Aleksandr Sergeyevich Pushkin – Wikipedia Tiếng Việt

Aleksandr Sergeyevich Pushkin
Họa phẩm chân dung Aleksandr S. Pushkin do Vasily Tropinin thực hiện năm 1827.Họa phẩm chân dung Aleksandr S. Pushkin do Vasily Tropinin thực hiện năm 1827.
SinhАлександр Сергеевич Пушкин(1799-06-06)6 tháng 6 năm 1799Moskva, Nga Đế quốc Nga
Mất10 tháng 2 năm 1837(1837-02-10) (37 tuổi)Sankt-Petersburg, Nga Đế quốc Nga
Nghề nghiệpThi sĩ, văn sĩ, kịch tác gia
Ngôn ngữTiếng NgaTiếng Pháp
Quốc tịchNga Đế quốc Nga
Alma materTrung học Hoàng Thôn
Giai đoạn sáng tácKỷ nguyên vàng
Thể loạiTiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, sử thi, thơ
Trào lưuLãng mạn, Hiện thực
Tác phẩm nổi bậtYevgeny Onegin, Người con gái viên đại úy, Boris Godunov, Ruslan và Lyudmila
Phối ngẫuNatalia Goncharova (1831 - 1837)
Con cáiMariaAleksandr FremkeGrigoryNatalia Aleksandrovna
Người thânSergey Pushkin (cha)Nadezhda Gannibal (mẹ)
Chữ ký

Aleksandr Sergeyevich Pushkin (tiếng Nga: Александр Сергеевич Пушкин, tên phiên âm là A-lếch-xăng-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin, 1799 - 1837) là một thi sĩ, văn sĩ, kịch tác gia Nga. Được tôn vinh như Đại thi hào hoặc Mặt trời thi ca Nga[1], ông hầu như là biểu tượng của trào lưu lãng mạn Nga thế kỷ XIX[2][3][4][5] bởi nhiều cống hiến trong sự đa dạng hóa ngôn ngữ văn chương[6][7].

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Chân dung thời thơ ấu của A.S.Pushkin.
Chân dung thời niên thiếu của A.S. Pushkin.
Pushkin đọc thơ trước thi hào Derzhavin năm 16 tuổi.
Phu nhân Natalia Goncharova.

Tuổi thơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moscow trong một dòng dõi quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ XII. Cha của Pushkin, ông Sergey Levov, là hậu duệ của dòng dõi gia đình Boyar cũ - tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga và Romania thời xưa. Ông vốn là một chủ đất giàu có, sở hữu nhiều đất đai và nô lệ. Tuy nhiên, ông Sergey Levov lại luôn cảm thấy xấu hổ vì điều này. Dường như người cha của Pushkin không phù hợp với công việc của một người quản lý. Ông rất ít quan tâm đến những khái niệm như gia đình, thu nhập và giá cả nông sản. Cả cuộc đời của Sergey Levova sống trong sự nhàn nhã với tài hoạt ngôn ở chốn đông người, ưa tìm hiểu ngôn ngữ Pháp và Nga, quan tâm tới văn học và có một thư viện gồm những cuốn sách Pháp ngữ có giá trị cao. Với con cái, ông Sergey Levov cũng rất ít thể hiện sự quan tâm đặc biệt nhưng tựu trung là một người cha tốt.

Phu nhân Sergey Levov đồng thời là mẹ Pushkin, bà Nadezhda Osipovna, thuộc dòng dõi Abram Petrovich Gannibal[8][9], một người nô lệ da đen, nhờ thông minh xuất chúng và có những đóng góp lớn về quân sự, hàng hải cho nước Nga đã được Pyotr đại đế nhận làm dưỡng tử. Vì thế, Pushkin có vài đặc điểm giống đằng ngoại như tóc rất xoăn, làn da ngăm và đôi môi dày. Trái với bản tính vô ưu của chồng, bà Sergey Levova là một phụ nữ diễm kiều nhưng độc đoán. Ba người con, con gái lớn Olga, rồi đến Pushkin và cuối cùng là em út Leo thì chỉ có Leo là được nuông chiều hơn cả. Chị em Pushkin thường bị mẹ dạy bằng roi vọt và bà mẹ đặc biệt lạnh lùng với cậu con thứ. Có thời điểm quá tức giận, thậm chí bà còn không nói chuyện với Pushkin tới hàng tuần, thậm chí cả tháng. Trong thời gian cai sữa cho Aleksandr, bà mẹ đã bỏ mặc cậu bé đói khát mút tay và không âu yếm như các bà mẹ khác.

