắt chước thiên nhiên vũ trụ, vẻ hùng vĩ đẹp đẽ của nó còn thua xa vũ trụ gấp trăm ngàn lần như trên đã nói, thì có gì mà chúng ta tự hào?
Những vật chất này đều vô thường, không bền chắc, không giữ gìn được lâu dài, chỉ một trận động đất thì những kỳ quan này còn bảo tồn được nữa không?
Một kỳ quan của loài người, lấy chất liệu đạo đức xây dựng thì động đất không làm hư hoại, lũ lụt không trôi, bão tố không làm sụp đổ, hỏa hoạn không thiêu đốt được, đi khắp bốn phương, ngược gió cũng không trở ngại. Phật giáo chủ trương như vậy, vì lấy con người làm gốc, nên người nào đi ngược lại, xây dựng chùa to, Phật lớn thì không phải Phật giáo, mà là Thần đạo, là đạo mê tín, là đạo lường gạt con người.
Tôn giáo có thế giới siêu hình là tôn giáo phi khoa học, phi nhân bản, vô đạo đức nhân bản -nhân quả,v.v... Phần đông những tôn giáo này đều có chùa to, Phật lớn.
Ðệ tử của đức Phật ngày xưa được sự chỉ đạo của Ngài, nên không cất chùa to, Phật lớn, chỉ am tranh vách lá cúng dường Phật và chư Tăng để tránh mưa, ẩn nắng tu hành, chứ không có thờ phượng như ngày nay. Những nơi ở ấy được gọi là “Tịnh Xá”. Tịnh xá có nghĩa là ngôi nhà ở thanh tịnh. Trong kinh sách Nguyên Thuỷ thường nhắc những tịnh xá như: Tịnh xá Kỳ Hoàn, tịnh xá Trúc Lâm, v.v...
Hòa thượng Huệ Quang, Hòa thượng Khánh Anh đã tổ chức những chuyến hành hương về thăm xứ Phật. Trước mắt các Ngài, tịnh xá Kỳ Hoàn và tịnh xá Trúc Lâm chỉ còn là một khu rừng hoang vu, không tìm ra một cục đá, một viên gạch, chứng tỏ ngày xưa đức Phật và chúng Thánh Tăng sống dưới bóng cây, dưới túp lều tranh lá, hay trong hang, hốc... Những nơi Thánh địa ấy chứng tỏ Phạm hạnh của tu sĩ thời bấy giờ rất cao.
Tất cả các tôn giáo trên hành tinh này đều nhắm vào sự xây dựng cơ sở đồ sộ, vĩ đại, để lại dấu tích như Toà thánh La Mã (Thiên Chúa), chùa Ðế Thiên Ðế Thích, đền Ankor (Phật giáo Nam tông), toà thánh Tây Ninh (Cao Ðài Giáo), v.v...
Còn cơ sở Phật giáo Nguyên Thủy chỉ còn là một khu rừng hoang vu. Chính khu rừng hoang vu ấy mới nói lên ý nghĩa đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Ðó là tòa thánh của Phật giáo, là một kỳ quan thế giới đẹp nhất của mọi người.
Mục đích Phật giáo là giải thoát mọi sự đau khổ, vì thế phải dứt bỏ sanh y, tức là xả bỏ sạch, chỉ còn ba y một bát, sống không nhà cửa, không gia đình. Ðó là giới hạnh của một người tu sĩ, thế mà có chùa to, Phật lớn thì giới hạnh của tu sĩ còn gì? Như vậy, tu sĩ nào sống trong chùa to Phật lớn là tu sĩ phạm giới. Tu sĩ phạm giới là Ma Ba Tuần trong Phật giáo, là trùng trong lông sư tử đang diệt Phật giáo. Xin các bạn lưu ý.
Còn bảo rằng tu sĩ đã tu xong, ở trong chùa to Phật lớn, đâu sợ gì dính mắc; vả lại, dùng cơ sở đó làm nơi giảng đạo thì mọi người tập trung về nghe pháp rất tiện lợi.
Thuyết giáo đâu bằng thân giáo, người sống phạm giới, phá giới mà thuyết giảng cho mọi người nghe cũng giống như đào kép hát múa, diễn tuồng trên sân khấu. Chùa to Phật lớn là sân khấu cho những giảng sư tu hành chưa tới đâu, còn người tu chứng đạo, vì ích lợi mọi người, nên giữ đúng Phạm hạnh “xả phú cầu bần”, lấy thân giáo dạy người, làm gương sáng đạo đức cho mọi người soi, nên từ giã những nơi cung vàng điện ngọc, chùa to Phật lớn.
Page 16
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 5, TG. 2011, tr. 60-63)link sách: NPTCB, tập 5
LỜI PHẬT DẠY
“Này Vaccha, những ai nói như sau: “Sa Môn Gotama là bậc nhất thiết trí, là bậc nhất thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: “Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngồi và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, lên tục”. Thì đây là nói về Ta không đúng với điều đã nói, họ đã vu khống Ta với điều không thực hư ngụy” (kinh Trung Bộ tập II trang 309 kinh Ba Minh Vacchagota)
CHÚ GIẢI:
Đọc đoạn kinh này chúng ta thấy đức Phật đã xác định rất rõ ràng, Ngài phủ nhận kinh sách Đại Thừa nói những điều không đúng sự thật, nói trong ảo tưởng. Kinh sách Đại Thừa đều cho Phật là bậc nhất thiết trí, là bậc nhất thiết kiến và nhất là tánh biết, tánh thấy, tánh nghe thường hằng bất biến (tri kiến luôn tồn tại). Ở đây đức Phật cho rằng người nào nói Phật như vậy là nói không đúng, là vu khống Phật với điều không thực, hư ngụy. Đối với đạo Phật mà nói Phật tánh, tánh thấy, tánh nghe, tánh biết là nói những điều không thực, hư ngụy, là nói không đúng chân lí, là nói chuyện trong mơ mộng không cụ thể, rõ ràng. Cho nên hiện giờ mọi người vô minh bị lừa đảo bằng những danh từ rất kêu, Chân Không, Tánh không, Bản Lai Diện Mục Hiện Tiền, Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm, Trí Tuệ Bát Nhã Ba La Mật, Phật tánh, Tánh Thấy, Tánh Biết, Tánh Nghe, vv…
Đọc đoạn kinh Vacchagotta này chúng ta xác định kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã, kinh Lăng Già Tâm Ấn, kinh Pháp Hoa v.v… Toàn là những loại kinh tưởng của các Tổ biên soạn viết ra, chứ không phải Phật thuyết. Những kinh sách này chịu ảnh hưởng tư tưởng của giáo pháp Vệ Đà kinh. Kinh này do tưởng giải của các tổ sư Bà La Môn biên soạn viết. Vì thế mà kinh Nguyên Thuỷ vạch ra những cái sai để chỉ cho chúng ta biết rõ sự lừa đảo của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Làm gì trong mỗi chúng sanh lại có Phật tánh. Chúng sanh được sanh ra là do các duyên hợp thành theo qui luật của nhân quả nghiệp lực thiện ác. Cho nên đủ duyên hợp là có, mà hết duyên thì tan rã không còn có một vật gì thì làm sao có Phật tánh trong đó được. Vì vô minh mọi người sống trong ảo tưởng, sống trong ác pháp thọ nhiều đau khổ quá sợ hãi, nên nuôi hy vọng sống trong tưởng và tưởng rằng: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.” Muốn cho mọi người tin theo nên dựng ra Tánh thấy, Tánh nghe, Tánh biết.
Danh từ Phật tánh đã khiến cho bao nhiêu thế hệ về sau đều sống trong ảo tưởng, ai cũng cho mình có Phật tánh. Nhưng có ai biết chúng sanh được sinh ra từ nhân quả, do các duyên hợp lại như trên đã nói thì làm sao có Phật tánh được. Phải không các bạn? Được sinh ra từ nhân quả là do vô minh. Vô minh làm sao gọi là tánh giác được? Thật ra các Tổ sư Đại Thừa tu tập sai pháp, ức chế tâm, không niệm khởi rơi vào các định tưởng, mười tám loại tưởng xuất hiện, trong đó có pháp tưởng. Từ đó mà tưởng ra Phật tánh còn cho Phật tánh là tánh giác.
Cho nên biên soạn ra kinh sách như: Kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, Kinh Kim Cang Bát Nhã, Kinh Lăng Già v.v... Trong những kinh ấy dựng lên Phật tánh rồi gán cho Phật thuyết. Đoạn kinh Ba Minh Vacchagota này đã xác định sự mạo nhận Phật thuyết kinh Thủ Lăng Nghiêm, để lừa đảo Phật tử.
Cho nên Phật dạy: Đừng có tin! Đừng có tin!!! Vậy mà mọi người vẫn cứ tin, tin một cách mù quáng, thật là sai lầm. Phật thường nhắc nhở chúng ta hãy tin những gì là có lợi ích cho mình, cho người, và không làm khổ mình, khổ người thì mới tin.
Đức phật cũng thường nhắc nhở pháp môn nào có Bát Chánh Đạo mới là pháp môn chân chánh. Vậy Phật tánh, tánh thấy tánh nghe, tánh biết làm sao là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người được?.
Kính thưa các bạn! Từ bao thế kỷ nay các Tổ đã lừa đảo với người tu chưa chứng đạo, chứ người tu chứng thì làm sao lừa đảo họ được. Bởi vì người tu chứng là người đã có Tứ Thần Túc và đầy đủ Tam Minh, cho nên thời gian nào họ cũng đều thông suốt, chuyện gì xảy ra trong tương lai và quá khứ không còn che dấu họ được, cho nên Phật dạy: “Ông phải giải thích: “Sa Môn Gotama là bậc có ba minh” thì này Vaccha, Ông mới là người nói về Thế Tôn với điều chân thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tuỳ pháp, và mới không có một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách. Này Vaccha, khi nào Ta muốn, Ta sẽ nhớ đến nhiều đời quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Vaccha, nếu Ta muốn, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân Ta thấy sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh… đều do hạnh nghiệp của họ. Này Vaccha, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, Ta ngay trong hiện tại, tự mình với thượng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Và với sự giải thích: “Sa môn Gotama là bậc có ba minh: Này Vaccha, người ấy mới là người nói về Thế Tôn đúng với điều đã được nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới không có một vị đồng hành pháp nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách.” (kinh Trung Bộ tập II trang 310 kinh Ba Minh Vaccha).
Đoạn kinh trên đây đã xác định rõ ràng: Nói đúng Phật là phải giải thích Tam Minh mới gọi Phật có Tam minh (Sa Môn Gotama là bậc có Tam Minh), chứ không được nói Phật là tánh thấy, tánh biết, tánh nghe, hay là Phật tánh, tánh giác bậc nhất thiết trí, bậc nhất thiết kiến và tri kiến luôn luôn tồn tại liên tục.
Kính thưa các bạn! Bấy giờ các bạn đã hiểu Phật giáo cái gì đúng và cái gì sai, cái gì của Phật, cái gì không phải của Phật. Tùy các bạn chọn lấy cho mình một lối đi cho thích hợp, còn riêng chúng tôi khi nói Đại Thừa sai là chúng tôi đều có căn cứ vào lời Phật dạy, chứ không phải tự bịa ra nói Đại Thừa sai, xin các bạn hiểu cho. Bởi vì trong kinh đã xác định rõ ràng: “Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngồi và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục”. Thì đây là nói về Ta không đúng với điều đã nói, họ đã vu khống Ta với điều không thực, hư ngụy”. (kinh Trung Bộ tập II trang 309 kinh Ba Minh Vacchagotta). Tóm lại đoạn kinh này không đủ để chứng minh kinh sách Đại Thừa sai sao? Từ đây về sau kinh sách Đại Thừa không còn giá trị như xưa kia nữa. Khi những bài kinh Nguyên Thủy này làm sáng tỏ thì kinh sách Đại thừa và Thiền Tông mất giá trị không còn ai tin nó là kinh sách của Phật nữa.
Page 17
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 4, TG.2011, tr.04-28)link sách: ĐVXP, tập 4
“Người đi tu mà không học là tu mù, người có học mà không tu như cái tủ đựng kinh sách”. Người tu có học hiểu mà không thưa hỏi kinh nghiệm của thiện hữu tri thức, tự kiến giải, tự tu thì cũng giống như người đi lạc trong rừng sâu chẳng biết đường ra. Cho nên sự tu hành theo Phật giáo không thưa hỏi, không nghiên cứu thông suốt giáo pháp tu tập thì trăm ngàn người đều tu sai, tu không tới nơi tới chốn, tu vô ích.
Tự kiến giải tu, đó là một điều sai. Tu tập chưa tới đâu, vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành, thì cũng giống như người mù, dắt một đoàn người mù đi. Tất cả đều có thể sa hầm lọt hố và chết chùm nhau cả đám trong rừng sâu, trong biển cả, trong sa mạc, v.v…
Tất cả những người tu theo đạo Phật hiện nay đều đang đi trên lộ trình này, đang lạc vào mê hồn trận của kiến giải, tưởng giải của các Tổ, của kinh sách các Tổ biên soạn viết ra.
