Bài “phi Lai Tự Phú” Của Nguyễn đăng (1576 -?)
Có thể bạn quan tâm
NGUYỄN THẾ DOANH- Nhà giáo ưu tú - Bắc Ninh
NGUYỄN THỊ HUẾ- Tiến sĩ - Viện Văn học
Nguyễn Đăng người ở thôn Thuỷ, xã Đại Toán (tên Nôm là làng Tỏi) thuộc tổng Đại Toán, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh (nay là thôn Thuỷ xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, Bắc Ninh).
Ông sinh ngày 11 tháng Hai năm Bính Tý (3 -1576) thuộc triều Hậu Lê, đời vua Lê Thế Tông niên hiệu Gia Thái năm thứ tư.
Đời vua Lê Kính Tông, niên hiệu Hoằng Định năm thứ ba (1602) mở khoa thi Nhâm Dần, lấy đỗ Tiến sỹ 10 người. Khoa thi này ông đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Hoàng giáp. Khoa thi này không có Trạng nguyên. Từ thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu, nên gọi Tam nguyên Nguyễn Đăng (còn gọi là Trạng Tỏi).
Ông làm đến Hộ bộ Tả thị lang, tước Phúc Nham hầu đời vua Lê Kính Tông. Ông rất giỏi về thơ phú. Khi triều đình cử ông đi sang sứ Trung Quốc, người Trung Quốc rất phục tài ông (trích trong sách Lược truyện các tác gia Việt Nam của Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội, tr. 221, năm 1971, Trần Văn Giáp chủ biên).
Năm Hoằng Định Quý Sửu (1613), Nguyễn Đăng được triều đình cử đi sứ Trung Quốc, bấy giờ ở Trung Quốc thuộc triều nhà Minh, đời vua Minh Thần Tông, niên hiệu Vạn Lịch (từ năm thứ 37 đến 47). (Đối chiếu trong lịch 2000 năm của Nxb. Khoa học xã hội, Hà nội). Thời gian đi sứ là 10 năm. Đến năm thứ ba, vua Minh triệu tập sứ thần các nước ở Trung Quốc nhân ngày đại khánh, mở tiệc chiêu đãi các sứ thần, vua Minh chỉ thị cho các sứ thần mỗi người làm một bài thơ hoặc phú nói về chùa Phi Lai một thắng cảnh thiên nhiên ở Trung Quốc (một ngôi chùa tự nhiên ở đâu bay tới chỉ trong có một đêm nên chùa này có tên là Phi Lai tự). Hạn trong 5 ngày phải nộp bài để nhà vua ngự lãm. Các sứ thần và các quan văn trong triều mỗi người đều làm một bài, có hàng trăm bài. Mới hơn 2 ngày, ông Nguyễn Đăng đã làm xong bài Phú chùa Phi Lai (Phi Lai tự phú) và là người nộp bài đầu tiên. Đến ngày thứ 5 là ngày hạn nộp bài cuối cùng, hàng trăm bài thơ, phú được đệ trình lên nhà vua. Sau khi vua Minh và các quan to trong triều chấm và xếp loại, bài "Phú" của cụ Nguyễn Đăng, sứ thần Việt Nam làm là hay nhất, không bài nào bằng. Tất cả các sứ thần của các nước và các quan văn võ trong triều đình Minh đều rất cảm phục tài văn chương của ông. Vua nhà Minh và triều đình nhà Minh phong cho ông học vị "Lưỡng quốc Trạng nguyên" và mở tiệc yến chiêu đãi. Trong bữa tiệc, vua thử tài ông, ra cho ông một vế câu đối để ông đối lại thế nào cho hay. Vế đối nhà vua ra là: "Thập khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư phụ mẫu".
Ông ứng khẩu đối ngay là: "Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương".
Đôi câu đối này đối chọi từng chữ. Vế trên ba chữ "khẩu", "thập", "tâm" ghép lại thành chữ "tư" nghĩa là "nhớ" (nhớ nhà, nhớ nước, nhớ cha mẹ). Vế đối của Nguyễn Đăng thì ba chữ: "thốn", "thân", "ngôn" ghép lại thành chữ "tạ" nghĩa là "tạ trời, tạ đất, tạ nhà vua". Vua khen là rất hay. Vua cho ông được phép trở về nước trước thời hạn 7 năm. Trước khi ông về nước, vua cho thợ làm đồ sứ sản xuất ra một loại độc bình bằng sứ có hoa văn trang trí thật đẹp và viết bài Phi Lai tự phú của ông lên xung quanh lọ độc bình, để làm kỷ niệm tặng ông mang về nước, và trưng bày ở các biệt thự, lâu đài, danh thắng ở trong nước, không bán cho nhân dân mua.