Vì thuở nhỏ Pushkin rất mập mạp vụng về, mẹ đã bắt cậu phải vận động, chạy nhảy, chơi đùa với bạn bè cùng trang lứa. Trái lại, bà ngoại Maria Alekseyevna Gannibal lại là một phụ nữ rất nhân hậu. Thời thơ ấu, trong những tháng hè, Pushkin thường được về chơi với bà tại thôn Zakharov, gần Zvenigorod thuộc ngoại ô Moskva. Những tháng ngày êm đềm ở đây về sau này được phản ảnh trong những bài thơ đầu tiên của Puskin ("Thầy tu", 1813; "Bova", 1814; "Lời nhắn cho Yudin",1815; "Giấc mơ", 1816).

Thiếu niên

[sửa | sửa mã nguồn]

Sáu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia[1], tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thôn, nay là thị trấn Pushkin) gần kinh đô Sankt-Peterburg. Thời gian theo học tại đây ông đã chứng kiến cuộc chiến tranh giữa quân lực Nga hoàng với quân Pháp của Napoléon Bonaparte năm 1812. Ông có bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - "Hồi ức ở Hoàng Thôn" (Воспоминание о Царском Селе, 1815). Bài thơ này đã được nhà phê bình văn học Nga nổi tiếng thời bấy giờ là Gavrila Romanovich Derzhavin (Гаври́л Рома́нович Держа́вин) coi là một tác phẩm kiệt xuất và đã tôn vinh Pushkin, khi đó mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga.

Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như "Gửi Chaadayev" (К Чаадаеву, 1818), "Gửi N. Ya. Plyuskova" (Н. Я. Плюсковой, 1818), "Làng quê" (Деревня, 1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - "Ruslan và Lyudmila" (Руслан и Людмила) và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền.

Trung niên

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa xuân 1820, do những bài thơ bị quy phiến loạn, tổng đốc Sankt-Peterburg là bá tước Miloradovich yêu cầu đày Pushkin tới Siberia. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadayev, Fyodor Nikolayevich Glinka), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thành phố Sankt-Peterburg vô thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krym, Moldova, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất sâu sắc tới văn chương Nga thế kỷ XIX, như "Người tù Kavkaz" (Кавказский пленник, 1822), "Gavriiliada" (Гавриилиада, 1821), "Anh em lũ cướp" (Братья разбойники, 1822), "Đài phun nước Bakhchisaraysky" (Бахчисарайский фонтан, 1824). Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết sử thi "Yevgeny Onegin" c(Евгений Онегин).

Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở trang viên Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Tại Mikhailovskoe ông đã sáng tác những tác phẩm lịch sử như vở kịch "Boris Godunov" (Борис Годунов, 1825), "Với biển cả" (К морю, 1826), trường ca "Những người Tsygan" (Цыганы, 1827)[10].

Năm 1825, trong lần viếng trang viên láng giềng, Pushkin đã gặp cô Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng "Gửi K". Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thúc chương năm và sáu của "Yevgeny Onegin", mà lúc đó Puskin coi là đoạn kết cho phần một của tác phẩm.

Cuối năm 1825, thông qua một số viên chức có thiện chí, Pushkin đã được tiếp cận Nga hoàng Nikolai I để đệ đơn xin ân xá và được Nga hoàng chấp thuận. Tuy nhiên sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp năm 1825 tại Sankt-Peterburg, chính quyền đã xem xét lại tất cả các ấn phẩm chống đối chính quyền của Pushkin trước đó và quyết định buộc ông bị quản thúc tại gia và có chính sách kiểm duyệt nghiêm khắc các tác phẩm của nhà thơ. Pushkin đã chuyển về Moskva sống trong thời gian này.