Ngôn ngữ danh từ không đủ để diễn tả chính xác những trạng thái kinh nghiệm tu hành. Một khi, muốn hành động tu tập thân tâm một điều gì, thì cần phải thưa hỏi rất kỹ với một thiện hữu tri thức, một người tu hành đã chứng đạt chân lí. Ðừng vội vàng nghe những lí thuyết suông của người tu hành chưa chứng đạt chân lí. Ðó là sự kiến giải, tưởng giải của họ. Và các bạn cũng đừng tự suy nghĩ cho rằng mình đã hiểu, rồi cứ theo sự hiểu biết đó mà tu tập, thì chẳng bao giờ tu tập có kết quả, chỉ dậm chân tại chỗ hoặc thành bệnh mà thôi.
Sự tu tập như vậy chẳng tu tập đến đâu, mà còn dẫn đến chỗ tu sai lạc, nhất là sai lệch vào chổ thiền ức chế tâm, rất là nguy hiểm có thể bị điên khùng, tẩu hỏa nhập ma, thường tu hành không tiến bộ, tu mãi chẳng đi đến đâu, còn lại thêm bệnh tật khổ đau, chỉ uổng phí một đời tu, chẳng lợi gì cho mình cho người, còn hoài công vô ích.
Trong phần vấn đạo vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho người, khiến cho mọi người thông suốt đường lối và phương pháp cách thức tu tập, không còn nghi ngờ đường lối và giáo pháp tu hành của Phật giáo là sai lạc nữa, khiến cho mọi người tin chắc tu tập sẽ thành công, đến nơi đến chốn.
Bắt đầu tu tập từng bước một, không vội vàng, không nôn nóng. Mỗi bước tu tập là mỗi bước đi vững vàng, mỗi kết quả cụ thể. Tu tập như vậy, càng ngày càng thấy tiến bộ xả tâm rõ rệt, nhờ thế tu tập có kết quả như vậy, nên khiến mình thông suốt, đâu là Chánh pháp của Phật và đâu là tà pháp của ngoại đạo. Và cũng biết rất rõ tà giáo ngoại đạo đang xen lẫn trong giáo pháp của đạo Phật. Biết rõ như vậy, nên khiến cho mình vững vàng niềm tin ở Chánh pháp môn của mình đang tu tập. Ðó chính là pháp môn của đạo Phật, chứ không còn sợ sai lạc vào tà pháp của ngoại đạo như trước kia nữa.
Từ lâu ai cũng đang sống trong sự vô minh, đen tối, mờ mịt, chẳng thấy rõ pháp môn nào của đạo Phật và pháp nào của ngoại đạo. Chúng ta nhận lầm pháp môn của ngoại đạo Ðại Thừa là pháp môn của Phật. Ðó là điều chắc chắn, cho nên không còn ai dám khẳng định giáo pháp Ðại Thừa không phải là giáo pháp chân chánh của Phật giáo.
Nhờ có vấn đạo ta mới thoát khỏi màn mây đen tối của các pháp tà sư ngoại đạo đang phủ mờ giáo pháp của Phật giáo từ bao thế kỷ nay.
Nhờ có vấn đạo ta mới hiểu rõ, thế giới siêu hình và hữu hình đều là thế giới tưởng (thế giới không có thật). Nhờ có vấn đạo ta mới rõ thế giới hữu hình và siêu hình là thế giới tưởng của con người, nên mạnh tay đập phá cái thế giới siêu hình mê tín đó, đã gây biết bao nhiêu sự rắc rối, tạo biết bao nhiêu sự hao tốn tiền của và đau khổ của loài người, cũng vì cái thế giới đó, khiến cho con người đánh mất đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.
Từ thế giới siêu hình đó, con người đã mất đi sức tự lực, chỉ còn lại một tinh thần yếu đuối tha lực, luôn luôn biết dựa nương và cầu cạnh vào những hình ảnh trừu tượng, mờ ảo của những vị thần linh, của những vị Bồ Tát tưởng tượng thuộc tưởng tri do sự hoạt động của tưởng uẩn. Bởi vậy, chúng ta cần phải cảnh giác đừng để những mánh khóe lừa đảo của các nhà học giả giàu tưởng tượng.
Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ các pháp thế gian là do duyên hợp, nên ta dễ dàng buông xả thế giới hữu hình vật chất.
Nhờ có vấn đạo ta đã biết rõ thế giới chúng ta đang sống, cũng chỉ là một thế giới tưởng của con người. Nhưng chúng ta đang bị trí tuệ u tối, vô minh che khuất từ biết bao nhiêu đời kiếp, khiến cho con người lầm chấp cho thế giới chúng ta đang sống là thật có. Do cho thế giới chúng ta đang sống là thật có nên dính mắc các pháp, chạy theo các pháp, tạo biết bao điều ác độc đau khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh, cũng vì thế mà con người chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác mãi mãi không bao giờ dứt. Nhờ có vấn đạo, ta mới biết cách tu tập xả ly, đoạn diệt thế giới hữu hình và thế giới siêu hình. Chính nhờ ly dục, ly ác pháp của ý thức và của tưởng thức mà thân tâm chúng ta mới được thanh thản, an lạc và vô sự.
Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ thiền định nào đúng hoặc sai của đạo Phật, không bị giáo pháp Bà La Môn lừa đảo.
Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ đạo Phật có bốn loại định:
1/ Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác.
2/ Ðịnh Vô Lậu.
3/ Ðịnh Niệm Hơi Thở.
4/ Ðịnh Sáng Suốt.
Khởi đầu tu bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp, tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
Nhờ có vấn đạo ta không rơi vào thiền ức chế tâm và tu tập đúng thiền xả li tâm, nên thân tâm chúng ta thường thanh thản, an lạc và vô sự như đất trời bao la giải thoát.
Nhờ có vấn đạo ta mới thông suốt “Tam Vô Lậu Học”. Ðó chính là pháp môn của đạo Phật. Nhờ biết chính pháp môn của Phật nên không bị tà sư ngoại đạo nào lừa đảo, lường gạt chúng ta được.
Cho nên vấn đạo là một điều hết sức cần thiết cho những người mới tu, cũng như người tu lâu năm. Người mới tu cần phải thưa hỏi kỹ để tu tập đúng cách, đúng pháp, nhờ đó tu hành mới có căn bản. Còn người đã tu lâu năm thì gặp nhiều trạng thái kỳ lạ, nhất khi là tu thiền tưởng thì những trạng thái ấy xuất hiện rất nhiều, có khi đúng, cũng có khi sai. Nếu không thưa hỏi kỹ thì rất có nhiều tai hại và còn nguy hiểm đến tánh mạng là khác nữa. Nên vấn đạo có nhiều điều lợi ích rất lớn cho người mới tu, cũng như người tu lâu năm.
Trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, người ta bảo rằng Phật giáo có 84 ngàn pháp môn. Nếu không vấn đạo rõ ràng, chúng ta sẽ bị kinh sách phát triển lừa đảo bằng 84 ngàn pháp môn và bằng câu kinh này:“Pháp pháp đều vô ngại và dung thông”. Theo như kinh sách thì pháp nào cũng của đạo Phật, người có duyên với pháp môn nào tu đều cũng tốt, cũng được giải thoát, cũng được giác ngộ tùy theo căncơ của mỗi người có thấp, có cao nên pháp môn tu hành nào cũng vậy. Ðó là lối lý luận sai không đúng của Phật giáo. Ðức Phật dạy: “Ngoài Bát Chánh Ðạo thì không có pháp môn nào của đạo Phật cả”. Cho nên hiện giờ, tất cả mọi người ai cũng tin lời nói Phật giáocó 84 pháp môn này, nhưng không ngờ đã bị lừa đảo, bỏ hết sự nghiệp, gia đình, vợ con, cha mẹ và cả cuộc đời mình, cuối cùng tu chẳng thấy gì là giải thoát, chẳng thấy gì là làm chủ sanh tử luân hồi, chẳng thấy gì đoạn diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình.
Bởi vậy, kẻ nào cho rằng tất cả các pháp môn đều tu cũng tốt, cũng thiện, cũng được giải thoát, cũng chấm dứt đau khổ và luân hồi, thì đó là kẻ nông nổi, u mê, không biết tai hại về sau như thế nào. Không trí tuệ, thiếu nhận xét, nhắm mắt tin càng, tin bừa, để rồi phải ân hận về sau. Nếu các pháp tu đều tốt, đều thiện, đều tu tập có kết quả giải thoát như nhau, thì đạo Phật ra đời để làm gì? Có phải dư thừa không quý Phật tử?
Chúng ta nên tìm hiểu, tại sao đức Phật tu các pháp môn của ngoại đạo, nhập đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, đức Phật nghiệm xét lại thấy thân tâm mình không giải thoát, để rồi tự mình phải tìm ra một giáo pháp, một đường lối, một đạo lộ tu tập đi đến giải thoát cứu kính làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác, thời bấy giờ không có pháp môn này. Một giáo pháp chỉ có 49 ngày tu tập, nhiệt tâm, quyết chí xả ly, lìa tâm ham muốn, từ bỏ ác pháp, Ngài đã thành tựu đạo giải thoát, chứng quả Bồ đề. Sáu năm trời khổ hạnh, Ngài tu tập mọi loại pháp môn ức chế tâm, nhất là pháp môn hơi thở Ngài nín thở ức chế tâm tối đa, tưởng chừng như Ngài sắp chết. Ngài tìm thấy pháp môn nín thở này không giải thoát, nên Ngài chuyển qua pháp môn ức chế thân khổ hạnh tối đa, ngày ăn bảy hạt mè hoặc một ít cháo đậu. Vì tiết thực nên cơ thể kiệt quệ, Ngài đi hết nổi. Nhờ bát sữa dê, phục hồi cơ thể, Ngài tỉnh táo và tư duy, biết các pháp ức chế thân tâm không thể tu tập đi đến giải thoát được, Ngài từ bỏ và viễn ly các pháp đó.
Qua sự tu tập của đức Phật, chúng ta rút tỉa ra được những kinh nghiệm thực tế và cụ thể. Các giáo pháp phát triển cùng tất cả các pháp môn của các tôn giáo trên thế gian này, đi đến kết luận không thể làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi của kiếp người. Giáo pháp Ngài tìm ra được, là một giáo pháp không giống bất cứ một giáo pháp nào của Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác trên hành tinh này.
Vì thế, đạo Phật ra đời, không nhai lại bã mía của các tôn giáo khác. Pháp môn của Ngài đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả. Lấy tâm nương hành động của thân nội và ngoại tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng, ức chế tâm mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định của đạo Phật.
Từ đó suy ra, ta biết pháp môn của đạo Phật, không giống một pháp môn nào của ngoại đạo. Vì thế, kẻ nào cho rằng 84 ngàn pháp môn là của Phật giáo, kẻ đó quá si mê, u tối, bị tà giáo ngoại đạo lừa đảo mà không biết.
Bởi vậy, vấn đạo là một điều quan trọng hết sức trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, khi giáo pháp của đạo Phật đã bị pha trộn nhiều thứ giáo pháp ngoại lai.
Vấn đạo khiến chúng ta hiểu rõ, phần đông giáo pháp ngoại đạo phi đạo đức, dạy người cầu tha lực, thường mang đến tai họa khổ đau cho người hơn là mang đến hạnh phúc. Vì hướng dẫn con người đi vào cảnh giới siêu hình mang đầy tính chất mê tín, dị đoan, thần thánh hoá, lạc hậu, v.v... Cho nên, trong vấn đề tu tập theo đạo Phật, vấn đạo là điều cần thiết, để hiểu biết các pháp môn, pháp nào đúng, pháp nào sai, pháp nào tu tập có kết quả, cụ thể và thực tế.
Qua cuộc vấn đạo trong bộ sách “Ðường Về Xứ Phật”, quý vị đã được đọc, đừng vội vàng tin những lời nói trong đây, mà hãy suy nghĩ kỹ, nếu sách chỉ vạch chỗ phi đạo đức xét thấy là thật sự phi đạo đức, chỗ lý luận sai mà thật sai, chỗ tu tập giải thoát mà có giải thoát thật sự, chỗ mê tín lạc hậu, đúng là chỗ mê tín lạc hậu thật sự như vậy thì quý vị hãy tin, còn ngược lại thì quý vị đừng nên tin, vì chúng tôi cũng chỉ là một người như quý vị.
Qua một cuộc vấn đạo, chúng tôi trả lời chỉ muốn làm sáng tỏ lại đạo Phật mà thôi. Bởi vì, chúng tôi không muốn đạo Phật mất đi trên thế gian này, nhất là đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật. Một đạo đức sống “không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai”. Nếu đạo Phật mất đi thì loài người trên hành tinh này, chịu thiệt thòi một điều rất lớn, một tai họa không thể lường được, một bằng chứng hiển nhiên trên hành tinh này không lúc nào mà chiến tranh chấm dứt. Con người giết con người không gớm tay và không thương xót, đó chỉ vì, đạo Phật có mặt, nhưng đạo đức của đạo Phật đã mất từ lâu. Con người thiếu đạo đức làm người, một đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người.