Khi lên đường trở về nước, nhận chiếc độc bình nhà vua ban tặng, ông trân trọng mang về.
Về làng Hán Đà thuộc tổng Quảng Lãm huyện Quế Võ, trấn Bắc Ninh (nay là thôn Hán Đà, xã Hán Quảng, huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh) mở trường dạy học cho đến khi tạ thế. Không rõ ông mất năm nào (phần này phải xem gia phả cũ họ Nguyễn thôn Thuỷ làng Đại Toán xã Chi Lăng mới rõ được, vì ông Trưởng họ Nguyễn này là cháu đời thứ 15, 16 của Nguyễn Đăng vẫn còn và họ này rất đông con cháu). Sau khi ông mất, nhân dân làng Hán Đà lập đền thờ để tỏ lòng nhớ ơn. Ngôi đền xây dựng ngay trên nền nhà trường cũ khi ông dạy học.
Trải qua hơn 400 năm nhân dân Hán Đà vẫn lửa hương phụng thờ ông và vẫn giữ được chiếc độc bình cổ quí giá ấy. Qua nhiều cuộc biến cố thăng trầm, loạn lạc, binh đao của các triều đại từ khoảng năm 1650 tới nay, giặc giã tàn phá, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa qua, nhân dân Hán Đà vẫn bảo vệ và cất dấu được bảo vật ấy và một chiếc chuông lớn. Ngôi đền đã bị bị giặc Pháp đốt phá mất vào thời gian kháng Pháp 1946-1954.
Đến cuối năm 1992 và đầu năm 1993, nhân dân thôn Hán Đà mới xây dựng lại được ngôi đền mới để phụng thờ ông.
Năm 1938 cụ Nguyễn Thế Đống tự Long Cát là một thày giáo vừa dạy chữ Hán, vừa dạy Quốc ngữ ở trường Hưng học Tú Vy, cụ ở làng Chi Nội (nay là Tú Chi) xã Tân Chi, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh là một nhà giáo nho học uyên thâm đã dịch bài Phi lai tự phú của cụ Nguyễn Đăng từ bài Phú bằng âm Hán ra tiếng Việt nghĩa đúng theo âm chữ Hán và lại dịch theo thể "Phú". Bài này từ xưa tới nay các nhà khoa bảng, văn hào trong nước cũng không có ai dịch vì bài ghi trên chiếc độc bình lại để trong đền thờ Nguyễn Đăng, không ai đọc được bao giờ.
Đầu năm 1993, ngày 11 tháng 2 năm Quý Dậu, nhân dân làm lễ kỷ niệm ngày sinh nhật ông gọi là ngày hội đền hàng năm (Xuân tế) và khánh thành ngôi đền mới xây dựng xong.
Khi tới dự lễ, chúng tôi đã sao lục bài Phi lai tự phú cả âm Hán và cả bài văn dịch của cụ Long Cát Nguyễn Thế Đống dịch năm 1938. Cụ Đống đã mất năm 1973.
Để góp phần nhỏ bé vào kho tàng văn học Việt Nam và việc sưu tầm văn chương cổ điển, chúng tôi xin chân thành ghi lại nguyên văn bài Phi Lai tự phú bằng âm Hán của Trạng Nguyễn Đăng thời xưa và bài dịch theo thể phú của cụ Long Cát dịch năm 1938 để Viện Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia nghiên cứu.
PHI LAI TỰ PHÚ
(Âm Hán)
Đài phong tiến phúc.
Cúc mạn Từ ân.
Cửu chiếu Đoài thiên nhật nguyệt;
Trùng khôi Chấn đán Kiền Khôn,
Trí hiệu Phi lai, quán Tùng lâm chi tuyệt dị,
Quốc doanh Cực Lạc, đẳng hữu kiết dĩ trường tồn.
Tưởng kỳ vận thuộc Lưỡng triều, giáo tôn Phạn ngữ;
Sáng tu khám vũ chi thiền liên, nguy nghiệp danh tôn chi bàn cứ.
Kỷ lý hử, tha châu cách khứ, tư giới vu hà,
Nhất dạ gian, quảng lộ phi lai, nhân danh kỳ tự.
Đặc tiến: Chi viên hoành xướng,
Tĩnh địa khoát khai
Tịch diệt chi giang hoành quá giác,
Tu di chi phong trữ huyền nhai.