Năm 1831 được đánh dấu bởi một sự kiện rất quan trọng trong sự nghiệp của Pushkin, ông đã có buổi gặp gỡ với Nikolai Vasilyevich Gogol, một nhà văn Nga nổi tiếng khác. Cả hai nhanh chóng trở thành bạn thân và luôn hỗ trợ nhau trong hoạt động nghệ thuật. Puskin đã có ảnh hưởng lớn tới những nhân vật trong các tác phẩm châm biếm phê phán hiện thực của Gogol. Cùng năm đó, Pushkin kết hôn với cô Natalia Goncharova, người đã đem lại cho ông cảm hứng sáng tác lớn lao. Ông hoàn tất chương "Bức thư của Onegin" trong tác phẩm "Evegeny Onegin" và cũng là chương kết của công trình vĩ đại mà nhà thơ đã mất 8 năm để thực hiện.

Tháng 11 năm 1833, Pushkin trở lại Sankt-Peterburg, và cảm thấy cần phải có những thay đổi lớn trong cuộc sống, ông không muốn bị kìm kẹp trong bốn bức tường do chế độ quản thúc.

Nhờ sự sủng ái của Nga hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thúc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiên các tác phẩm thơ ca của ông vẫn phải có sự đồng ý của Sa hoàng mới được phát hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ không được thuận lợi, Pushkin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biên sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Puskin chuyển hướng sang viết văn xuôi. Ông sáng tác truyện vừa như "Con đầm pích" (Пиковая дама), tiểu thuyết như "Dubrovski" (Дубровский, 1832-33), "Con gà trống vàng", "Người da đen của Pyotr Đại đế" (không hoàn thành)... Cùng với những người bạn, Pushkin đã thành lập tờ tạp chí Người đương thời (Современник). Nhiều tác giả nổi tiếng của Nga thời bấy giờ như Aleksandr Ivanovich Turgenev, N.V. Gogol, V.A. Zhukovski, P.A. Vyazemski đã ủng hộ bằng cách gửi những tác phẩm mới nhất của mình tới cho tạp chí này. Tuy nhiên, độc giả Nga khi đó chưa quen với những bài viết mang tính phê phán hiện thực sâu sắc đã không hưởng ứng tạp chí Người đương thời. Số lượng độc giả quá ít khiến ban biên tập lâm vào tình thế rất khó khăn, họ không có đủ tiền để trang trải cho việc in ấn và thù lao cho cộng tác viên. Hai số cuối của tạp chí có đến quá nửa là sáng tác của Pushkin, phần lớn là để vô danh. Tiểu thuyết Người con gái viên đại úy (Капитанская дочка) chính là được in trên tạp chí này.

Cuối đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Phu nhân của Pushkin - Natalia Goncharova là một phụ nữ đẹp và sang trọng vì vậy luôn có nhiều người ái mộ, trong số đó có cả Sa hoàng Nikolai I. Trong khi Pushkin, do nguồn gốc châu Phi, lại có một bề ngoài không mấy bắt mắt. Điều này làm cho Puskin rất khó chịu và không ít lần cảm thấy bực bội. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d'Anthès, một sĩ quan kị binh trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – ngày 10 tháng 2 năm 1837 (29 tháng một trong lịch Julian). Bộ phim Pushkin. Ngày quyết đấu công chiếu năm 2006 của đạo diễn Natalya Bondarchuk đã tập trung mô tả vụ đấu súng này.

Di sản

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Danh sách các tác phẩm của Aleksandr Sergeyevich Pushkin

Giới phê bình coi nhiều tác phẩm của ông là kiệt tác, chẳng hạn như bài thơ Kỵ sĩ đồng và vở kịch Vị khách bằng đá - câu chuyện về sự sa ngã của Don Juan. Vở kịch ngắn bằng thơ Mozart và Salieri là nguồn truyền cảm hứng cho tác phẩm của Peter Shaffer cũng như cung cấp lời nhạc kịch (gần như nguyên văn) cho vở opera Mozart và Salieri của Rimsky-Korsakov. Pushkin cũng nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Cụ thể, Tập truyện về Ivan Petrovich Belkin quá cố, trong đó có truyện "Phát súng", được đón nhận nồng nhiệt. Bản thân Pushkin yêu thích tiểu thuyết thơ Eugene Onegin hơn. Tác phẩm ông dành cả đời để sáng tác này khởi xướng một truyền thống cho các tiểu thuyết vĩ đại Nga: đi theo một vài nhân vật trọng tâm nhưng đa dạng về tông và trọng điểm.