Vì thế, trong khi khoa học lại tiến triển phát minh, những vật chất phục vụ đời sống con người rất tiện nghi. Vì vật chất tiện nghi này mà tâm dục con người tăng trưởng, biến dần con người trở thành ác thú hung dữ. Từ đó con người tự sát mà không biết, tự làm khổ mà không hay, tự chuốc họa vào thân mà không ngờ, nếu không có một đạo đức quân bình với khoa học thì quả địa cầu này, một ngày nào đó sẽ bị hủy diệt, bởi tâm tham đắm của con người.
Người muốn tu theo đạo Phật cho đúng Chánh pháp của đức Phật, thì phải chịu khó nghiên cứu cho kỹ các pháp môn, vì kinh sách hiện giờ, toàn là của các nhà học giả biên soạn, đụng đâu viết đó theo sở thích của mình, không có kinh nghiệm tu hành, viết mà chẳng thấy trách nhiệm của mình, chỉ biết nêu tên tuổi (cầu danh). Họ đâu hiểu rằng soạn viết ra kinh sách như vậy là để lại một tai hại cho bao nhiêu thế hệ con người sau này, như kinh sách phát triển hiện giờ.
Muốn soạn viết kinh sách có lợi ích cho người đời sau, thì phải có thực hành tu tập đến nơi đến chốn, đời sống phải có một đạo hạnh hẳn hoi, phải nhập được các định, làm chủ được sự sống chết, phải có Tam Minh, đoạn dứt các lậu hoặc, chấm dứt luân hồi sinh tử, thì soạn viết kinh sách mới có ích lợi thiết thực cho người đời sau, bằng ngược lại là giết người, không những giết một đời người, mà giết nhiều thế hệ con người. Xin quý Phật tử lưu ý những loại kinh sách đang được phổ biến hiện hành. Còn ngược lại, tu hành chưa đến đâu, đời sống đạo hạnh chưa ra gì, đức hạnh không có, giới luật vi phạm, thiền định chỉ có hình thức ngồi thiền, sống với những cấp bằng và những kiến giải suông, dựa vào sở tri và nhai lại bã mía của người xưa viết soạn kinh sách, thì loại kinh sách đó, là kinh sách giết người, giết cả bao thế hệ về tương lai.
Phần vấn đạo là phần rất quan trọng, nên chúng tôi muốn trả lời cho một câu hỏi nào, đều phải đứng trên lập trường đạo đức của đạo Phật mà trả lời. Những câu trả lời của chúng tôi, đều góp ý xây dựng lại nền đạo đức của Phật giáo đã bị tà sư ngoại đạo đã biến đạo đức của Phật giáo thành một thứ đạo đức mê tín (nhân quả ba đời). Thiền định của đạo Phật đã biến thành thiền định ức chế tâm, để nhập vào các định tưởng, triển khai tưởng tuệ, biến thành một loại thiền miệng (khẩu đầu thiền). Còn loại thiền làm chủ sự sanh, già, bệnh, chết như Tứ Niệm Xứ; làm chủ sống chết và chấm dứt luân hồi như Bốn Thánh Ðịnh thì được xem là thiền Tiểu Thừa, là thiền phàm phu, là thiền ngoại đạo. Thật là đau lòng phải không quý Phật tử?
Cuối cùng, chúng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh, giới đức, đạo hạnh, vì con người trên hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì đạo Phật, hãy vui lòng chỉ dạy cho chúng tôi, những điều còn sai sót và cùng chung với chúng tôi xây dựng lại một nền đạo đức cho con người, để không còn ai tự làm khổ mình, làm khổ người thường mang đến cho mọi cá nhân con người một nguồn sống thanh thản, an lạc, vô sự và yên vui; một gia đình hòa hợp, hạnh phúc; một xã hội có trật tự an ninh; một đất nước phồn vinh thịnh vượng; một thế giới hòa bình, an lạc. Và thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo đang bị những trận cuồng phong tà giáo thổi tới tấp, sắp bị tàn rụi.
Kính thưa các bậc Tôn túc! Quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức, Tăng Ni cùng quý vị nam nữ Phật tử bốn phương!
Phật giáo phát triển đã hoằng truyền một thời gian quá dài gần 2500 năm không đủ để chúng ta xác định giáo pháp phát triển là một giáo pháp phi đạo đức, phi chân lí; một giáo pháp đầy mê tín, dị đoan, ảo tưởng; một giáo pháp lừa đảo mọi người tu hành chẳng có kết quả giải thoát, chỉ tu danh, tu lợi, tu cấp bằng, tu chùa to, Phật lớn, tu trong dục lạc thế gian sao? Vậy, kính xin quý vị Tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức, Tăng Ni và nam nữ Phật tử bốn phương đại diện Giáo Hội Phật Giáo xem xét quán triệt đình chỉ ngay những kinh sách phát triển là giáo pháp không phải Phật thuyết, để triển khai kinh sách Nguyên Thủy xây dựng chương trình giáo dục đào tạo tám lớp (Bát Chánh Ðạo) để giảng dạy đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người cho mọi người.
Kính ghi,
Trưởng Lão Thích Thông Lạc,Ngày 5-11-1998
Page 18
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 1, TG. 2011, tr. 147-158)link sách: NPTCB, tập 1
Hỏi: Kính thưa Thầy, người con báo hiếu đưa xác hay hài cốt người thân về chùa có lợi ích gì? Quý Thầy trong chùa nhận hài cốt và an táng trong đất chùa có lợi ích gì? Chúng con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Ðáp: Theo phong tục mê tín của dân tộc Việt Nam xuất phát từ trong các chùa, cho rằng người chết được chôn trong đất chùa, hoặc gửi nắm tro tàn trong tháp hài cốt, hằng ngày linh hồn sẽ được nghe kinh, nhờ đó được siêu thoát lên cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng... Do lòng thương yêu và sự hiếu hạnh, khiến cho người ta không còn sáng suốt, nên nghe quý thầy, quý cô trong chùa bảo sao làm vậy, chứ không có tư duy, suy nghĩ chín chắn. Vì thế, sự tin tưởng thiếu thực tế, mơ hồ, không trí tuệ của một số phật tử đã làm giàu cho các chùa, và biến các chùa trở thành nhà mồ, trở thành một nơi sinh hoạt mê tín, chứ không còn là nơi tu hành của tăng, ni và nam, nữ cư sĩ.
Ở thành phố đất hẹp người đông, vì thế chùa muốn kinh doanh làm tiền phật tử bằng sự lừa đảo mê tín như chúng tôi đã nói ở trên. Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt. Khi có thân nhân chết, người ta đem thiêu xác gửi vào chùa, và khi gửi nắm tro tàn như vậy thì phải tốn bao nhiêu tiền đóng vào, và còn phải cúng dường tiền cho chùa rất nhiều hằng năm. Nếu thân nhân không cúng dường tiền thì hũ hài cốt ấy sẽ bị dẹp vào chỗ khuất lấp, còn ai cúng dường tiền nhiều thì hũ hài cốt sẽ được để trên chỗ sang trọng trong tháp.
Trong chùa, các thầy thường bảo nhau: “Tháp hài cốt là núi tiền, là những mẩu ruộng mầu mỡ xài hoài không hết!”. Ðúng vậy, nhà chùa hiện giờ lấy hài cốt của thân nhân phật tử làm con tin, để làm tiền một cách phi nhân nghĩa, phi đạo đức.
Ví dụ: Nhà chùa muốn làm một việc gì thì nhắm vào những phật tử có gửi hài cốt hoặc chôn thân nhân trong đất chùa, họ kêu gọi đóng góp làm từ thiện, hoặc xây cất chùa và bất cứ một việc gì trong chùa.
Nghe kinh được siêu thoát về Cực Lạc, Thiên Ðàng đâu không thấy, mà chỉ thấy những người còn sống phải gánh một gánh nặng của tôn giáo mê tín. Cho nên chùa nào có đất rộng làm nghĩa địa, hoặc xây tháp hài cốt là chùa đó giàu to, giàu mà không phí sức lao động chút nào cả. Như các con đã thấy, tệ nạn lừa đảo phật tử hiện giờ trong các chùa rất lộ liễu.
Bây giờ, Thầy sẽ hỏi quý phật tử, quý vị cứ vui lòng nói thẳng, có sao nói vậy, đừng tự dối mình: Hiện giờ, quý phật tử thường đến chùa không những nghe thuyết pháp mà còn ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, lạy hồng danh sám hối, v.v... thế mà quý vị có thấy ai đã được lên Thiên Ðàng, Cực Lạc chưa? Có thấy hết khổ chưa? Có thấy sự giải thoát chưa? Quý vị cứ thành thật trả lời xem.
Trong lúc quý vị còn sống mà còn chưa biết được Cực Lạc, Thiên Ðàng ở đâu? Có hay không có? Huống là người chết, họ còn nghe thấy được những gì. Nếu quả chăng nghe kinh mà được sanh về Cực Lạc, Thiên Ðàng, thì người ta tu làm gì cho cực khổ phải không quý vị? Ðó là những mánh khóe lừa đảo của kinh sách Ðại thừa, chúng ta nên cảnh giác.
Với tinh thần tình cảm đạo nghĩa của cuộc sống dân tộc Việt Nam: “Sống cái nhà, thác cái mồ”, người sống dù nghèo hay giàu đều phải có một ngôi nhà, dù là nhà tranh vách lá, chòi, lều... cho đến nhà lầu, vila, biệt thự... cũng vẫn là một cái nhà mà thôi. Vì đạo nghĩa làm người, nên khi chết còn lại nắm xương hoặc nắm tro tàn, người ta xây một ngôi mộ nho nhỏ đủ để vùi lấp nắm xương và nắm tro trong lòng đất mẹ quê hương, để đánh dấu ghi khắc một kỷ niệm thăng trầm của một đời người. Nơi đây là để ghi nhớ lại cho con cháu, cho người sau một ân nghĩa khó quên.
Chứ người chết còn gì nữa, chết là mất đi một kiếp người. Nơi đây là nơi để cho con cháu tập hợp, nhắc lại những thành tích của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Nơi đây là nơi để cho con cháu đừng quên nắm xương tàn của những người thân thương.
Mỗi năm chỉ có một lần về thăm mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ, là chúng tôi cảm thấy có một điều gì thương nhớ bùi ngùi trong tâm hồn của chúng tôi. Bởi vậy, đối với người Việt Nam có một tình nghĩa sâu sắc khó quên, những nấm mồ của tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn đó là tình cảm con người không bao giờ phai nhòa.
Có những dân tộc khi chết đi, họ đem thiêu đốt và lấy tro đem đổ xuống biển, bảo rằng đem tro đổ xuống biển cho mát mẻ. Thế khi thiêu xác sao không bảo rằng nóng? Việc an táng này có lợi nhưng cũng có hại. Lợi là con cháu khỏi quét mả (tảo mộ), hại là lòng người ân nghĩa dễ quên, con cháu sau này không còn chỗ để nhớ tưởng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, vì đã ném tro xuống biển làm ô nhiễm môi trường sống. Như chúng ta đã biết, trên hành tinh này con người có nhiều kiểu an táng, tùy theo bản năng, tình cảm của mỗi dân tộc nên chia ra làm bốn cách an táng:
1-Ðịa táng.
2-Hỏa táng.
3-Thủy táng.
4-Ðiểu táng.
Những dân tộc có tình cảm sâu xa như dân tộc Việt Nam, Trung Hoa thì địa táng, xây mồ mả giữ gìn nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương của mình.
Những dân tộc ít tình cảm hơn như dân tộc Campuchia thì hỏa táng lấy tro đựng trong một cái ghè để dưới gốc cây lâm vồ, giống như cây đa ở nước chúng ta. Người Campuchia để tro hài cốt của ông bà cha mẹ như vậy rất thiếu vệ sinh, gây ra môi trường ô nhiễm, khiến cho con người dễ bịnh đau.
Những dân tộc ít tình cảm hơn nữa như dân tộc Tây Tạng thì họ điểu táng, khi người chết, họ đem vào rừng cắt ra từng miếng thịt nhỏ, quăng ném khắp nơi để cho loài chim bay đến ăn thịt. Cách thức điểu táng gây ra môi trường ô nhiễm ghê gớm, mùi tanh, hôi, thối bốc ra khắp cả một vùng rừng núi, khiến cho không ai dám đến nơi đó. Tục lệ điểu táng là một việc làm thiếu vệ sinh, gây ô nhiễm, khiến mọi người dễ sanh bịnh tật khổ đau.
Thủy táng là những người dân sống trên sông nước, họ không có địa táng, hỏa táng hoặc điểu táng, khi có người chết, họ an táng bằng cách neo vào quan tài một tảng đá to, dùng thuyền chở ra giữa dòng sông rồi họ dứt dây, quan tài từ từ chìm xuống đáy sông. Lại có một số người sống ven biển như dân tộc Ðại Hàn, người chết họ đem thiêu xác, rồi lấy tro đổ xuống biển, đó cũng là loại thủy táng, thủy táng bằng tro. Loại thủy táng nào cũng thiếu vệ sinh, gây ra môi trường ô nhiễm cho cuộc sống của con người.
