Nguyễn Trãi đánh Giặc Cứu Nước - Quansuvn

Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
Trang chủ diễn đàn Trợ giúp Đăng nhập Đăng ký
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Mười Một, 2024, 01:43:00 pm
1 Giờ 1 Ngày 1 Tuần 1 Tháng Vô hạn Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Lịch sử Quân sự Việt Nam > Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam > Cha ông ta đánh giặc (Quản trị: caytrevietnam) > Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 » Xuống « Trước Tiếp »
In
Tác giả Chủ đề: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước (Đọc 94700 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #260 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 05:40:35 pm »
PHỤ LỤC1. BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO2. PHÚ NÚI CHÍ LINH3. VĂN BIA VĨNH LĂNGBình Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú, Lam Sơn Vĩnh Lăng bi là ba bài văn hay, ghi được nhiều tư tưởng chính trị và quân sự của Nguyễn Trãi. Cả ba bài văn đều viết bằng chữ Hán, đã được nhiều người dịch ra tiếng Việt. Trong sách này, chúng tôi nhiều lần trích dẫn ba bài văn đó, và tham khảo những bản dịch trước, chúng tôi có dịch lại với ý muốn cho được sát với những ý của Nguyễn Trãi về chính trị và quân sự. Vậy chúng tôi in vào phần Phụ lục ba bản dịch, kèm theo bản phiên âm nguyên văn chữ Hán và chú giải, để bạn đọc tiện tham khảo và đối chiếu.N. L. B.BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO(Bản phiên âm chữ Hán)Đại thiên hành hóa, Hoàng thượng nhược viếtNhân nghĩa chi cử vụ tại an dânĐiếu phạt chi sư tất tiên khử bạoDuy ngã Đại Việt chi quốcThực vi văn hiến chi bangSơn xuyên chi phong vực ký thùNam Bắc chi phong tục diệc dịTự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốcDữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phươngTuy cường nhược thời hoặc bất đồngNhi hào kiệt thế vị thường phạpCố Lưu Cung tham công nhi thủ bạiTriệu Tiết hiếu đại nhi xúc vongToa Đồ ký cầm ư Hàm Tử quanÔ Mã hựu ế ư Bạch Đằng hảiKê chư vãng cổ quyết hữu minh trưngKhoảnh nhân Hồ chính chi phiền hàTrí sử nhân tâm chi oán bạnCuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dânNguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốcBÌNH NGÔ ĐẠI CÁO(ĐẠI CÁO ĐÁNH THẮNG GIẶC NGÔ)1Thay trời làm việc, nhà vua thường nói2 Làm việc nhân nghĩa, cốt để yên dânDấy quân đánh dẹp trước tiên trừ bạoXem như nước nhà Đại ViệtThật là văn hiến quốc gia3 Núi sông bờ cõi đã riêngPhong tục Bắc Nam cũng khácTừ Triệu, Đinh, Lý, Trần, mở mang dựng nướcCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, đứng vững một phươngTuy mạnh yếu có lúc khác nhauNhưng hào kiệt đời nào cũng cóCho nên Lưu Cung tham công mà thất bại4 Triệu Tiết hám rộng phải tiêu vong5 Cửa Hàm Tử đã bắt Toa ĐôBiển Bạch Đằng lại giết Ô Mã6 Việc xưa xem xét, chứng cớ còn rànhGần đây, nhân họ Hồ chính sự phiền hàKhiến trong nước nhân tâm oán hậnQuân cuồng Minh thừa dịp hại dânĐảng nguỵ gian manh tâm bán nước_________________________________________1. Ngô tức Minh, Chu Nguyên Chương là vua đầu nhà Minh đã nổi lên ở đất Ngô, sau khi diệt nhà Nguyên, đóng đô ở Kim Lăng là đất Ngô cũ, cho nên nhà Minh cũng gọi là nhà Ngô, nước Minh là nước Ngô, quân Minh là quân Ngô.2. Bài Bình Ngô Đại Cáo còn tới ngày nay là do một số sách cũ chép lại, như: Đại việt sử ký