Onegin là một tác phẩm phức tạp, đến mức tuy chỉ dày khoảng 100 trang mà dịch giả Vladimir Nabokov cần đến hai tập sách lớn để có thể truyền tải đầy đủ ý nghĩa sang tiếng Anh. Bởi khó dịch đến vậy, nên thơ của Pushkin vẫn ít quen thuộc với độc giả Anh ngữ. Ngay cả vậy, Pushkin vẫn có sức ảnh hưởng sâu đậm đến các nhà văn phương Tây như Henry James. Truyện Con đầm pích của Pushkin được đưa vào Black Water (Nước đen) - một tuyển tập đồ sộ các truyện ngắn của nhiều tác giả lớn, do Alberto Manguel biên soạn.

Trứ tác Pushkin cung cấp một mảnh đất màu mỡ cho các nhà soạn nhạc Nga. Ruslan và Lyudmila của Glinka là một trong những vở opera quan trọng đầu tiên chịu nhận cảm hứng từ Pushkin, đó là một cột một trong truyền thống âm nhạc Nga. Các vở opera Eugene Onegin (1879) và Con đầm pích (La Dame de Pique, 1890) của Tchaikovsky nổi tiếng ở nước ngoài hơn cả chính tác phẩm nguyên tác của Pushkin. Vở Boris Godunov đồ sộ của Mussorgsky (hai phiên bản, 1868-9 và 1871-2) nằm trong số những vở opera nguyên bản nhất và đặc sắc nhất của Nga. Một số vở opera Nga khác dựng dựa trên các tác phẩm của Pushkin bao gồm RusalkaVị khách bằng đá của Dargomyzhsky; Mozart và Salieri, Câu chuyện về vua SaltanCon gà trống vàng của Rimsky-Korsakov; Tù nhân Caucasus, Yến tiệc trong thời bệnh dịchCon gái viên đại úy của César Cui; Mazeppa của Tchaikovsky; các vở opera một hồi Aleko (dựa trên tác phẩm Người Gypsy) và Hiệp sĩ hà tiện của Rachmaninoff; Mavra của Stravinsky; Dubrovsky của Nápravník.

Không chỉ vậy, nhiều vở ba lê, cantata cũng như vô số bài hát, ra đời dựa theo thơ của Pushkin (bao gồm cả các bài thơ tiếng Pháp của Pushkin, thể hiện trong tập bài hát "Caprice étrange" của Isabelle Aboulker). Suppé, Leoncavallo và Malipiero cũng sáng tác opera dựa trên trước tác của Pushkin. The Desire of Glory, which has been dedicated to Elizaveta Vorontsova, was set to music by David Tukhmanov (Vitold Petrovsky – The Desire of Glory on YouTube), as well as Keep Me, Mine Talisman – by Alexander Barykin (Alexander Barykin – Keep Me, Mine Talisman on YouTube) and later by Tukhmanov.

Pushkin được coi là đại diện chính chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Nga. Các nhà phê bình Nga từ lâu cho rằng tác phẩm của ông đại diện cho một con đường từ trường phái Tân cổ điển, đi qua trường phái Lãng mạn để tới trường phái Hiện thực. Một đánh giá khác cho rằng "ông có khả năng tán thành những điều trái ngược mà về nguồn gốc có vẻ như thuộc về phái Lãng mạn, nhưng cuối cùng lại phá vỡ tất cả những quan điểm cố định, tất cả những cách nhìn riêng, bao gồm cả Trường phái Lãng mạn" và rằng "ông vừa là người theo phái Lãng mạn, lại vừa không phải".

Theo Vladimir Nabokov, thi pháp Pushkin tổng hòa tất cả yếu tố tiếng Nga thời bấy giờ, kết hợp với những điều ông học từ Derzhavin, Zhukovsky, Batyushkov, Karamzin và Krylov.

  1. Giọng thơ và siêu hình vẫn còn tồn tại ở dạng ngôn ngữ Slav Nhà thờ và thành ngữ.
  2. Từ mượn từ tiếng Pháp rất phong phú và tự nhiên
  3. Thành ngữ thông tục sử dụng trong cuộc sống thường ngay theo phong cách riêng của ông
  4. Cách nói bình dân được cách điệu hóa, bằng cách tạo nên một hỗn hợp của ba phong cách nổi tiếng (thấp, trung bình và cao) thân thuộc với từ cổ kinh điển giả hiệu và bổ sung thêm một nhúm thơ nhại cho trường phái lãng mạn Nga.