Trong bốn loại an táng, thì loại địa táng là tình cảm thiêng liêng nhất của loài người, vì không thấy thi thể của người thân của mình bị hủy hoại một cách tàn nhẫn. Vả lại, địa táng còn lưu lại dấu tích sau cùng để con cháu tưởng nhớ, khó quên tổ tiên dòng giống, duy trì và truyền thống một nền đạo đức ân nghĩa sâu dày.
Ðịa táng là một sự giữ gìn vệ sinh môi trường sống rất tốt, nhưng nó không được trọn vẹn vệ sinh bằng hỏa táng cộng địa táng. Nhưng hỏa táng thì tình cảm thiêng liêng của con người không cho phép chúng ta làm, và chúng ta không thể không đau lòng được trước cảnh thiêu xác người thân.
Nếu hỏa táng đem tro hài cốt người thân vào chùa, điều này có 4 cái hại:
1- Mê tín (nghe kinh và siêu thoát).
2- Thiếu vệ sinh môi trường, vì nắm tro tàn vẫn còn bốc mùi hôi, khét khó chịu, và để khơi khơi trên bàn thờ tỏa ra mùi uế trược, bất tịnh ghê gớm.
3- Tốn hao tiền bạc, phải cúng tế trong nhà chùa, nhà chùa lợi dụng tro hài cốt kêu gọi đóng góp mọi thứ khi chùa cần xây dựng, làm từ thiện, hoặc tổ chức cúng tế, lễ lộc, v.v...
4- Nắm tro tàn hài cốt của người thân là con tin của nhà chùa để họ làm tiền phật tử, nếu phật tử nào không có tiền cúng chùa thì tro hài cốt ấy được đẩy lui vào hốc tháp, có khi bị dẹp bỏ, nếu con cháu không cúng dường tiền cho chùa.
Nấm mồ trong đất chùa cũng vậy, cũng chỉ là con tin để chùa làm tiền mà thôi. Vì thế, chùa có mả mồ nhiều, có tháp tro hài cốt to thì chùa ấy giàu, quý phật tử có thấy điều này không?
Quý vị có thân nhân được chôn trong đất chùa, thì quý vị đừng lấy làm vinh hạnh, nhà chùa họ kinh doanh lừa đảo quý phật tử đó. Bán đất chôn thì quá đắt (tấc đất tấc vàng), chứ họ chẳng cho quý vị đồng nào cả. Họ cắt cổ quý vị tới chết chưa thôi, mà còn cắt cổ con cháu của quý vị nữa, được đem tro hài cốt vào chùa thì phải có một số tiền mặt, và từ đó về sau, khi nhà chùa có bất cứ chuyện lớn chuyện nhỏ nào, thì họ cũng đều kêu quý phật tử.
Quý vị đừng tưởng rằng, thân nhân được chôn trong đất chùa, hoặc nắm tro tàn hài cốt được đặt vào ngôi tháp xinh đẹp của chùa là linh hồn được nghe kinh, được siêu thoát về cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng, Niết Bàn, v.v... Không chắc đâu quý vị ạ!
Ðiều này quý vị đã bị lừa đảo lọt vào mê tín. Một đời tu hành của chúng tôi hết sức giữ gìn giới luật nghiêm túc, thực hiện pháp ly dục, ly bất thiện pháp không lúc nào nghỉ ngơi, thế mà chúng tôi đi tìm cái Thiên Ðàng, Cực Lạc, Niết Bàn... cũng chẳng thấy ở đâu mà có, chỉ có là ở chỗ trạng thái tâm bất động trước các pháp lúc chúng tôi còn đang sống. Còn người chết rồi thì còn chi nữa mà nghe kinh, mà siêu thoát. Chết rồi chỉ còn nghiệp lực tái sanh luân hồi vào thân nghiệp khác còn chi nữa. Nắm xương tàn trong lòng đất và nắm tro tàn trong tháp còn có nghĩa lý gì trong cuộc sống này nữa. Thôi hết rồi, nếu lúc sống không tu thì đến khi chết rồi còn gì mà nghe kinh, siêu thoát được.
Chúng tôi xin góp ý với quý phật tử, chúng ta là dân Việt Nam, với tinh thần đạo đức ân nghĩa sâu dày và tình cảm khó quên với truyền thống: “Cây có cội nước có nguồn”, hay: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”. Dân tộc Việt Nam có cái nhìn sự sống và chết không khác: “sống cái nhà, thác cái mồ”. Với tinh thần truyền thống đạo lý này, cụ Nguyễn Du nói:
Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Ðó là một tục lệ truyền thống tốt đẹp của con người. Hằng năm đến ngày này, mọi người đều về thăm và quét dọn sạch sẽ mồ mả của tổ tiên, ông bà, cha mẹ... đó là một hành động tình nghĩa đạo đức làm người. Làm người không thể không có được đạo nghĩa này, nếu không có đạo nghĩa này thì không xứng đáng làm người. Nếu đã thiêu xác cha mẹ gửi vô tháp nhà chùa, muốn vào thăm thì quý vị cũng phải có lễ lộc cúng bái... chứ không lẽ đi không coi sao được. Và thăm như vậy thì đâu còn có nghĩa là đi tảo mộ.
Ði vào chùa thăm tro hài cốt của cha mẹ không còn ý nghĩa như đi tảo mộ ngày xưa nữa, nó chỉ có nghĩa là đi cúng Phật, lễ bái mà thôi.
Ngày tảo mộ là ngày con cháu tụ họp về đông đủ, nói lên tinh thần đạo đức ân nghĩa, khiến cho giòng họ không còn xa lạ, con cháu gần gũi với nhau hơn, do đó gia tộc có một tinh thần đoàn kết chặt chẽ.
Ngày nay, đất hẹp người đông, nên người ta thiêu xác, lấy tro bỏ vào hũ, đem gửi vào chùa làm mất ý nghĩa truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Theo chúng tôi thiết nghĩ, nhà chùa là nơi thanh tịnh, trang nghiêm để tu hành, chứ không phải nghĩa địa, nhà mồ, mà người tín đồ có thể đem sự bất tịnh vào đó, làm cho ô uế môi trường sống chung của chỗ tu hành.
Thành phố hiện giờ có rất nhiều chùa, mỗi Chùa đều có nơi để tro hài cốt người chết, mùi hôi của chất tro này bốc lên và lan rộng khắp cùng trong thành phố, làm cho bầu không khí ở đây rất ô nhiễm, khiến cho người dân thành phố dễ bịnh hơn dân chúng ở nông thôn. Ở thành phố chỉ có nhà chùa thì được lợi, mà dân thành phố thì chịu thiệt thòi. Theo sự suy nghĩ của chúng tôi, nhà chùa nên tổ chức một nghĩa địa cách xa thành phố, do phật tử tại chùa hùn nhau mua một khu đất, rồi tất cả thân nhân của các phật tử chùa đó chết đều được đem về chôn cất. Nhưng nhà chùa không được bán, không được lấy tiền dù ít dù nhiều của một người nào cả, vì đó là khu đất chung của phật tử, của chùa đó. Cũng giống như bên đạo Thiên Chúa, nơi nhà thờ nào họ cũng tổ chức một nghĩa địa, để tất cả những tín đồ chết đều được đem vào đó chôn cất như một tập thể mồ mả của tín đồ Thiên Chúa.
Nhà chùa chúng ta cũng nên tổ chức như vậy, nhưng không được bán lấy tiền như trên chúng tôi đã nói, bán lấy tiền là làm mất ý nghĩa đạo lý của tôn giáo. Các nhà chùa ở miền Bắc đã làm sai, không đúng tinh thần đạo đức làm người, đến người chết mà chúng ta không dành cho họ một tấc đất để gửi nắm xương tàn hay sao? Vậy mà các chùa sao nỡ nhẫn tâm, làm tiền người chết sao đành? Ðể xác định điều này, người chôn trong đất chùa cũng như gửi tro hài cốt vào tháp trong chùa thì chẳng có ích lợi gì về mặt tôn giáo, mà còn có hại là con cháu phải tốn tiền bạc đủ mọi thứ, nếu nhà chùa kêu đóng góp, thì chắc quý vị phật tử không thể nào từ chối được.
Theo Phật giáo Nguyên Thủy, sống không tu tập ngăn ác, diệt ác pháp, đến khi chết chôn trong đất chùa cũng như chôn trong các nghĩa địa khác. Chôn và gửi tro hài cốt trong đất chùa là làm con tin cho nhà chùa. Người con hiếu chôn hay gửi tro hài cốt cha mẹ vào chùa để được theo Phật nghe kinh, siêu thoát là điều mê tín.
Nhà chùa nhận chôn và tro hài cốt vào đất chùa là một lợi ích rất lớn, đó là kinh doanh hài cốt con người để làm giàu bất chánh, đây là cái sai thứ nhất.
Nhà chùa đã biến nơi tu hành thành nơi nhà mồ, nghĩa địa, nơi thực hiện sự mê tín của dân gian, đây là cái sai thứ hai.
Tóm lại, vì lợi ích vệ sinh trong môi trường sống chung và đạo nghĩa làm người trong tinh thần dân tộc Việt Nam, “sống cái nhà thác cái mồ”, thì mỗi nhà chùa đều nên có một nghĩa địa riêng, cách xa nơi sinh hoạt tu học của tăng ni và cư sĩ. Nơi đó, tất cả tín đồ Phật giáo khi chết đều được an táng mà không phải tốn hao một đồng một xu nào cả.
Page 19
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.1, TG. 2011, tr.239-252)link sách: ĐVXP.1
Hỏi: Kính thưa Thầy! “Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, hoàn cảnh nào cám dỗ họ được”. Con phải hướng tâm như thế nào đây mới chứng điều này được?
Ðáp: Chỉ cần siêng năng tu tập các loại pháp môn ly dục ly ác pháp và sống đúng giới hạnh, nhập được Sơ Thiền thì đời sống xuất gia sẽ phóng khoáng như hư không.
Tuy nói như vậy, nhưng không phải dễ, nếu chỉ có cạo bỏ râu tóc, mặc y áo cà sa, tụng kinh, niệm Phật, ngồi Thiền, v.v... thì đâu có gì là khó. Còn ngược lại phải sống đúng giới hạnh, phải tập tu ly dục ly ác pháp thì khó vô cùng. Cho nên, điều cần thiết là con phải hiểu rõ đời sống tại gia của người cư sĩ khổ như thế nào?
- Thứ nhất, phải làm ra tiền bạc, thực phẩm, áo quần, nhà cửa, tài sản, sự nghiệp. Những sự sống này, khiến cho con người phải lo toan rất nhiều, nhiều khi thiếu trước hụt sau, sợ đói, sợ bịnh đau, không tiền, không thực phẩm là rất khổ, nói chung chỉ có những nghề nghiệp làm ra để sống, nhưng nghề nghiệp làm ăn lại thất bại, khi thất bại là khổ, còn nếu làm ăn được thì phải trăm muôn vạn kế tính toán lo toan nhiều, khi còn phải sử dụng mưu kế gian xảo, lừa đảo bằng mọi thủ đoạn, tạo ra biết bao nhiêu điều ác, nên trong lòng lúc nào cũng bất an, lo sợ nơm nớp tù tội bị phạt vạ, và còn lo sợ trộm cướp nữa.
- Thứ hai, là khổ sở khi mình nghèo sợ người ta khi dễ.
- Thứ ba, khi mình có của cải, cuộc sống thoái mái hơn, thì lo sợ người khác ganh tỵ tìm mọi cách nói xấu hoặc thù ghét và hãm hại.
- Thứ tư, lo sợ tai nạn, bịnh tật, mà tiền mất nhưng tật phải mang.
- Thứ năm, con cái hư phá tán tài sản.
- Thứ sáu, vợ hoặc chồng sống không chung thủy, làm tiêu tan sản nghiệp, đó là nỗi khổ đau của mọi người, mà người nào cũng không tránh khỏi.
- Thứ bảy, những người thân có tai nạn hoặc bịnh tật.
- Thứ tám, trong nhà anh em tranh giành của cải tài sản, kiện thưa.
- Thứ chín, khổ vì người khác nói trái ý, nghịch lòng.
- Thứ mười, khổ vì không đạt đượcước nguyện.
Thường thường, ngườicư sĩ sống tại gia có nhiều duyên sự xảy đến, khiến cho họ phải chịu nhiều sự khổ đau như vậy. Cho nên, đời sống tại gia rất là phức tạp và khổ sở. Có một nhà thơ đã nói đến sự khổ đau của con người, từ khi bắt đầu sinh ra:
“Lúc sanh ra miệng đã khóc thét, Trần có vui sao chẳng cười khì”.
Nếu là, một người có nhiều suy tư về đời sống thì chúng ta thấy rất rõ ràng, cuộc sống con người là biển khổ, khổ từ lúc sinh ra cho đến khi chết.