Hoàn bất cưu nhi tập chi công, uyển nhĩ hoàng kim cung điện,
Kiến như huy tư phi chi trạng, y nhiên bích ngọc lâu đài.
Thiên biệt hữu nhất hồ thế giới;
Địa hồn vô bán điểm trần ai.
Hoán luân yên hoạ đống diêu lương, tuệ nhỡn quang sinh chính giác;
Yếm cứ hồ châu manh ngọc hạm, sắc thân phổ hiệu Như lai
Nội tắc: Liên toạ huy hoàng,
Đàn hương phức úc.
Bối diệc huyên bảo tạng chân kinh,
Từ đăng chiếu hôn cù cư trúc
Cúng dư kệ bãi nhàn môn bằng đồng tử sán khai
Trà kiệt chung tàn, tĩnh viện nhậm lão tăng dạ túc
Đề thi chi bích thượng lưu hương,
Đính lễ chi đường trung tịnh ngọc.
Thanh hương song hạ, tứ tự khai Bát nhã chi hoa,
Lục ấm giáo tiền, thiên nhiên trưởng Chân như chi trúc.
Ngoại tắc: Quynh khai Giáp Ất;
Bi biệt cao đê.
Thức ngọc thản tằng tằng thanh kính;
Đạp quỳnh tiêu hộ hộ vân thê.
Bả truyền đài, đài thượng hữu từ,
Nhị tương bí hiên viên chi tử.
Bán vân đình, đình trung hữu ký, nhật duyên hài tôn khúc chi thê,
Tống khách chi hoa dung hoản tiếu,
Nghinh xuân chi sơn điểu huyền đề.
Bích giản hàm phún thuỷ chi long, cựu ô tận địch;
Hương tùng dẫn tỵ yên chi lạc, lão cán thường thê.
Tự Phi Lai chi cảnh trí,
Chân danh thắng chi tiêu đề.
Nhiên hậu tri:
Tự dĩ phụng Phật vi danh,
Phật hữu phi tiên chi thuật.
Huống tiên cư bích thuỷ, thanh sơn;
Nhi Phật tại từ vân tuệ nhật.
Thanh mạc thanh, Bồng lai Lãng uyển, trùng trùng bối khuyết dao cung,
Kỳ vưu kỳ, Thứu lĩnh Tào khê, tại tại bảo tàng kim quật.
Quyến tư vân, thiền tự Phi Lai;
Thi bỉ hựu vân tiêu cao xuất.
Lịch duyệt oanh hoa tuế nguyệt,Bồ đề địa thụ thực Bồ đề;
Chu hưu yến mạch quang âm, Đâu Suất thiên vũ triêm Đâu Suất.
Biến quan pháp giới chi tam thiên;
Thực thị danh lam chi đệ nhất.
Ức hựu luận chi
Sự dục kê vu cổ;
Lý đương nghiệm vu câm (kim).
Ta phù từ chi dị hoặc,
Phủ vãng tích chi nan tầm.
Phủ đãn truyền tư đức năng phi, quải không trương phượng thuý;
Nhĩ mạn thính trung tuỳ bị độ, cách ngạn hống kình âm.
Bỉ dĩ vật phối chi phu phụ;
Thử hà nhân hồn dữ thú cầm.
Tuy lý vô hư ảo chi ngôn, sắc thị không, không thị sắc;
Nhiên khách hữu đăng cao chi hướng, tâm tức Phật, Phật tức tâm.
Dư kim:
Hương hoả hài duyên‑;
Hoàng hoa dự tuyển.
Cửu trùng khâm phượng chiếu khẩu hàm;
Vạn lý khoái hồng trình dục chuyển.
Quan quang thượng quốc, ninh từ lịch lộ viễn khu,
Lữ tế trung đình, mật tiếp long lâu chi cận kiến.
Tự Bắc tài cước chước dương xuân;
Nhi nam dĩ tâm kỳ hiên miện.
Chu trung mãn song thanh phong nguyệt, túc khiếu vinh cung,
Bút hạ thu tứ cố giang sơn, tương đề phẩm biến.
Kim tắc:
Án bị lâm thanh viện;
Ngoạn cảnh thướng Phi Lai.
Hà dị hồ nhập Thiên Thai chi Lưu Nguyễn.
Thượng quốc Minh triều
Sứ thần Nam Việt:
Nguyễn Đăng
*
* *
Bắc Ninh tỉnh, Quế Dương huyện, Đại Toán xã.
Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng.
Bản dịch
BÀI PHI LAI TỰ PHÚ
Bản dịch bài: Phi Lai tự phú của Nguyễn Đăng nguyên âm chữ Hán, do cụ Long Cát Nguyễn Thế Đống dịch nghĩa ra theo thể phú, năm 1938.