Pushkin có công rất lớn trong sự phát triển của văn học Nga. Ông đã xây dựng mức độ sắc thái ngôn ngữ cao độ mà về sau trở thành đặc trưng của văn học Nga sau thời Pushkin. Ông cũng là người nâng tầm kho từ vựng tiếng Nga lên đáng kể. Bất cứ khi nào Pushkin nhận thấy lỗ hổng trong từ vựng tiếng Nga, ông liền áp dụng cách dịch sao phỏng. Kho từ vựng dồi dào cùng phong cách vô cùng nhạy cảm của Pushkin đã trở thành nền tảng của văn học Nga hiện đại. Thành tự của ông đặt một cột mốc mới cho sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa Nga. Ông chính là cha đẻ của văn học Nga thế kỷ 19, ghi dấu đỉnh cao sự nghiệp vào thế kỷ 18 và khởi xướng sự tiến triển của văn học thế kỷ 19. Ông giúp nước Nga làm quen với các thể loại văn học phương Tây cũng như với những nhà văn Tây Âu. Ông dùng cách biểu đạt tự nhiên và ảnh hưởng ngoại quốc để tạo nên nền thơ ca Nga hiện đại. Dù cuộc đời ngắn ngủi, ông vẫn kịp để lại tác phẩm mẫu cho gần như mọi thể loại tồn tại lúc bây giờ: thơ trữ tình, thơ tự sự, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, nghị luận phê bình và còn cả thư cá nhân.

Với tư cách là nhà phê bình và nhà báo, tác phẩm của ông đánh dấu sự ra đời của nền báo chí Nga, trong đó phải nhắc tới công sức sáng lập và dày công đóng góp cho một trong số những tạp chí văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất thế kỷ 19, tờ Sovremennik (Современник, Người đương thời). Pushkin truyền nguồn cảm hứng cho truyện dân gian và thể loại của nhiều tác giả khác như Leskov, Yesenin và Gorky. Cách ông sử dụng tiếng Nga hình thành nên phong cách nền tảng của nhiều tiểu thuyết gia lớn như Ivan Turgenev, Ivan Goncharov và Lev Tolstoy, cũng như của các thi sĩ trữ tình đời sau như Mikhail Lermontov. Tác phẩm của Pushkin được học trò và người kế tục sự nghiệp của ông, Nikolai Gogol, cùng nhà phê bình vĩ đại người Nga Vissarion Belinsky, chú tâm phân tích. Belinsky cũng hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc nhất, toàn diện nhất, nhưng vẫn vô cùng xác đáng về các trước tác của Pushkin.

  1. ^ Vào những năm 1830, Puskin soạn cuốn tiểu thuyết về ngoại tổ phụ Abram Petrovich Gannibal, có nhan đề là Người nô lệ da đen của Pyotr đại đế. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết này đã không được hoàn thành vì ông bất ngờ tạ thế sau vụ đọ súng với Georges d'Anthes.
  2. ^ Lyceum hoàng gia là trường dành cho các ấm sinh quý tộc Nga từ cấp tiểu học cho tới trung học; học sinh theo học Lyceum thường có độ tuổi từ 8 tới 17.
  3. ^ Yevgeny Onegin là trứ tác dài nhất và nổi tiếng nhất của Puskin. Ông đã dày công viết trong gần tám năm (1823-1830). Sau Pyotr Tchaikovsky đã chuyển thể vở opera cùng tên.