Do thấy đời sống tại gia khổ như vậy, nên chúng ta chịu chấp nhận một cuộc sống đi ngược lại với sự sống tại gia, đó là đời sống xuất gia. Ðối với đời sống tại gia thì đời sống xuất gia hoàn toàn khác hẳn, vì buông xả sạch vật chất chỉ còn sống với tinh thần phóng khoáng nhưhư không, vì thế tự tại thung dung, không lo đói, lo no, không còn kêu réo, làm bận tâm bận trí, bất toại nguyện. Với đôi mắt của người xuất gia, nhìn mọi vật đều vô thường.
Cho nên:
“Các pháp vô thường là pháp sinh diệt, Sinh diệt, diệt rồi. Tịch diệt là vui”
Vì thấu hiểu như vậy, nên đời sống xuất gia là một đời sống buông xả sạch, chỉ còn ba y, một bát đi xin ăn của những người hảo tâm.
Ðời sống như vậy rất khổ về vật chất, vì không có gì cả, nếu chúng ta không ý thức và thấu rõ chỗ không có gì cả là chỗ phóng khoáng như hư không, thì chúng ta sẽ khổ sở vô cùng. Nhưng nếu, chúng ta ý thức được điều này thì đời sống xuất gia thật là phóng khoáng như hư không, không có vật gì trói buộc; không có một đối tượng, một vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được.
Ðó là đời sống giải thoát, đời sống Phạm hạnh, đời sống Thánh Thiện, còn ngược lại đời sống xuất gia mà có chùa to, Phật lớn là đời sống vật chất nhiều, không giải thoát, đó là đời sống như người tại gia, những vị tu sĩ này bị trói buộc như cá mắc rọ, lưới, lờ, câu không thể phóng khoáng nhưhư không được. Họ thường là những người phục dịch cho những phật tử mê tín.
Ðời sống xuất gia là đời sống trống rỗng cho nên mới gọi là nhưhư không. Nếu hư không mà có vật chất, thì làm sao gọi là hư không. Vì thế, những tu sĩ có chùa to Phật lớn sang đẹp và vật chất nhiều thì làm sao giống như hư không được. Do thế, không thể giải thoát. Phải không các bạn?
Bởi vậy, các vị Tỳ-Kheo trong thời đức Phật, các Ngài đã nói: “Vì giải thoát sanh tử luân hồi, chúng con mới chấp nhận sống đời sống Phạm hạnh của Gotama”.
Vì sanh tử luân hồi là đời sống tại gia, mà sanh tử luân hồi là sự đau khổ của loài người, không chỉ khổ có một kiếp mà khổ nhiều kiếp.
Ðời sống xuất gia là đời sống Phạm hạnh, đời sống buông xả, đời sống phóng khoáng như hư không, cho nên còn có gì mà tái sanh luân hồi.
Một hôm đức Phật đi khất thực, đi ngang qua một ngôi nhà giàu có, một con chó từ trong nhà chạy ra sủa to, đức Phật dừng lại mới bảo rằng: “Nhà ngươi vì vô minh lầm chấp của cải tài sản là của nhà ngươi, do đó nhà ngươi phải tái sanh làm thân chó để giữ của cải đó, nhưng của cải đó không phải là của nhà ngươi nữa đâu. Tội cho ngươi không thấy mọi vật chất thế gian là pháp vô thường, nên phải chịu làm thân chúng sanh khổ sở muôn vàn từ kiếp này sang kiếp khác”.
Con chó nghe được lời này, dường như nó ngộ được lý này, nên từ đó, nó buồn rầu và bỏ ăn, ít hôm sau con chó chết.
Loài chúng sanh còn nhận được lời đức Phật dạy, mà xả tâm dính mắc thế gian để chuyển hóa thân chó.
Chúng ta là những con người khi nghe đức Phật dạy: “Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, không có gì trói buộc, không có một đối tượng, một vật chất, một hoàn cảnh, một sự việc nào cám dỗ họ được và làm cho họ động tâm được”. Ðời sống Phạm hạnh, đời sống như vậy còn gì mà khiến cho họ tái sanh luân hồi.
Bởi, xét cho cùng đạo Phật chỉ lấy cuộc sống Phạm hạnh, làm một chứng cứ cụ thể để mọi người thấy đó là sự giải thoát thật sự, không còn sanh tử luân hồi, như câu chuyện con chó lúc nãy, vì dính mắc của cải tài sản của nhà ấy, phải sanh làm con chó để giữ của cải đó.
Còn chúng ta, muốn tu theo đạo Phật để cầu giải thoát thì tại sao lại không chấp nhận đời sống Phạm hạnh.
Ðời sống Phạm hạnh là Niết Bàn, nếu chúng ta chấp nhận đời sống Phạm hạnh thì chúng ta phải đoạn dứt lòng tham dục, có đoạn dứt lòng tham dục thì chúng ta mới sống đời sống Phạm hạnh trọn vẹn. Nếu không đoạn dứt lòng tham dục thì đời sống Phạm hạnh không trọn vẹn, giống như các tu sĩ của Phật giáo phát triển hiện giờ; đời sống Phạm hạnh chưa trọn vẹn thì kiếp sau phải làm thân chó để giữ gìn những ngôi chùa sang đẹp. Ðó là, sự dính mắc của các tu sĩ hiện giờ, họ đâu biết rằng, khi tâm tham dục còn một chút xíu dính mắc pháp thế gian là họ phải tiếp tục tái sanh trong vòng luân hồi khổ đau. Họ đâu biết rằng đời sống Phạm hạnh là Niết Bàn của chư Phật, là chấm dứt tái sanh luân hồi. Ðức Phật dạy: “Này Bà La Môn, cảm thọ tham ái được đoạn tận, không có dư tàn; cảm thọ sân được đoạn tận, không có dư tàn; cảm thọ si được đoạn tận, không có dư tàn. Như vậy, này Bà La Môn, Niết Bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí giác hiểu”. (Kinh Tăng Chi Tập 1, trang 285).
Ðời sống thế gian là ngục tối âm u đầy đau khổ. Ðời sống xuất gia Phạm hạnh hoàn toàn giải thoát như hư không, Cực Lạc, Niết Bàn. Rõ thấy được như vậy, thì con nên chọn đời sống nào? Ðời sống thế gian hay đời sống Phạm hạnh? Chọn nó thì phải có nhiệt tâm xả bỏ, tâm như cục đất, chỉ có nhiệt tâm và hướng tâm mình như cục đất.
Ðời sống Phạm hạnh là đời sống từ bỏ tất cả sanh y. Nếu muốn từ bỏ tất cả những sanh y thì chúng ta phải dùng pháp Như Lý Tác Ý: “Sanh y là đau khổ, là dính mắc, là tái sanh luân hồi ta phải từ bỏ, xa lìa vĩnh viễn những thứ đau khổ này”.
Ðức Phật sách tấn chúng ta sống đúng đời sống phạm hạnh. Ngài dạy: “Này các Tỳ Kheo, tối thắng là tinh cần với mục đích từ bỏ tất cả sanh y. Do vậy, này các Thầy Tỳ Kheo, các Thầy cần phải học tập như sau: “Ta sẽ cố gắng tinh cần để từ bỏ tất cả sanh y”. Như vậy, này các Thầy Tỳ Kheo, các Thầy cần phải học tập”.
Ðây là, lời dạy chí tình của đức Phật qua những danh từ “tối thắng”, “tinh cần”, “từ bỏ”, “sanh y”. Những danh từ này, đã xác định đời sống Phạm hạnh là giải thoát hoàn toàn, là Niết Bàn tại thế, là chấm dứt tái sanh luân hồi.
Bởi thế, cuộc đời tu hành theo đạo Phật quan trọng nhất là đời sống Phạm hạnh. Ðời sống Phạm hạnh không phải ở chiếc áo cà-sa và chiếc đầu cạo trọc mà là tâm Phạm hạnh.
Bởi vì, chiếc áo cà-sa và chiếc đầu cạo trọc chỉ là một hình thức lừa đảo người, nó đã làm ô uế cho Phật giáo từ bao nhiêu thế kỷ nay.
Xưa, khi đức Phật nhập Niết Bàn đã nói lên lời nói di chúc: “Giới luật Ta còn là đạo Ta còn, giới luật Ta mất là đạo Ta mất”. Giới luật là gì? Giới luật là Phạm hạnh. Nếu một tu sĩ còn có Phạm hạnh là đạo Phật còn, nếu một tu sĩ Phạm hạnh không có thì đạo Phật mất.
Lời di chúc này chúng ta cũng xác định đạo Phật còn hay là mất, không thể che dấu ai được.
Phạm hạnh là gì? Là tâm ly dục ly ác pháp. Chỉ khi nào con ly dục ly ác pháp thì đời sống Phạm hạnh con trọn vẹn.
Con có nhìn thấy bạn của con không? Cũng cạo đầu, cũng mặc áo tu sĩ rồi một thời gian để tóc lại, mặc đồ đời, có chồng rồi đây sắp có con. Họ có thật sự thấy đời sống thế gian là khổ không? Hay chỉ muốn tu để có thần thông phép tắc và ngồi mát ăn bát vàng. Hay muốn tìm đường giải thoát mà không muốn buông xả bỏ sanh y thì làm sao tìm đường giải thoát cho được. Sanh y là gì? Là chồng con hay vợ con, là của cải tài sản, v.v...
Này các con, sanh y trong lòng con chứ không phải sanh y là những vật chất bên ngoài.
Xả sanh y vật chất bên ngoài như Minh Tông, còn sanh y bên trong thì tâm không chịu xả, ngồi trong thất mà nhớ vợ, nhớ con, như vậy xả sanh y bên ngoài để làm gì? Có lợi ích gì? Phải không các con? Cuối cùng cũng chỉ trôi lăn trong lục đạo. Cô Diệu Quang đã trắc nghiệm tâm sân của Minh Tông đã hiện ra, như người chưa bao giờ tu, chắc các con đã trực tiếp thấy và nghe rõ ràng. Năm năm trời, mài miệt trong thất chỉ có một phút giây tan tành như gió bụi, uổng công phu tu tập vô cùng.
Tới hôm nay, tâm con đã sống Phạm hạnh được chưa? Nếu chưa được, thì hãy cố gắng con ạ! Ðừng bỏ cuộc, đừng nản lòng, đừng bắt chước các bạn con thối tâm.
Hãy đứng lên chiến đấu tận cùng, để đạt được đời sống Phạm hạnh, để làm chủ đời sống sanh, già, bịnh, chết, đời sống cao thượng của một bậc chân tu với một tâm hồn phóng khoáng như hư không.
Nếu trên đường tu tập theo Phật giáo mà con không có chí lớn như Bà Triệu Ẩu “Cưỡi cá kình, vượt sóng to, sống một đời không chịu luồn cúi làm thê thiếp cho thiên hạ”. Ý chí này, với tư tưởng này thì mới có thể sống một đời sống cao thượng, phóng khoáng như hư không và trắng bạch như vỏ ốc của các bậc Thánh Ni, những đệ tử Ni của đức Phật ngày xưa. Còn nếu sống không được đời sống Phạm hạnh thì con chẳng khác gì như các bạn con, chỉ một đời luồn cúi làm thê thiếp cho kẻ khác và còn bị đánh đập chửi mắng và hành hạ nữa, con có thấy bạn con không???
Rấc tiếc là bộ giới đức, giới hạnh và giới hành Thầy viết chưa xong. Giới đức, giới hạnh, giới hành tức là Phạm hạnh, hay gọi là Sa Môn hạnh hoặc gọi là Sa Môn Quả. Ðó là những giới luật của Phật giáo chứ không phải giới bổn Ba La Mộc Xoa Ðề. Giới bổn Ba La Mộc Xoa Ðề là giới luật của các Tổ biên soạn viết ra dựa vào kinh giới rút ra một số lập thành giới cấm.
Như chúng ta ai cũng biết, đạo Phật là đạo tự lực không cầu tha lực, vì thế, giới là sự sống của Tăng Ni và các cư sĩ, cho nên người nào đến với đạo Phật là phải tự nguyện sống Phạm hạnh chứ không có sự bắt buộc như giới cấm của các Tổ. Vì cầu giải thoát, nên chúng tôi mới tự nguyện sống đời Phạm hạnh dưới sự chỉ đạo của đức Gotama. Cho nên, giới cấm của các Tổ là sai, không đúng tinh thần tự nguyện, tự giác của Phật giáo.
Ðạo Phật là một tôn giáo tự do tín ngưỡng, không cám dỗ, mà cũng không bắt buộc ai. Ai tự nguyện, đến giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì dạy bảo và giúp đỡ cho tu hành, còn sống giới luật không nổi, xin ra, thì cũng vui vẻ chấp nhận ngay liền, không bắt buộc người theo Phật giáo phải thề thốt “Trời tru đất diệt”. Cho nên, giới cấm của các Tổ là sai, vì giới cấm là có sự bắt buộc. Ðạo Phật không có cấm ai cả, chỉ người tu phải tự nguyện, tự lực, tự giác, tự ngộ mà đến với đạo Phật. Còn giới luật đúng của đạo Phật là giới đức, giới hạnh, giới hành. Những giới luật này, đức Phật dạy cho đệ tử mình, sống một đời sống Phạm hạnh và tu tập để được giải thoát, nên giới luật này còn gọi là Giới Vô Lậu. Vì thế, giới là đức hạnh sống của người tu sĩ, giới là pháp môn tu tập để dứt trừ các lậu hoặc. Các bạn đừng nhầm lẫn giới cấm và giới hành. Vì giới hành là thể hiện đời sống Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh cư sĩ.