toàn thư, Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích, Ức Trai di tập của Dương Bá Cung, v.v... Các bản chép trong các sách thường có những chữ dùng không giống nhau. Sự khác nhau này chỉ là về lời văn, nó không làm thay đổi những ý chính và những sự việc chính trong bài văn. Thí dụ: câu đầu trong Bình Ngô Đại Cáo ở Hoàng Việt văn tuyển, chỉ có gọn hai chữ "cái văn" nghĩa là "từng nghe".3. Văn hiến thường được giải thích là văn hóa, văn minh. Ở đây, Nguyễn Trãi giải thích hai chữ văn hiến rất hay, bằng 10 câu văn liền ở dưới. Theo Nguyễn Trãi, một nước có văn hiến là một nước hình thành và tồn tại từ lâu đời, có giang sơn bờ cõi riêng biệt, có đời sống văn hóa xã hội riêng, có đời sống chính trị và một nhà nước hoàn toàn độc lập với các nước khác và có một truyền thống anh hùng, đã đánh thắng mọi cuộc xâm lược từ bên ngoài. Định nghĩa văn hiến như thế, thật là đầy đủ, xác đáng.4. Lưu Cung là vua Nam Hán cho quân sang xâm lược Việt Nam, đã bị Ngô Quyền đánh cho đại bại trên sông Bạch Đằng (năm 938).5. Triệu Tiết là tướng nhà Tống đã cùng Quách Quỳ đem quân sang xâm lược Việt Nam, bị danh tướng của ta là Lý Thường Kiệt đánh cho thất bại nặng nề trên khu vực sông Cầu và phải xin điều đình để được rút quân về nước.6. Toa Đô và Ô Mã Nhi là hai danh tướng của quân Nguyên xâm lược đã bị thất bại thảm hại trong những cuộc hành quân của chúng trên đất Việt Nam: Toa Đô bị chém lấy đầu tại trận, Ô Mã Nhi bị bắt sống, và sau bị giết ở ngoài biển.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #261 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 05:48:45 pm »
Hân thương sinh ư ngược diễm Hãm xích tử ư họa khanhKhi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạngLiên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niênBại nghĩa thương nhân, càn khôn cơ hồ dục tứcTrọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu nghiết diKhai kim trường tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào saThái minh châu tắc xúc giao long nhi cắng yêu thẩn hảiNhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tỉnhĐiễn vật chức thúy cầm chi võng laCôn trùng thảo mộc, giai bất đắc dĩ toại kỳ sinhQuan quả điên liên, câu bất hoạch dĩ an kỳ sởTuấn sinh linh chi huyết, dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nhaCực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũChâu lý chi chinh dao trùng khốnLư diêm chi trữ trục giai khôngQuyết Đông hải chi ba bất túc dĩ trạc kỳ ôKhánh Nam sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ácThần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dungDư, phấn tích Lam Sơn, thê thân hoang dãNiệm thế thù khởi khả cộng đáiThệ nghịch tặc nan dĩ câu sinhThống tâm tật thủ giả thùy thập dư niênThường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhậtPhát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thưNướng dân đen trên lò bạo ngượcVùi con đỏ dưới hố tai ương1 Dối trời lừa dân, kế quỉ đủ ngàn vạn cáchĐem binh gây hấn, tội ác đầy hai chục nămNghĩa nát, nhân tan, đất trời muốn dứtSưu cao, thuế nặng, đằm núi vét trơnXông pha nơi lam chướng, lên rừng sâu, phá núi đãi vàngLăn lộn với thuồng luồng, xuống biển cả liều thân mò ngọcSách nhiễu dân, lấy hươu đen khắp nơi cạm bẫyTàn hại vật, đòi chim biếc mọi chốn lưới dăngCây cỏ côn trùng không thể sốngKhốn cùng quan quả chẳng yên thân2 