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chân dung gần đúng Abram Petrovich Gannibal - ngoại tổ phụ A. Pushkin Chân dung gần đúng Abram Petrovich Gannibal - ngoại tổ phụ A. Pushkin
  • Thiếu tá Sergey Lvovich, cha A. Pushkin. Thiếu tá Sergey Lvovich, cha A. Pushkin.
  • Mẹ ông - phu nhân Nadezhda Osipovna. Mẹ ông - phu nhân Nadezhda Osipovna.
  • Tự họa, 1820s Tự họa, 1820s
  • Alexander Pushkin by Orest Kiprensky, 19327 Alexander Pushkin by Orest Kiprensky, 19327
  • Portrait of A. Pushkin by Pyotr Sokolov (1836) Portrait of A. Pushkin by Pyotr Sokolov (1836)
  • Portrait of A. Pushkin by Carl Mazer (1839) Portrait of A. Pushkin by Carl Mazer (1839)
  • "Pushkin's Farewell to the Sea" by Ivan Aivazovsky và Ilya Repin (1877) "Pushkin's Farewell to the Sea" by Ivan Aivazovsky và Ilya Repin (1877)
  • Duel of Alexander Pushkin and Georges d'Anthès Duel of Alexander Pushkin and Georges d'Anthès
  • Pushkin trên giường chết, họa phẩm Aleksandr Kozlov năm 1837 Pushkin trên giường chết, họa phẩm Aleksandr Kozlov năm 1837
  • Portrait of A. Pushkin by Konstantin Somov (1899) Portrait of A. Pushkin by Konstantin Somov (1899)
  • Pushkin's room while he was a student at the Tsarskoye Selo Lyceum Pushkin's room while he was a student at the Tsarskoye Selo Lyceum
  • Pushkin's writing table Pushkin's writing table
  • The vest Pushkin wore during his fatal duel in 1837. The vest Pushkin wore during his fatal duel in 1837.
  • Monument to Alexander Pushkin in Bakhchysarai, Crimea Monument to Alexander Pushkin in Bakhchysarai, Crimea
  • Alexander Pushkin statue, St. Petersburg, Russia Alexander Pushkin statue, St. Petersburg, Russia
  • 1 rouble, Alexander Pushkin, 1999 1 rouble, Alexander Pushkin, 1999
  • Phu nhân Natalya Pushkina-Lanskaya năm 1860. Phu nhân Natalya Pushkina-Lanskaya năm 1860.
  • Cháu nội A. Pushkin năm 1874. Cháu nội A. Pushkin năm 1874.
  • Tượng Pushkin, Chopin và Hồng quân bị người chống Soviet bôi bẩn tại Poznań. Tượng Pushkin, Chopin và Hồng quân bị người chống Soviet bôi bẩn tại Poznań.

Ảnh hưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong bài ai điếu Pushkin, Vladimir Odoyevsky đã gọi nhà thơ quá cố là "Mặt trời trong nền thơ ca của chúng ta", từ đó về sau, người ta thường ca ngợi Pushkin như là "Mặt trời của thi ca Nga". Trong bài viết "Vài lời về Pushkin" (thập niên 1830), nhà văn Nikolai Gogol viết rằng: "Pushkin là một hiện tượng phi thường, và có lẽ, là hiện thân duy nhất của tinh thần Nga: đó là con người Nga trong quá trình phát triển, có lẽ hai trăm năm mới xuất hiện một lần." Nhà triết học, nhà phê bình văn học danh tiếng Belinsky khẳng định Pushkin là "thi sĩ đầu tiên, nghệ sĩ đầu tiên của nước Nga". Tiểu thuyết gia vĩ đại Dostoevsky viết rằng: " Với Onegin, với những thi phẩm bất tử và xuất chúng, Pushkin đích thực là tác gia vĩ đại của đất nước, chưa từng xuất hiện trong lịch sử dân tộc." Lời ca ngợi ngắn gọn nhưng toàn diện nhất về Pushkin có lẽ đến từ nhà thơ Nga Apollon Grigoriev: "Với chúng ta, Pushkin là tất cả".