Page 20
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 9, TG.2011, tr.206-210)link sách: ĐVXP, tập 9
Hỏi: Kính bạch Thầy! Xin Thầy chỉ rõ cách tu Ðịnh Niệm Hơi Thở và Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh.
Ðáp: Cách tu Ðịnh Niệm Hơi Thở có 19 giai đoạn tu tập:
1/ Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.
2/ Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài.
3/ Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.
4/ Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.
5/ An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.
6/ Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra
7/ An tịnh tâm hành tôi biết tôi thở vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.
8/ Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô, quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.
9/ Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô, quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.
10/ Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô, quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra.
11/ Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô, quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra.
12/ Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra.
13/ Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra.
14/ Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra.
15/ Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra.
16/ Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra.
17/ Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra.
18/ Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô,với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra.
19/ Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô, với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra
Ðây là 19 giai đoạn tu tập về Ðịnh Niệm Hơi Thở, còn nếu tu tập cho trọn vẹn là phải 40 giai đoạn.
Hiện giờ con nên tu tập giai đoạn thứ nhất của Ðịnh Niệm Hơi Thở trong 1 tháng, khiến cho tâm nhu nhuyễn thuần thục quen dần với hơi thở và với phương pháp này. Vì từ xưa đến nay người ta tu tập hơi thở bằng cách quán niệm hơi thở nên thường ức chế tâm để cho hết vọng tưởng.
Bắt đầu tu con ngồi kiết già hoặc bán già, lưng thẳng, hai bàn tay để chồng nhau lên trên hai bàn chân, hai ngón tay cái đụng đầu vào nhau, khi thân ngồi yên lặng con cảm giác toàn thân được yên ổn, con như lý tác ý: “Ý thức phải tập trung biết hơi thở ra biết hơi thở vô”. Hai mắt con bắt đầu tập trung nhìn chóp mũi, con vừa hít vô vừa nhắc tâm: “Hít vô tôi biết tôi hít vô”, sau khi hít vô xong, con vừa thở ra vừa nhắc tâm: “Thở ra tôi biết tôi thở ra”. Một hơi thở đầu con nhắc tâm như vậy và 4 hơi thở kế tiếp con không nhắc, vẫn để tâm tự nhiên biết hơi thở ra và hơi thở vô, xong 5 hơi thở con đứng vậy đi kinh hành, trước khi đi kinh hành con nhắc tâm: “Ði kinh hành ý thức phải biết đi kinh hành”, bắt đầu đi kinh hành con chú ý bước chân đi và đi rất tự nhiên, đi theo thói quen đi hằng ngày của mình, không nên đi chậm quá mà cũng không nên đi nhanh quá, đinhư người vô sự, trong khi đi con thầm đếm mỗi bước đi là một số 1, 2, 3, 4, cho đến 20 bước, mỗi 5 bước là con hướng tâm một lần: “Tôiđi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”,đúng 20 bước thì con ngồi trở lại, y như lúc ban đầu con ngồi tu hơi thở.
Con nên lưu ý: “giai đoạn tu tập này mục đích là tập luyện sự tỉnh thức, sự tinh cần và nghị lực chứ không phải tu tập cho hết vọng tưởng”.
Sau khi tu tập 1 tháng cho thuần thục Thầy sẽ dạy tiếp giai đoạn 2, còn nếu bây giờ Thầy dạy hết 19 đề mục Ðịnh Niệm Hơi Thở này thì con chỉ học để hiểu chứ tu hành bị rối rấm như cuộn tơ. Vì thế, Thầy bảo rằng: nếu có cơ sở sống đúng phạm hạnh Thầy trực tiếp dạy các con tu tập, chứ viết ra thành sách các con hiểu để mà hiểu còn tu tập thì không phải dễ.
Về hơi thở phải tu tập từng đề mục cho thuần thục, khi thuần thục đề mục này xong thì mới tu tập đề mục khác, chứ không phải tu một lần luôn cả 19 đề mục. Nếu tu tập như vậy là tu sai pháp.
Ðịnh Niệm Hơi Thở là pháp môn có lợi ích rất lớn trong vấn đề tu tập xả tâm trên Tứ Niệm Xứ để hộ trì và bảo vệ chân lý. Nếu không có Ðịnh Niệm Hơi Thở thì không thể nào tu tập Tứ Niệm Xứ được và cũng không thể nào tu tập pháp xả Tứ Vô Lượng Tâm được.
Bởi vậy Ðịnh Niệm rất cần thiết và hộ trợ trên bước đường về xứ Phật. Xin quý vị hãy tu tập kỹ lưỡng, đừng coi thường loại thiền định này.
Page 21
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích MCĐPTPMN, TG. 2007, tr. 83-89)link sách: MCĐPTPMN
A.- QUÁN THÂY NGƯỜI CHẾT
Thân tứ đại này là thân bất tịnh, hôi thối uế trược tuy thân còn sống nhưng luôn luôn bài tiết những chất bất tịnh như: đờm, ghèn, nước dãi, nước tiểu, phân, phẩn, máu, mủ, v.v… tất cả những chất này rất là dơ bẩn. Còn nếu thân đã chết thì chỉ 5, 10 ngày thì trương phồng, xanh đen, nát thối và mùi hôi thối không ai có thể chịu nổi.
Khi thấu suốt thân bất tịnh bẩn thỉu hôi thối như vậy thì còn gì chúng ta chấp thân này là ta, là của ta, là bản ngã của ta nữa. Do không còn dính mắc chấp đắm dính mắc về thân thì tâm chúng ta thanh thản, an lạc và vô sự. Chỉ cần chúng ta hiểu biết thật như vậy thì ngay đó liền có giải thoát. Chúng ta hãy đọc lại lời dạy của Đức Phật thì sẽ rõ:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy."
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Đây là pháp Thân Hành Niệm Ý Hành thứ sáu. Vậy quí vị hãy theo đây mà tư duy quán xét cho thấu suốt lí thân vô thường, vô ngã, bất tịnh. Nhờ có thấu suốt lí thân vô thường, vô ngã và bất tịnh chúng ta mới thoát khổ.
Khi thoát khổ rồi, chúng ta sống như mọi người bình thường mà thân tâm của của chúng ta vẫn thanh thản, an lạc và vô sự trước các ác pháp; khi chúng ta sống bình thường như mọi người mà tâm chúng ta rất phi thường, vì bất cứ ai tạo các chướng ngại pháp làm hại thân tâm chúng ta, nhưng thân tâm chúng ta không bao giờ bị chướng ngại ác pháp đó. Bởi vậy, chứng đạo của Phật giáo không có khó khăn; chứng đạo của Phật giáo là chứng sự giải thoát trong cuộc sống tức là làm chủ bốn sự đau khổ của thân tâm: Sinh, già, bệnh, chết.
B.- THÂY NGƯỜI CHẾT LÀ THỨC ĂN CỦA LOÀI CẦM THÚ
Thân tứ đại của con người là món ăn của loài cầm thú, khi thân chết đem bỏ trong rừng thì các loài chim quạ, diều hâu, kên kên và các loài chó, giả can xé xác ăn thịt. Cuối cùng, những gì còn lại thì sinh ra trùng, giòi, tửa, v.v… trông thân người thật là ghê gớm. Vậy mà khi chưa hiểu rõ thân con người khi chết là thực phẩm của loài vật như vậy nên mỗi khi có ai chạm đến thân hay quyền lợi của thân thì ăn thua đủ, không biết nhẫn nhịn chút nào cả. Cho nên trên cuộc đời này tranh cãi, xung đột và chiến tranh cũng chỉ vì lầm chấp thân này là ta, là của ta, là bản ngã của ta, chứ thân này có cái gì là ta, là của ta đâu. Vì thế, Đức Phật biết rõ nên dạy chúng ta tu tập Ý Hành Thân Hành Niệm. Khi tu tập Ý Hành Thân Hành Niệm chúng ta mới biết rõ thân người chỉ là thực phẩm của loài cầm thú, là nơi sinh ra giòi, vi trùng, vi khuẩn, v.v… chứ nó không có giá trị gì cả. Chúng ta hãy tiếp nghe Đức Phật dạy:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Khi tu tập theo Phật giáo thì nên quán thân này như vậy, vì có quán thân như vậy nên chúng ta mới không xem thân này là của báu, là vật sở hữu có ai động đến thì khóc lu bù, rồi than thân trách phận, luôn luôn tìm mọi cách chống trái lại để tạo cho thân mình chỗ đứng trong xã hội được mọi nể nan, kính trọng.
Người tu theo Phật giáo thì không cần tài sản, của cải, nhà cao, cửa rộng mà cũng không cần ai khen, ai chê. Nhất là tránh xa chỗ đứng có danh vọng, có nhiều lợi dưỡng mà chỉ cần được tâm An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tĩnh, sống từ ngày này sang ngày khác với một tâm như vậy thì đã mãn nguyện lắm rồi.
C.- CHỈ CÒN XƯƠNG RỜI RẠC
Con người vì quá lầm chấp thân người là thật có, là của mình nên hở ra thân có chút gì trên thân thì sinh ra đau khổ. Cho nên pháp Ý Hành Thân Hành Niệm thứ tám mà Đức Phật đã dạy chúng ta để thông suốt sự nối kết những bộ xương trong thân khiến cho chúng ta đừng có dính mắc thân là ta, là của ta, là bản ngã của ta nữa. Khi thông suốt thân con người cũng chỉ là những bộ xương được nối kết với nhau bằng những sợi gân trông thật là ghê gớm:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại... chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Đọc đoạn kinh này ta mới thấy thân người nếu cởi bỏ da thịt thì còn lại một bộ xương ghê rợn chẳng có gì là giá trị cả, thế mà con người lầm chấp cho thân này là vật quí báu là của riêng mình. Do đó sân si, giận hờn, phiền não, buồn phiền, lo sợ, thương ghét, v.v… Những sự đau khổ này cũng do từ chấp thân này là thật có, là ta, là của, là bản ngã của ta mà ra.
Thật sự đúng như vậy con người lầm chấp cho Thân này thật là Ta, là của Ta, lại còn có người còn vô minh hơn cho thân này là Bản Ngã, lại còn cho tâm là Phật Tánh rồi xúm nhau diệt sạch ý thức cho hết vọng tưởng. Thật là loạn thần kinh như các Thiền sư Đông Độ.
Trong khi Đức Phật dạy rất rõ ràng: Thân người là một bộ xương nối kết bằng những sợi gân, trông thật là ghê tởm.
Cho nên khi quán thân như vậy chúng ta không còn nhìn thân một cách sai lệch như xưa mà chỉ xem thân là một vật bình thường như các vật khác trong thế gian này. Nhờ có quán xét thân mà chúng ta ra khỏi mọi sự đau khổ về thân.
D.- CHỈ CÒN XƯƠNG THÀNH BỘT TRẮNG
Một lần nữa con người vì lầm chấp thân này là thật, là ta, là của ta, là bản ngã của ta nên dính mắc chấp ngã, do chấp ngã mà mọi sự đau khổ đều đổ lên đầu, lên cổ của con người, nhưng mấy ai đã hiểu rõ. Cho nên Đức Phật lại dạy chúng ta tư duy quán xét bộ xương trắng của thân con người để được thấm nhuần thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta.
Qua bài Ý Hành Thân Hành Niệm này thì chúng ta càng hiểu rõ bản chất của thân người chỉ là một bộ xương trắng màu vỏốc và nếu bộ xương này đem bỏ ngoài đồng trong hơn một năm sau thì chỉ còn là một đống bột trắng hôi thối rất bẩn chẳng ai dám lại gần:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thế quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm... chỉ còn là xương thối trở thành bột; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Đúng vậy, toàn thân con người gồm từ da, thịt, xương, máu, mủ, đờm dãi đều là đồ bất tịnh hôi thối ghê gớm. Con người chết hôi thối hơn những con vật khác. Ngày xưa bên nước Ấn Độ người ta chết đều đem xác người chết bỏ vào rừng, vì thế những khu rừng ấy gọi là rừng thây ma, hay còn gọi nơi đó là Lâm Táng.
Cho nên thời Đức Phật, các vị Tỳ kheo thường vào rừng thây ma mà quán thân bất tịnh trương phồng hôi thối, v.v… Đó là một phương pháp quán thây ma rất thực tế mà chỉ có nước Ấn Độ có mà thôi, còn bây giờ thì sao?
Vì cả một thế giới nhiều nước đều hợp tác với nhau để giữ gìn vệ sinh chung môi trường sống của loài người, môi trường đó luôn luôn phải được trong sạch, nên việc lâm táng như vậy đều được Chính phủ nước đó đình chỉ việc chôn cất như vậy.
Hiện giờ các nước đều khích lệ hỏa táng, đều cho hỏa táng là vệ sinh nhất, nhưng ở Việt Nam còn theo tục lệ địa táng. Muốn bãi bỏ một tục lệ nào cũng rất khó khăn, vì nó đã ăn sâu vào tư tưởng con người, dù họ biết hỏa táng là đúng nhưng bỏ địa táng thì chưa bỏ được.