Bài phú Chùa Phi Lai
Dịch giả: Long Cát Nguyễn Thế Đống
Bia Phúc rêu phong;
Miếu Từ mây phủ.
Soi cung Đoài hai bóng sáng thay!
Mở phương Chấn một vùng rộng đó.
Chùa Phi Lai cảnh ấy, lạ lùng nhất chốn tùng lâm;
Miền Cực lạc là đây, lâu đài sánh cùng vũ trụ.
Tưởng từ lúc triều Lương đã mở, Giáo phạn cùng đua;
Dãy khám dựng lên như ve đứng, chân liền sin sít.
Đầu non cao ngất như rồng bò, uốn khúc quanh co;
Bao dặm đường cảnh đẹp từ lâu, ngăn qua bến nước.
Trong một tối, đường xa bay tới, nên đặt tên chùa.
Chùa đây có:
Vườn Kỳ rộng rãi,
Đất Tịnh thênh thang.
Sông Tịch diệt mênh mông chạy dọc,
Núi Tu Di tót vót nằm ngang.
Thợ hoàn thành đông tựa chim cưu, cung điện vàng soi bóng lọng;
Dáng hoạ kiểu cong theo cánh chả, lâu đài ngọc dát sáng choang.
Trời có một bầu riêng cảnh thú;
Đất không một chút để trần vương.
Rực rỡ thay! Cột vẽ đường hoa, mặt chính giác long lanh như bó đuốc;
Đẹp đẽ lắm! Rèm châu cửa ngọc, thân Như Lai óng ánh tựa tô vàng.
Trong chùa thì:
Hoa sen toả ngát;
Hương xạ thơm rơi.
Kinh Bối diệp tụng khuây niềm tục;
Ngọn từ đăng soi sáng đường đời.
Khoá lễ sớm, tiếng kệ vừa im, ngỏ cửa sổ tiểu đi thấp thoáng;
Hồi chuông chiều, chén trà đã cạn, vào phòng trai sư ngủ thanh thơi.
Trên vách đề thơ đen nét mực;
Trong nhà sửa lễ trắng mâm xôi.
Ngoài cửa thơm tho, hoa Bát Nhã bốn mùa đỏ ối;
Trước thềm mát mẻ, trúc Chân Như nghìn thuở xanh tươi.
Ngoài chùa thì:
Đông Tây cửa tía;
Cao thấp bia xanh.
Mau gót ngọc trèo lên bậc đá;
Leo thang mây bước tới cung Quỳnh.
Đài bả truyền trên nền cao, con hiên viên hai voi cùng dấu kín;
Đình bán vân trong ghi tích cổ, vở Tôn Khác một vượn kết duyên lành.
Đưa khách hoa cười tươi trước gió;
Đón xuân chim hót váng trên cành.
Rửa sạch bụi trần, nước khe biếc rồng phun bay phơi phới.
Tránh qua mây khói, ngọn thông già hạc đỗ nhẹ tênh tênh.
Cảnh trí ấy từ khi bay đến;
Giang sơn này bởi đó lừng danh.
Thế mới biết:
Chùa để thờ Phật sẵn nơi;
Phật cũng tu tiên có thuật.
Người tiên vui thú, nước biếc non xanh;
Đức Phật rong chơi, mây Từ bóng nhật.
Trên dưới đền Dao cung Quảng, Bồng hồ Lãng uyển ngắm xinh thay!
Gần xa hố bạc hang vàng, Thức lĩnh Tào khê coi lạ thật!
Chùa đây từ ngọn gió đưa sang;
Núi nọ cũng từ mây cao ngất,
Từng bao độ chim oanh học nói, đất Bồ đề trồng cây Bồ đề;
Trải bao phen con én đưa thoi, trời Đâu Suất tuôn mưa Đâu Suất.
Khắp xem pháp giới cả ba nghìn;
Đây thực danh lam là thứ nhất.
Bàn cho kỹ:
Việc từ thuở trước,
Lý cát ngày nay.
Ngán nỗi lời phao dễ hoặc.
Tiếc rằng dấu cũ khôn hay.
Miệng vẫn đồn: Chùa vượt lưng không, vù vù cánh phượng;
Tai nghe nói: Chuông qua mặt nước, văng vẳng canh chầy.
Ân ái ta xem loài vật đó,
Chim muôn ai biết cái duyên này.
Phải chăng câu chuyện ảo huyền, sắc vẫn không, không vẫn sắc đó;
Nhưng mà khách du cao hứng, lòng cũng Phật, Phật cũng lòng đây.
