Bài Thơ: Chí Linh Sơn Phú - 至靈山賦 (Nguyễn Trãi - 阮廌) - Thi Viện

124.42Ngôn ngữ: Chữ HánThể thơ: PhúThời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn2 bài trả lời: 2 bản dịch5 người thíchTừ khoá: Chí Linh (2)
  • Chia sẻ trên Facebook
  • Trả lời
  • In bài thơ

Một số bài cùng từ khoá

- Linh sơn tạp hứng (Chu Văn An)

Một số bài cùng tác giả

- Trần tình bài 1- Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự- Tự thán bài 28- Mạn thành kỳ 2 (Bác sơn hương tẫn ngọ song hư)- Tự thán bài 24

Đăng bởi Vanachi vào 04/01/2007 16:41

Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng chưa có nguyên tác, xin mời xem 2 bản dịch.

Nếu bạn có thông tin về nguyên tác của bài thơ, xin mời gửi vào bình luận ở dưới.

Xếp theo: Ngày gửi Mới cập nhật

Trang 1 trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Gửi bởi Vanachi ngày 04/01/2007 16:41Có 1 người thích

Rồng thiêng dậy, bay rợp Lam KinhGiáo trời chỉ, dẹp tan bắc binhDựng nước thành công nhiều khó nhọcMiền Tây sông núi hẳn anh linhÔi! Vua ta tài thánh vũĐứng lên bốn phương kinh dinhVận nước gian truân, khổ tâm lo tínhThấy lẽ tất yếu của trời càng quyết chí để nghiệp thànhNhờ thế ngày nay Hồ Việt đưọc một nhà, mà núi này cũng lưu danh muôn thuởKhi nghĩa quân mới dấy là lúc thế giặc đương hăngAnh hào cả nước lưa thưa như lá thu gặp sươngChí nuốt giặc Ngô, ai Chủng, ai LãiMưu dựng nghiệp Hán, ai Bình, ai LươngVua ta ẩn náu núi này, đành bặt tăm hơi, bưng kín ánh sángVợ con lưu lạc, quân sĩ tha phươngTrong cảnh khốn vẫn bền lòng, vững tin ở ngày hưng vượngLấy giáo sắt làm áo mặc, lấy rễ lau làm quân lươngChí rộn ràng lo khôi phục, lòng u uất thật khôn lườngTưởng núi này lúc ấy khác nào đất Mang Đăng khi Hán hoàng khởi nghiệpBiết người, biết mình, khi mềm, khi mạnhChờ thời, rình mệt, giấu nhọn, che sắcGôi củi nằm gai, ngậm cay nuốt đắngLo rửa nhục trước, giành lại quê hươngTưởng núi này khi đó khác nào đất Cối Kê thời Việt vương ẩn náuThế rồi, thu nhặt tàn quân, nuôi dưỡng ân cầnTrong sửa chiến cụ, ngoài giả hoà thânQuyên tiền mộ lính, giết voi khao quânAi cũng thân người trên, chết cho người trưởng, cố sức để đền ânTừ đấy, luyện quân kén tướng, đánh địch ra kỳChết vinh hơn sống nhục, biết quân ta dùng đuợcLấy của giặc đánh giặc, thu quân lương vũ khíVẹn toàn vững kế, một mũi tên không để phíCầm Bành rạp đầu dâng đấtPhương Chính khiếp vía chạy dàiBèn giữ hiểm để lập côngLại nhiều phương lừa đánh địchĐêm lửa đốt, ngày cờ baySớm chiếm Đỗ Gia, giành thế tiện trên núi ấyTrước vượt Khả Lưu, đánh đắm địch trên sông nàyNhưng thịnh đức của vua ta ngày nay, chỉ quy mô rộnh lớn của Hán Cao Tổ mới sánh kịpCòn như Câu Tiễn, ngoài chí phục thù là đáng kể, thì trong muôn phần không so được với vua taĐến như: uy thần chẳng giết, đức lớn hiếu sinhNghĩ kế nước nhà trường cửuTha cho mười vạn hàng binhGây lại hoà hảo hai nướcDập tắt chiến tranh cho muôn đờiĐịch phải theo thượng sách: hai nước vẹn toàn dân được an ninhNhư thế thì thịnh đức của vua ta Cao tổ nhà Hán sao sánh kịpVua ta phải sánh ngang hàng với hai đế ba vương lừng danh thuở trướcThan ôi! Xưa nay đi lại, trăm đời nên nghĩNghiêu nổi dậy từ Đường hầu, Thuấn khởi dậy tự hàn viThành Thang dấy nghĩa nơi đất bạc, Thái vương khởi binh tại núi KỳNhiều hoạn nạn là nền dựng nướcLắm lo toan là gốc trị vìBiến cố trải nhiều thì suy nghĩ sâuMọi việc lo trước thì thành công kìNối nghiệp đế vương, không thể khác thếVậy thì vua ta dựng nghiệp thật đã tự núi này trở điCông cao đức cả của vua ta cũng sẽ cùng núi này hùng vĩ muôn đờiBèn cúi đầu chắp tay, dâng lời ca rằngTrời sinh vua thánh, đất dấy nghiệp vươngCàn khôn mờ mịt, vận hội phi thườngNhìn Linh Sơn cao vút, nhớ những ngày gian khổVỗ nghiệp vương bền vững, không một ngày xao lãngXin ghi thịnh đức vào đá, lưu truyền bất hủNgàn vạn đời sau, vẫn cùng trời đất dài lâu.