Page 22
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.1, TG. 2011, tr.39-42)link sách: ĐVXP.1
Một người có đủ duyên được đọc kinh sách của đạo Phật, thấy được chân lý của Ðạo rất thực tế và cụ thể, hướng dẫn con người cách thức sống có đạo đức, tu tập và trau dồi thân tâm để thoát khỏi kiếp sống đọa đày trầm luân đau khổ của kiếp người, bằng sức tự lực của chính mình nhất là điều khiển được sự sống chết như ý muốn và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi.
Vì thế, khi bắt đầu đến với đạo Phật để trở thành người đệ tử chân chánh, thì quý vị cần phải thông hiểu những gì chân thật và những gì không chân thật của đạo Phật. Quý vị cần phải sáng suốt chấp nhận những gì đúng và phải biết gạt bỏ những gì không đúng của Phật giáo. Và cuối cùng, quý vị cần phải biết kính trọng và không kính trọng những gì phải và những gì không phải của đạo Phật.
Phần đông, Phật tử hiện giờ không cung kính và tôn trọng chánh pháp của đạo Phật, họ thường tôn kính giáo pháp phát triển của một số hệ phái và luôn luôn tu hành theo giáo pháp trừu tượng mê tín đó, mặc dù kết quả tu hành chẳng ra gì. Nếu có ai mạnh dạn nói rằng, giáo pháp phát triển của những hệ phái đó không phải là của Phật thuyết, đó là giáo pháp mê tín của ngoại đạo Bà La Môn, thì họ căm tức và tìm mọi cách chống lại. Ðôi khi, còn dùng những lời lẽ xỉ vả, mạt sát, một cách hung tợn và bảo thủ.
Khi một người chưa biết Phật Pháp, chưa hiểu đạo Phật, một hôm có đủ duyên được đọc một cuốn kinh Phật như trường hợp chúng tôi đã nghe có Phật tử thuật lại: “Con từ hồi nào tới giờ chưa biết Phật Pháp, một hôm được người bạn trao cho cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nhờ đọc kinh này, con thấu lý của đạo Phật quá tuyệt vời, quá hay. Nên từ đó, con hướng tâm đến đạo Phật, thường đi nghe thuyết giảng trong các chùa và mua thêm những loại kinh sách Phật để tham cứu đường lối và cách thức tu tập của đạo Phật, càng đọc kinh sách Phật con lại càng có ý muốn đi tu hơn!!!”.
Ðó là, những người hữu duyên may mắn được đọc các bộ kinh như: “Thủ Lăng Nghiêm, Kim Cang Kinh, Pháp Hoa Kinh, Phật Học Phổ Thông và toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc kinh Nikaya”. Ngược lại, những người chưa đủ duyên, chưa được đọc kinh sách Phật, chưa hiểu đạo Phật ra sao, nên nhìn đạo Phật như một tôn giáo mê tín, ông Phật như ông Thần chuyên phò hộ và ban phước lành cho nhân gian.
Hiện giờ, hầu hết mọi người hiểu đạo Phật qua bốn hệ phái khác nhau:
1. Tịnh Ðộ Tông, biến Phật giáo thành tôn giáo mê tín, cúng bái, cầu khẩn, niệm Phật cầu vãng sanh như Ðạo Bà La Môn.
2. Thiền Tông, biến Phật giáo thành Tiên Giáo.
3. Duy Thức Tông, biến Phật giáo thành khoa tâm lý học.
4. Mật Tông, biến Phật giáo thành tôn giáo huyền bí, linh thiêng.
Thật ra, Phật giáo không phải tâm lý học, không phải cảnh giới siêu hình (Cực Lạc), không phải bản thể của vạn hữu, cũng không phải linh thiêng siêu phàm nhập thánh mà người tu sĩ Phật giáo sống một cuộc sống bình thường như mọi người đang sống, nhưng họ đã lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp.
Người nào hiểu đúng và biết cách sống đúng “ly dục ly ác pháp” sẽ có tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Ðó chính là, người có hữu duyên với chánh pháp của đạo Phật, bằng ngược lại thì đó là vô duyên hoặc gặp tà pháp, hoặc có duyên với tà pháp như người Phật tử đã nói ở trên.
Vô duyên không gặp chánh Phật Pháp, còn hơn là những người hữu duyên mà gặp tà pháp của ngoại đạo. Gặp tà pháp của ngoại đạo thì lại sanh ra kiến chấp rất là khó bỏ. Con người vốn vô minh nên khi gặp pháp nào cũng đều tin. Tin một cách mù quáng nên dễ dính mắc tà pháp, mặc dù biết các tri kiến đó không đúng pháp của đạo Phật, nhưng rất khó bỏ. Vì thế, trên thế gian này có rất nhiều tôn giáo, và tôn giáo nào cũng có người theo, nhất là những tôn giáo có thần thông lại dễ cám dỗ nhiều người theo hơn. Do đó, giáo pháp nào có thần thông thì người theo càng ngày càng đông, như kiến bu trên cục đường. Nghe thần thông ai lại không mê, nhưng thần thông chỉ là một loại tưởng lực, ảo giác, lừa đảo con người.
Page 23
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 10, TG.2011, tr. 96-98)link sách: ĐVXP, tập 10
Hỏi: Kính bạch Thầy! Thế nào là dùng tưởng ánh sáng để đối trị hôn trầm thùy miên?
Ðáp: Tưởng là một năng lực siêu hình có một sức mạnh vĩ đại, nhưng tưởng thì phải tưởng đúng sự thật là có lợi ích rất lớn, tưởng không đúng sự thật sẽ là một tai hại cho mình cho người.
Ví dụ: Ánh sáng là có thật nên tưởng ánh sáng là tưởng thật. Linh hồn là không thật có nên tưởng linh hồn là tưởng không thật. Thân người khi chết để lâu ngày sẽ sình hôi thối là thật có nhưng hiện giờ không có thân người chết sình hôi thối, nhưng ngồi quán tưởng thân người sình hôi thối là tưởng thật.
Cho nên, quán tưởng ánh sáng để phá hôn trầm thùy miên là quán tưởng đúng thật. Ðợi có hôn trầm thùy miên mà quán tưởng ánh sáng thì quá muộn.
Như chúng ta ai cũng biết tướng trạng của si là hôn trầm thùy miên, nếu không phá được hôn trầm thùy miên thì không bao giờ có tỉnh giác mà không tỉnh giác thì không bao giờ có chánh niệm. Chúng ta hãy đọc lại đoạn kinh Tăng Chi tập 4 trang 44: “Khi chánh niệm tỉnh giác không có, này các tỳ kheo, với người không có chánh niệm tỉnh giác thì tàm quý đi đến hủy diệt. Khi tàm quý không có, này các tỳ kheo, với người thiếu tàm quý, chế ngự các căn đi đến hủy diệt. Khi chế ngự các căn không có, với người thiếu chế ngự các căn, giới đi đến hủy diệt. Khi giới không có, với người thiếu giới, chánh định đi đến hủy diệt. Khi chánh định không có, với người không có chánh định, tri kiến như thật đi đến hủy diệt. Khi tri kiến như thật không có, với người thiếu tri kiến như thật không có, nhàm chán ly tham đi đến hủy diệt. Khi nhàm chán ly tham không có, với người thiếu nhàm chán ly tham, giải thoát tri kiến đi đến hủy diệt... Này các tỳ kheo, khi chánh niệm tỉnh giác có mặt, với người đầy đủ chánh niệm tỉnh giác... giải thoát tri kiến đi đến đầy đủ”.
Ðọc trong đoạn kinh này chúng ta thấy sự phá hôn trầm thùy miên là một điều quan trọng hết sức trong vấn đề tu tập để đi đến giải thoát của đạo Phật. Không phải đợi có hôn trầm, thùy miên mới dùng quán tưởng ánh sáng. Chúng ta nên biết rằng trong ta đang có sẵn các tướng tham, sân, si, nếu hằng ngày không dùng quán tưởng ánh sáng mà tu tập khi thùy miên hôn trầm đến thì không thể nào đương đầu với chúng nổi.
Pháp quán tưởng ánh sáng là pháp phòng ngừa, pháp thủ chứ không phải pháp công phá, cho nên nó không thể dùng công phá thùy miên, hôn trầm được.
Xưa đức Phật dạy công phá hôn trầm thùy miên bằng cách đi kinh hành, ngày nay Thầy dạy phá hôn trầm thùy miên bằng cách kết hợp đi kinh hành và ngồi thở năm hơi rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước. Cứ tu tập như vậy sẽ đẩy lui hôn trầm thùy miên.
Page 24
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 3, TG. 2010, tr. 149-151, tr. 140-144)link sách: NLGPD, tập 3
LỜI PHẬT DẠY
1- Dục hữu
2- Sắc hữu
3- Vô sắc hữu
CHÚ GIẢI:
DỤC HỮU: CÕI NGƯỜI
Dục hữu là gì? Dục là lòng ham muốn; hữu là có. Dục hữu danh từ Hán có nghĩa là loài người và muôn loài động vật trong cõi thế gian này. Vì loài người và các loài động vật đều có sự ham muốn (thích dục) giống như nhau, nên thường sống trong dục (ham muốn). Nói dục hữu là nói tâm trạng của tất cả chúng sanh trong vũ trụ nhất là trên hành tinh này.
Tóm lại, dục hữu tức là dục giới có nghĩa là thế giới của loài người và loài thú vật.
SẮC HỮU: ĐỊNH HỮU SẮC
Sắc hữu nghĩa là gì? Sắc hữu là chỉ cho cảnh giới bốn thiền. Cảnh giới bốn thiền tức là trạng thái Tứ Thánh Ðịnh. Bốn trạng thái này trong kinh sách Ðại Thừa thường gọi là bốn cảnh Trời hữu sắc:
1/ Sơ Thiền Thiên
2/ Nhị Thiền Thiên
3/ Tam Thiền Thiên
4/ Tứ Thiền Thiên
Bốn trạng thái thiền này do ý thức tu tập tạo ra, nên gọi là bốn sắc cứu cánh thiên. Cho nên nói sắc hữu là chúng ta biết ngay là bốn trạng thái Tứ Thánh Ðịnh.
VÔ SẮC HỮU: ĐỊNH VÔ SẮC
Vô sắc hữu nghĩa là gì? Vô sắc hữu nghĩa là chỉ cho cảnh giới bốn thiền vô sắc. Cảnh giới bốn thiền vô sắc tức là trạng thái Tứ Không Tưởng Ðịnh. Bốn trạng thái này mà trong kinh sách Ðại Thừa thường gọi là bốn cảnh Trời vô sắc:
1/ Không Vô Biên Xứ Tưởng Thiên.
2/ Thức Vô Biên Xứ Tưởng Thiên.
3/ Vô Sở Hữu Xứ Tưởng Thiên.
4/ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng Thiên.
Bốn trạng thái thiền này do tưởng thức tu tập tạo ra, nên gọi là bốn vô sắc cứu cánh thiên. Cho nên, nói đến Vô sắc hữu là nói đến bốn định tưởng này.
LỜI PHẬT DẠY
1- “Dục thủ
2- Kiến thủ
3- Giới cấm thủ
4- Ngã chấp thủ”.
CHÚ GIẢI:
Muốn hiểu được lời dạy của đức Phật thì chúng ta phải hiểu từng chữ nghĩa cho rõ ràng. Vậy thủ nghĩa là gì?
Thủ là chữ Hán, có nghĩa là giữ gìn, cố chấp, ngoan cố, bảo thủ. Theo Phật giáo con người có bốn điều kiện cố chấp, bảo thủ đi đến ngoan cố, không chịu cởi mở, xả bỏ, buông xuống, v.v…
Sự cố chấp, bảo thủ thứ nhất là “Dục thủ”. Vậy dục thủ nghĩa như thế nào? Dục thủ là chữ Hán. Dục nghĩa là lòng ham muốn; thủ là giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ dục thủ có nghĩa là bảo thủ, cố chấp vào lòng ham muốn của mình, hay còn có nghĩa là không buông bỏ lòng ham muốn. Biết lòng ham muốn là nơi tập hợp sinh ra muôn ngàn thứ khổ đau cho kiếp sống con người. Thế mà không ai bỏ được lòng ham muốn của mình. Ðó là dục thủ.
Sự cố chấp, bảo thủ thứ hai là “Kiến thủ”. Vậy kiến thủ nghĩa là gì? Kiến thủ là chữ Hán. Kiến nghĩa là ý kiến của mình, sự hiểu biết của mình, sự vay mượn tích lũy những tư tưởng tà kiến của người khác, của kinh sách ngoại đạo, của triết học, của khoa học, y học, v.v... Thủ là giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ “kiến thủ” có nghĩa là bảo thủ cố chấp vào ý kiến hiểu biết của mình hoặc vay mượn của người khác.