  • Năm 1929, nhà văn Soviet, Leonid Grossman xuất bản tiểu thuyết Kí sự d'Archiac kể về cái chết của Pushkin từ góc nhìn của một nhà ngoại giao người Pháp, người chứng kiến cuộc đọ súng sinh tử của Pushkin. Cuốn sách miêu tả Pushkin như một người theo chủ nghĩa tự do và là nạn nhân của chế độ Nga hoàng. Ở Ba Lan, cuốn sách này được xuất bản dưới cái tên Cái chết của một nhà thơ.
  • Năm 1937, thành phố Tsarskoye Selo (Hoàng Thôn) được đổi tên thành thành phố Pushkin để tôn vinh nhà thơ vĩ đại.
  • Một số bảo tàng ở Nga trưng bày về Pushkin, bao gồm hai bảo tàng ở Pushkin, một ở Sankt-Peterburg và một tổ hợp bảo tàng lớn ở Mikhaylovskoye.
  • Cái chết của Pushkin được kể lại trong bộ phim dã sử Pushkin. Ngày quyết đấu, do Natalya Bondarchuk đạo diễn và Sergey Bezrukov thủ vai Pushkin.
  • Pushkin Trust được thành lập năm 1987 bởi nữ công tước Abercorn nhằm tưởng nhớ di sản sáng tạo và tinh thần của tổ tiên, cũng như kích thích sức sáng tạo và trí tưởng tượng của trẻ con Ireland thông qua việc cho chúng có cơ hội biểu đạt suy nghĩ, tình cảm và trải nghiệm.
  • Một tiểu hành tinh được nhà thiên văn học Xô viết Nikolai Chernykh phát hiện năm 1977, được vinh dự mang tên ông - 2208 Pushkin. Một miệng hố trên Sao Thủy cũng được đặt theo tên Pushkin.
  • MS Aleksandr Pushkin là con tàu Nga thứ hai thuộc lớp Ivan Franko (cũng thường được gọi là tàu lớp "thi sĩ" hoặc "văn sĩ").
  • Một nhà ga tàu điện ngầm ở Tashkent được đặt theo tên ông.
  • Đồi Pushkin và hồ Pushkin nằm ở quận Ben Nevis, địa hạt Cochrane, Ontario, Canada.
  • Từ năm 2010, Ngày Nga ngữ Liên hợp quốc, được Liên hợp quốc tổ chức hàng năm nhằm 06 tháng 6, đúng sinh nhật Pushkin.
  • Một bức tượng Pushkin được dựng bên trong Vườn Mehan ở Manila, Philippines để kỷ niệm quan hệ Philippines-Nga vào năm 2010.
  • Kim cương Alexander Pushkin, viên kim cương lớn thứ hai tìm thấy trên lãnh thổ Nga và Liên Xô trước đây, được đặt theo tên ông.
  • Vào ngày 28 tháng 11 năm 2009, Đài tưởng niệm Pushkin được dựng ở Asmara, thủ đô Eritrea.
  • Năm 2019, sân bay quốc tế Sheremetyevo của Moskva được đặt tên Pushkin, thuận theo kết quả của cuộc thi Những tên tuổi Nga vĩ đại.

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nikolai Karamzin
  • Nikolai Gogol
  • Mikhail Lermontov

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Basker, Michael. Pushkin and Romanticism. In Ferber, Michael, ed., A Companion to European Romanticism. Oxford: Blackwell, 2005.
  2. ^ Short biography from University of Virginia Lưu trữ 2019-04-01 tại Wayback Machine, retrieved on ngày 24 tháng 11 năm 2006.
  3. ^ Allan Reid, "Russia's Greatest Poet/Scoundrel", retrieved on ngày 2 tháng 9 năm 2006.
  4. ^ "Pushkin fever sweeps Russia". BBC News, ngày 5 tháng 6 năm 1999, Retrieved ngày 1 tháng 9 năm 2006.
  5. ^ "Biographer wins rich book price". BBC News, ngày 10 tháng 6 năm 2003, Retrieved ngày 1 tháng 9 năm 2006.
  6. ^ Biography of Pushkin at the Russian Literary Institute "Pushkin House". Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2006.
  7. ^ Maxim Gorky, "Pushkin, An Appraisal". Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2006.
  8. ^ Лихауг [Lihaug], Э. Г. [E. G.] (tháng 11 năm 2006). “Предки А. С. Пушкина в Германии и Скандинавии: происхождение Христины Регины Шёберг (Ганнибал) от Клауса фон Грабо из Грабо [Ancestors of A. S. Pushkin in Germany and Scandinavia: Descent of Christina Regina Siöberg (Hannibal) from Claus von Grabow zu Grabow]”. Генеалогический вестник [Genealogical Herald].–Санкт-Петербург [Saint Petersburg]. 27: 31–38.
  9. ^ Lihaug, Elin Galtung (2007). “Aus Brandenburg nach Skandinavien, dem Baltikum und Rußland. Eine Abstammungslinie von Claus von Grabow bis Alexander Sergejewitsch Puschkin 1581–1837”. Archiv für Familiengeschichtsforschung. 11: 32–46.
  10. ^ (tiếng Nga) P. K. Guber. Don Juan List of A. S. Pushkin. Petrograd, 1923 (reprinted in Kharkiv, 1993). Pages 78, 90–99.