Tới nay:
Hương lửa đẹp duyên,
Hoa vàng dự kín.
Chín lần vâng chiếu phượng gia ban;
Muôn dặm thuận cánh hồng thẳng tiến.
Nước người thăm thú, xa xôi vó ngựa ruổi đường đi;
Cửa khuyết nhờ ơn, gần gũi ngai rồng vào bệ kiến.
Đặt chân đất Bắc, đượm vẻ dương xuân;
Tỏ vẻ người Nam, rạng mầu hiên miện.
Trăng gió sẵn con thuyền mát mẻ, mặc sức ngâm nga;
Non sông thu ngọn bút dồi dào, tha hồ tả diễn.
Nay được rung cương vâng Thánh chỉ, lên Phật đài ngắm cảnh Phi Lai,
Khác gì hái thuốc tới Thiên Thai, gặp tiên tử như chàng Lưu, Nguyễn.
Phụng dịch ngày mùng 1 tháng 2 năm Mậu Dần (3- 1938).
Long Cát: Nguyễn Thế Đống
Vua Lê Kính Tông tặng ông Nguyễn Đăng, Chánh sứ Việt Nam khi bắt đầu khởi hành sang sứ Trung Quốc.
Kiền khôn hanh thái thuộc tam xuân.
Sứ tiết quang lâm hỷ sắc tân.
Binh hoán thập hàng ban Hán chiếu.
Uông dương tứ hải dật Nghiêu nhân.
Hung trung băng ngọc trần vô điểm.
Bút hạ châu cơ cú hữu thần.
Kim nhật tinh thiều hồi Bắc khuyết.
Tiễn diên bôi tửu mạc từ tần.
Dịch thơ :
Bóng thiều đầm ấm buổi ba xuân.
Cảnh tết đua vui tiễn sứ thần.
Chiếu Hán mươi hàng trăm vẻ quý.
Trời Nghiêu bốn bể một nhà thân.
Giá trong tuyết trắng lòng không tục.
Ngọc chuốt vàng chau bút có thần.
Xe ruổi hôm nay về Bắc khuyết.
Tiễn đưa trân trọng ý ân cần.
Dịch năm 1938. Long Cát: Nguyễn Thế Đống
Chánh sứ Nguyễn Đăng hoạ lại bài thơ trên của Vua Lê Kính Tông tặng
Vạn lý quan phong Bách Việt xuân.
Chướng yêu tiêu tán vật hoa tân.
Xa thư bất dị thành chu chế.
Phi dược nguyên đồng đại táo nhân.
Sảo tự thương minh lân hải thắc.
Vĩnh hoài chu điều điệu viêm thần.
Uý thiên sự đại vô cùng ý.
Tài nhập ân thi ký ngữ tần.
Nguyễn Đăng
Dịch thơ:
Muôn dặm vừa sang gặp tiết xuân.
Trời Nam tươi sáng cảnh thanh vân.
Xe thư một mối nguyên không khác.
Nòi giống nghìn năm thực rất thân.
Gần gụi đất đai liền bể biếc.
Xa xôi bờ cõi vững non thần.
Nhỏ to đôi nước đường cư xử.
Ý tứ trong thơ đã hoạ vần.
Dịch nôm năm 1938. Long Cát Nguyễn Thế Đống, Sao lục ngày 10 - 2 - Quý Dậu (1993)
Đan Hiên Nguyễn Thế Doanh.
Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.84-100
Từ khóa » Tót Vót Nghĩa Là Gì
-
'tót Vót' Là Gì?, Từ điển Tiếng Việt
-
Tót Vót Trong Tiếng Anh Là Gì? - English Sticky
-
Ngày Ngày Viết Chữ - Tót Vời Phong Tư Tài Mạo Tót Vời, Vào Trong ...
-
Từ điển Tiếng Việt "chót Vót" - Là Gì?
-
Nghĩa Của Từ Vót - Từ điển Việt
-
Vớt - Wiktionary Tiếng Việt
-
Lót Chữ Nôm Là Gì? - Từ điển Số
-
Hệ Thống Từ điển Mở, Từ điển Chuyên Ngành đa ... - MarvelVietnam
-
Hệ Thống Từ điển Mở, Từ điển Chuyên Ngành đa Ngôn ... - Phong Thủy
-
Thần Cây đa, Ma Cây Gạo… - Báo Công An Nhân Dân điện Tử
-
Từ Điển - Từ Vót Có ý Nghĩa Gì - Chữ Nôm
-
Sửa đổi - Wikisource