Nhưng dù những ý kiến đó sai, mọi người ai nói gì, khuyên gì cũng không chịu buông bỏ những kiến chấp tà tư tưởng, tà pháp ấy, v.v…
Ví dụ: Kinh sách Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ không phải Phật thuyết, tu tập chẳng ra gì, nhưng họ vẫn vô minh chấp cứng giáo pháp đó. Ai nói kinh này sai là họ lộn gan lên đầu. Biết rằng kiến thủ là những điều sinh ra ngu muội, khiến cho ta phải chịu muôn ngàn thứ khổ đau. Thế mà ít người bỏ được những kiến thủ đó.
Sự cố chấp, bảo thủ thứ ba là “Giới cấm thủ”. Vậy Giới cấm thủ nghĩa là gì? Giới cấm thủ là chữ Hán, nghĩa là những giới luật bắt buộc một cách vô lý như: tu hạnh con bò, tu hạnh con chó, đứng một chân, ngâm mình trong nước, ăn phân bò con, ăn rất ít, ngủ ngồi, ngủ đứng, ngủ trên rác bẩn, giết 1.000 người thì chứng đạo, v.v… thì mới được cộng trú với Phạm Thiên.
Ba chữ “Giới Cấm Thủ” có nghĩa là bảo thủ, cố chấp vào tà giới luật làm khổ mình, khổ người, phí công sức tu tập mà chẳng tìm thấy sự giải thoát chân thật.
Những giới luật của Phật giáo là những hành động đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Nên giới luật đã giúp cho những người biết giữ gìn thì có một đời sống an lạc với tâm hồn thanh thản và vô sự, tràn đầy hạnh phúc trong cuộc sống. Cho nên, giới luật của Phật giáo là pháp môn thiện giúp cho con người sống trong thiện pháp. Nó là nền tảng đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.
Còn giới cấm thủ là các ác pháp. Ví dụ: Khi ngồi kiết già hai chân bị đau mà cố ngồi chịu đau cho hết giờ. Ðó là giới cấm thủ, là giới luật làm khổ mình mà cứ cố giữ gìn. Người tu khổ hạnh là người bị giới cấm thủ ràng buộc.
Cho nên, Ðạo Phật không chấp nhận khổ hạnh, vì khổ hạnh đi ngược lại đường lối giải thoát của Ðạo Phật. Vì thế đức Phật nói: “Ðạo Ta không có thời gian đến để mà thấy…”. Chính lời dạy này mà chúng ta mới biết Phật giáo là đạo giải thoát thật sự, không dối người.
Sự cố chấp, bảo thủ thứ tư là “Ngã chấp thủ”. Vậy Ngã chấp thủ nghĩa là gì? Ngã chấp thủ chữ Hán, nghĩa là bảo thủ, cố chấp sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ngã của mình, cho là ta, là của ta, bản ngã của ta. Nếu ai động đến thì sân hận, giận dữ, sinh ra phiền não khổ đau, v.v…
Con người sinh ra ở đời vì lầm chấp ngã là thật có, nên phải chịu nhiều thứ khổ đau. Bởi vì chấp ngã nên xem ngã bằng trời, nếu ai đụng đến ngã của họ là họ sẽ ăn thua đủ...
Cướp của, giết người, gian tham trộm cắp cũng vì ngã, cờ gian bạc lận cũng vì ngã, làm việc mê tín, bói khoa, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, cầu siêu cầu an lường gạt người cũng vì ngã...
Ngã chấp thủ là những từ chỉ cho sự lầm lạc, ngu si lầm chấp cái không thật có mà cho là có thật. Ai cũng biết năm duyên ngũ uẩn hợp lại thành một con người, khi năm duyên này rã ra thì chẳng có cái chi là con người, là ngã cả. Bởi chúng ta không chịu tư duy suy xét cho kỹ lại xem cái gì là ngã ở đâu. Nếu thật có ngã thì sau khi chết cái ngã ở đâu hay chỉ còn là một đống đất hôi thối?
Tóm lại: Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã chấp thủ là bốn điều bảo thủ cố chấp một cách lầm lạc, sai lệch để mang lấy những hậu quả khổ đau bất tận từ kiếp này sang kiếp khác.
Người tu theo Phật giáo thấy bốn điều chấp thủ này thì rất sợ hãi, luôn luôn tìm mọi cách từ bỏ, tránh xa. Xem nó như loài rắn độc, khi bị nó cắn thì nọc độc lan khắp người, mà không có thuốc gì cứu chữa được. Vì thế, mà loài người đành phải chịu chết trong bốn loại nọc độc này. Xin các bạn lưu ý ngay từ phút này cẩn thận dè dặt từng tâm niệm của mình nếu thấy có bóng dáng của: Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã chấp thủ thì phải mau mau diệt trừ tận gốc.
Page 25
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 5, TG. 2011, tr.321-322)link sách: ĐVXP, tập 5
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong trường hợp đi khất thực hoặc lý do nào đó mà phải vào chùa thưa hỏi thì nghi lễ như thế nào? Nếu phải lễ Phật thì lễ những bàn nào?
Ðáp: Trường hợp có dịp đi tham quan ghé thăm một chùa nào. Khi vào chùa thì xin gặp thầy trụ trì, khi gặp thầy trụ trì thì chấp tay chào. Nếu người lớn tuổi thì gọi: Kính chào Thượng Tọa!... Nếu người nhỏ tuổi thì gọi: Kính chào Ðại Ðức… Khi chào hỏi xong thì xin vị trụ trì cho lễ Phật thì nên đến trước tượng Phật Thích Ca lễ lạy hoặc xá một xá rồi lui ra nhà khách nói chuyện, chứ không được lạy lễ các bàn thờ Phật khác. Con nên nhớ: chỉ có lễ đức Phật Thích Ca mà thôi, còn tất cả các tượng Phật khác, đều là tượng của các vị thần Bà La Môn. Chúng ta là tu sĩ Phật giáo không nên lễ lạy những vị thần đó.
Con hãy nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni xác định: “Trên trời dưới trời, ta là người duy nhất”.
Trên cuộc đời này chỉ có con người là duy nhất, tự cứu mình ra khỏi mọi sự đau khổ này, chứ không có ai cứu chúng ta bằng chúng ta. Còn các vị thần ấy không cứu chúng ta được và cũng không giúp gì cho chúng ta được. Chúng ta phải tự lực nên không cầu tha lực, không cầu tha lực thì không lạy lễ những vị thần đó.
Chúng ta lạy lễ Ðức Phật Thích Ca là vì chúng ta nhớ công ơn của Người đã để lại cho chúng ta một nền đạo đức nhân bản - nhân quả tuyệt vời và một giáo pháp tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà không có một tôn giáo nào có được. Công ơn ấy rất lớn, nên đến chùa lạy đức Phật Thích Ca mà thôi, một đức Phật duy nhất trên đời này.
Page 26
(Trưởng lão Thích thông Lạc, trích Đạo Đức Hiếu Sinh, tập 1, TG. 2012, tr. 137-144) link sách: Đạo Đức Hiếu Sinh, tập 1
Tôi đang dạo bộ trên bãi biển khi hoàng hôn buông xuống, biển đông người, nhưng tôi lại chú ý đến môt cậu bé cứ liên tục cúi xuống nhặt thứ gì lên rồi ném xuống biển. Tiến lại gần hơn, tôi chú ý thấy cậu bé đang nhặt những con sao biển bị thủy triều đánh giạt lên bờ và ném xuống trở lại với đại dương.
Tôi làm quen hỏi: - Cháu đang làm gì vậy?
Cậu bé trả lời: - Những con sao biển này sắp chết vì thiếu nước, cháu giúp chúng.
- Cháu có thấy mình đang mất thì giờ không. Có hàng ngàn con sao biển như vậy. Cháu không thể nào giúp được tất cả chúng, rồi chúng cũng sẽ phải chết thôi.
Cậu bé vẫn tiếp tục nhặt những con sao biển khác ném xuống biển, và nhìn tôi vui vẻ trả lời:
- Cháu cũng biết như vậy, nhưng chú nghĩ xem, cháu có thể làm được điều gì đó, ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này!
First News
NHỮNG CÂU HỎI
Câu hỏi 1:
Hành động ném những con sao biển xuống biển của cậu bé là hành động đạo đức gì?
Trả lời câu hỏi 1:
Hành động ném những con sao biển xuống biển của cậu bé là ÐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH, tức là lòng thương yêu sự sống của loài sao biển. Còn nhỏ tuổi mà đã có lòng thương yêu như vậy thật là tuyệt vời, cậu bé này cũng đã từng tu tập hạnh từ bi trong Phật giáo nhiều đời nên đời này đã có những hành động đạo đức hiếu sinh không ai ngờ.
Chủ đề của bài này là nói về nhân quả đức hiếu sinh, chứ không nói nhân quả ba đời, xin các tu sinh lưu ý không khéo góp ý lạc đề bài.
Câu hỏi 2:
Ý nghĩa bài này nói về đạo đức gì?
Trả lời câu hỏi 2:
Ý nghĩa của bài này nói về đạo đức hiếu sinh rất đầy đủ thân hành, ý hành và khẩu hành thể hiện qua cậu bé. Ý hành là sự suy tư, khẩu hành là lời nói và thân hành là hành động của thân.
Câu hỏi 3:
"Ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này". Lời nói này là đạo đức gì?
Trả lời câu hỏi 3:
Quý học viên hãy nghe cậu bé nói lời đạo đức hiếu sinh rất hay: "Ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này". Lời nói này thể hiện lòng yêu thương sự sống của những loài vật bằng khẩu hành tuyệt vời, cháu không thể cứu hết những con sao biển được, nhưng cháu cũng cứu được những con sao biển này với sức của cháu. Ðức Phật không thể cứu hết chúng sinh trong cõi thế gian này, nhưng trong cõi thế gian vẫn có người được đức Phật cứu thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Cậu bé này cũng vậy: "Ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này".
Câu hỏi 4:
"Những con sao biển này sắp chết vì thiếu nước, cháu giúp chúng". Câu này dạy đạo đức gì?"
Trả lời câu hỏi 4:
Lời nói này qua ý suy nghĩ rất thực tế của cậu bé: "Những con sao biển này sắp chết vì thiếu nước, cháu giúp chúng", lời nói này là lời nói đầy lòng đạo đức hiếu sinh khẩu hành thật tuyệt vời.
Câu hỏi 5:
Tác giả viết bài này với dụng ý gì? Dạy đạo đức gì?
Trả lời câu hỏi 5:
Tác giả viết bài này gợi ý lòng yêu thương sự sống của chúng ta đối với tất cả chúng sinh, nhưng tùy khả năng của mình thể hiện qua ý hành, khẩu hành, thân hành.
Nhất là lời nói của cậu bé để kết luận bài này thật tuyệt vời: "Cháu cũng biết như vậy, nhưng chú nghĩ xem, cháu có thể làm được điều gì đó, ít nhất cháu cũng cứu được những con sao biển này!"
Lời nói này rất đúng, chúng ta làm sao cứu hết chúng sinh được, trong khi chúng sinh đang sống trong ác pháp, nghiệp chồng chất trùng trùng điệp điệp. Chúng ta chỉ biết cứu những người nào hữu duyên, chứ những người vô duyên thì chúng ta cũng đành chịu thôi, biết làm sao hơn. Phải không quý học viên?
"Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng". Có duyên thì ở đâu cũng gặp nhau, còn vô duyên ở gần bên nhau cũng khó gặp nhau. Lòng yêu thương chúng ta vô bờ bến, không có loài nào chúng ta bỏ, nhưng đồng cảm với lòng yêu thương của chúng ta được mấy người?
Ðiều quan trọng nhất là lòng yêu thương của chúng ta phủ trùm vạn hữu thì chúng ta đã ra khỏi quy luật nhân quả. Và vì vậy, nhân quả không còn chi phối thân tâm chúng ta được.
Vì đức hiếu sinh, vì lòng thương yêu chúng sinh, chúng ta giúp đỡ và làm được những gì cho ai đều quý, chứ không phải đợi giúp cho hết mọi người rồi mới làm.
Từ khóa » Hình ảnh áo Lục Thù
-
Tổng Hợp Áo Lục Thù Giá Rẻ, Bán Chạy Tháng 7/2022 - BeeCost
-
BẢN THỂ, 2.- CẬN TỬ NGHIỆP, 3.- ÁO LỤC THÙ, ÁO HẢI HỘI, 4.
-
ÁO LỤC THÙ, ÁO HẢI HỘI | THƯ VIỆN CHƠN NHƯ
-
BỘ LỤC THÙ | Shopee Việt Nam
-
LỤC TRÙ VẢI GẤM MÀU VÀNG ( Lục Xù - Lục Thù) | Shopee Việt Nam
-
Lý Giải ý Nghĩa Một Số Loại áo Cho Bạn Cần Thắc Mắc (P2)
-
DỊCH VỤ TANG LỄ - ÁO LỤC THÙ CÓ NÊN MẶC CHO NGƯỜI MẤT ...
-
Câu Hỏi 199: MẶC ÁO LỤC THÙ... - Thầy Thích Trúc Thái Minh
-
MỀN QUANG MINH - MỀN GIẢI THOÁT (vải Gấm)
-
[PDF] Kim Cương Tử - VNU
-
Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng, đấu Tranh Phản Bác Các Luận ...
-
Áo Lục Thù Giá Cạnh Tranh