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 83.88Chia sẻ trên FacebookTrả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh

Gửi bởi Vanachi ngày 21/08/2008 08:57

Rồng thiêng bay chừ trên Lam Kinh,Giáo trời chỉ chừ ải Bắc yên.Sáng nghiệp thành công bao khó nhọc,Núi sông miền Tây thật là thiêng!Ôi! Vua ta tài thánh võ,Gánh việc bốn phương kinh doanh,Lao tâm khổ tứ, vận nước gian truân.Đã do trời mà biết thời,Lại cố chí để công thành.Nhờ thế ngày nay Hồ-Việt mới hoá một nhà,Mà núi này được thiên cổ lưu danh.Khi nghĩa binh mới nổi, thế giặc hoành hành,Cả nước anh hào như lá thu sương.Chí nuốt Ngô chừ, ai là Chủng? ai là Lãi?Mưu hưng Hán chừ, ai là Bình? ai là Lương?Vua ta giấu vết ở núi này, đành nín hơi để náu nương.Vợ con lưu ly, quân sĩ tan tác,Tuy khốn đốn mà lại hay, vì có điều sắp vẻ vang.Mang giáp trụ để che thân, lấy củ rau để làm lương.Chí hăm hở lo toan, lòng căm tức chẳng hề quên.Tưởng núi này lúc bấy giờ chừ khác nào núi Mang Đãng của vua Hán.Bởi biết người biết mình, hay yếu hay mạnh.Đợi thời chờ dịp,Giấu sắc giấu tài.Ăn thường nếm mật,Ngủ thường nằm gai.Lo rửa nhục cũ, khôi phục đất xưa,Tưởng núi này lúc bấy giờ chừ há chẳng giống núi Cối Kê dung Việt Vương hay sao?Rồi thu thập tàn quân, nuôi vỗ ân cần,Trong rèn chiến cụ, ngoài giả hoà thân,Bỏ vàng mộ lính, giết voi khao quân.Ai cũng mến vua mà liều chết,Ai cũng muốn ra sức để đền ân.Thế rồi luyện binh, kén tướng, mưu cao như thần,Sống nhục thà thác vinh, biết quân ta khả dụng.Lương thực khí giới do giặc cấp cho mình,Vạn toàn quyết thắng, một mũi tên không coi khinh.Cầm Bành dập đầu để hiến đất,Phương Chính đứt hơi mà hồn kinh.Liền giữ hiểm để lập công, lại dùng mưu để lừa địch,Đêm thì đốt lửa, ngày thì kéo cờ.Chiếm Đỗ Gia để tranh chỗ lợi,Qua Khả Lưu vượt sông để đánh đắm quân thù.Sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay.Chu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây.Đất Nghệ An chiếm lại, Tây Đô thu nhanh về tay.Gạo nước đón rước,Người theo đường đầy.Hào kiệt nghiến răng vì căm giận,Phụ lão nức nở thấy ngày nay.Tiếng quân ta ngày càng vang dậy,Giặc mỏi mệt ngày càng thua chạy.Trận Thị Cầu như ổ kiến làm đê vỡ,Trận Tốt Động như gió mạnh gãy cành cây.Trần Hiệp, Lý Lượng như dưới hố cọp sa,Vương Thông, Mã Kỳ như vạc sôi cá nhảy.Muôn dặm non sông thu phục lại,Đông Đô phường phố vẫn y nguyên.Lúc bấy giờ khác nào Hán Cao bốn mặt vây Cai Hạ.Thế mà lòng tham của giặc còn không nén,Đốc quân cả nước lại kéo đến.Chữa cháy thêm dầu, vui hoạ thích tai.Nên Liễu Thăng bỏ mạng mà Chi Lăng máu chảy,Mộc Thạnh trốn đêm mà Lãnh Câu đầy thây.Viện binh hai đạo chưa kịp trở gót mà đại bại,Thành giặc các nơi không đổ máu mà mở cửa ra hàng.Vẫy đuôi xin tha, thảm thiết kêu than.Lúc bấy giờ há lại chẳng giống Câu Tiễn vây Ngô Vương ở đài Cô Tô hay sao?Tuy nhiên quy mô to lớn của Hán Cao cũng giống như đức thịnh của vua ta ngày nay,Còn Câu Tiễn chỉ lo thoả chí phục thù há lại có thể muôn một sánh tày.Đến như thần võ không giết,Đức lớn hiếu sinh.Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước,Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh.Sửa hoà hiếu cho hai nước,Tắt muôn đời chiến tranh.Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh.Như thế thịnh đức của vua ta, há Hán Câo có thể sánh được, mà phải cùng khen với Nhị Đế, Tam Hoàng kia.Than ôi! Từ xưa đến nay,Trăm đời đổi thay.Nghiêu từ Đường hầu Thuần từ hàn vi,Thành Thang mở đầu từ núi Bạc,Thái vương dời sang đất Kỳ.Thế là bởi tai nạn nhiều là gốc dựng nước, lo nghĩ nhiều là cái nền mở nghiệp thánh.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 34.33Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Từ khóa » Bài Thơ Phú Núi Chí Linh