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Các tác phẩm của Aleksandr Pushkin tại Dự án Gutenberg
  • Các tác phẩm của hoặc nói về Alexander Sergeyevich Pushkin tại Internet Archive
  • Tác phẩm của Aleksandr Sergeyevich Pushkin trên LibriVox (sách audio thuộc phạm vi công cộng)
  • Alexander Pushkin poetry (rus)
  • Biographical essay on Pushkin. Lưu trữ 2012-10-21 tại Wayback Machine By Mike Phillips, British Library (Pdf).
  • The Pushkin Review Lưu trữ 2021-02-25 tại Wayback Machine, annual journal of North American Pushkin Society. Truy cập 2010-10-19
  • English translations of Pushkin's poems Lưu trữ 2021-02-28 tại Wayback Machine Retrieved 2013-04-26
  • Пушкин, Александр Сергеевич trên DMOZ
  • Сказка о рыбаке и рыбке, Спб., Берлин: Издательство З. И. Гржебина, 1922, на сайте «Руниверс»
  • Фундаментальная электронная библиотека «Русская литература и фольклор»
  • Информационно-справочный портал «А. С. Пушкин»
  • Сочинения А. С. Пушкина в старой орфографии
  • Хронологическая таблица Пушкин А.С Lưu trữ 2009-07-05 tại Wayback Machine
  • Предки А. С. Пушкина до 14-го поколения
  • Галерея рисунков и портретов, сделанных Пушкиным в своих произведениях Lưu trữ 2013-06-14 tại Wayback Machine
  • Цявловская Т. Г. Рисунки Пушкина Lưu trữ 2011-01-28 tại Wayback Machine
  • Пушкин и Лермонтов. История отношений
  • Г. И. Ганзбург. Стихотворение А. С. Пушкина «19 октября 1827» и трактовка его смысла в музыке А. С. Даргомыжского. — Харьков, 2007. ISBN 966-7950-32-8
  • Динамические модели ритмики пушкинского стиха
  • Сборник статей «Александр Сергеевич Пушкин: Путь к православию» Lưu trữ 2011-09-17 tại Wayback Machine
  • А. С. Пушкин в Одессе Lưu trữ 2016-03-12 tại Wayback Machine
  • Официальный сайт Музея-усадьбы «Остафьево» — «Русский Парнас» Lưu trữ 2009-08-09 tại Wayback Machine
  • Тригорские друзья А. С. Пушкина. История усадьбы Тригорское Псковской губернии Lưu trữ 2011-03-17 tại Wayback Machine
  • Пушкинское село Большое Болдино Lưu trữ 2011-03-06 tại Wayback Machine
  • 200-летию Пушкина посвящается. Журнал «Летопись Причерноморья» № 2
  • Пушкин: зачёркнутый профиль. Опыт психографии. Биографический очерк писателя и психолога Владимира Леви.
  • English translation of "The Tale of the Female Bear" Lưu trữ 2021-03-08 tại Wayback Machine
  • List of English translations of Eugene Onegin with extracts
  • List of English translations of The Bronze Horseman with extracts
  • Alexander Pushkin. Mozart and Saliery in English
  • Alexander Pushkin. Boris Godunov in English
  • Alexander Pushkin. The Bronze Horseman in English

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: Aleksandr Sergeyevich Pushkin
  • Tư liệu liên quan tới Aleksandr Pushkin tại Wikimedia Commons
  • Hà Nội đón nhận tượng thi hào Pushkin[liên kết hỏng]
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BIBSYS: 97000967
  • BNC: 000093813
  • BNE: XX910058
  • BNF: cb12007375v (data)
  • CANTIC: a10141716
  • CiNii: DA00383486
  • GND: 118641816
  • ICCU: Italy
  • ISNI: 0000 0001 2137 2055
  • LCCN: n80036579
  • LNB: 000011860
  • NDL: 00453465
  • NKC: jn19990210513
  • NLA: 36246179
  • NLG: 231773
  • NLI: 000195504
  • NLK: KAC199622271
  • NLP: a0000001181049
  • NLR: [2]
  • NSK: 000043891
  • NTA: 068556977
  • PLWABN: 9810702870405606
  • RERO: 02-A000134048
  • RSL: 000080362
  • SELIBR: 85223
  • SNAC: w65d8s4v
  • SUDOC: 028188012
  • Trove: 1090906
  • ULAN: 500324476
  • VcBA: 495/124769
  • VIAF: 66477450
  • WorldCat Identities (via VIAF): 66477450

Từ khóa » Cuộc đời Puskin