Hút máu nhân dân, lũ hung đồ miệng răng nhờn béoỨc người xây dựng, chỗ công tư dinh thự nguy ngaNơi châu huyện, sưu thuế mấy tròngChốn hương thôn, cửi thoi vắng lặngTát cạn nước Đông hải, không rửa sạch tanh hôiChặt hết trúc Nam sơn, chưa ghi đủ tội ác3 Thần người đều căm giận, trời đất chẳng dung thaTa, phát tích Lam Sơn, nương thân hoang dãQuyết chẳng đội trời cùng kẻ địchThề không chung sống với quân thùĐau lòng nhức óc, đã quá mười nămNếm mật nằm gai, chỉ đâu một buổiQuên ăn đầy giận, cố học sâu thao lược binh thư_______________________________________1. Dân đen, con đỏ hay thương sinh, xích tử đều là những tiếng để chỉ quần chúng lao khổ tức quảng đại quần chúng nhân dân trong thời đại phong kiến.2. Quan là goá vợ, quả là goá chồng.3. Ở thời đại chưa có giấy viết, người phương Đông dùng mảnh tre, mảnh trúc để ghi chép.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #262 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 05:56:17 pm »
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lýĐồ hồi chi chí, ngộ mị bất vongĐương nghĩa kỳ sơ khởi chi thờiChính tặc thế phương trương chi nhậtNại dĩ nhân tài thu diệpTuấn kiệt thần tinhBôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhânMưu mô duy ốc giả hựu quả kỳ trợĐặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đôngCố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp nhi hư tảNhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dươngDo kỷ chi tâm, thậm ư chửng nịchPhẫn hung đồ chi vị điễnNiệm quốc bộ chi do truânLinh sơn chi thực tận kiêm tuầnKhôi huyện chi chúng vô nhất lữCái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệmCố dư ích lệ chí dĩ tế vu gianYết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tậpĐầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâmDĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bịDĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳTốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tànDĩ chí nhân nhi dịch cường bạoBồ Đằng chi lôi khu điện xiếtXét xưa nghiệm nay, gắng tìm hiểu hưng vong mọi lẽChí lo khôi phục, thức ngủ không quênChính khi cờ nghĩa phất lênLà lúc thế giặc đương mạnhVậy mà tuân kiệt lưa thưa như sao sớmNhân tài lác đác tựa lá thu1 Bôn tẩu đó đây, ít kẻ đỡ đần2 Mưu mô bàn bạc, thiếu người giúp rậpMột niềm lo cứu nhân dân, những bực tức, miền Đông muốn tới3 Tha thiết đón xe hiền giả, hằng ngóng trông bên tả vẫn không4 Mong người hiền như trông biển cả mịt mùng Làm điều nhân là tự mình, phải gấp vội hơn cứu người bị đuốiGiận quân giặc vẫn chưa diệt đượcLo vận nước còn phải gian truânKhi Linh sơn lương cạn mấy tuầnLúc Khôi huyện quân không một lữ5 Ấy trời muốn thử ta trao nhiệm vụNên ta càng cố trí vượt gian nanGiơ gậy làm cờ, bốn phương dân cày tập hợp6 Rượu hòa nước lã, một lòng tướng sĩ cha con7 Lấy yếu thắng mạnh, nên bất ngờ tiến đánh Lấy ít địch nhiều, thường đặc phục ra kỳ8 Rốt cùng, lấy đại nghĩa thắng hung tàn Lấy chí nhân thay cường bạo9 Bồ Đằng sấm ran chớp giật____________________________________1. Về mùa thu, lá cây còn ít; về buổi sớm, sao mọc rất thưa. Nói nhân tài thưa thớt như lá thu, sao sớm, tức nói có ít quá.2. Bôn tẩu: Lo chạy ngược xuôi.3. Những bực tức, miền đông muốn tới, lấy ý một lời nói của Lưu Bang (Hán Cao tổ). Lưu Bang bị Hạng Vũ phong cho vào ở đất Tây Thục, Lưu Bang bực tức nói với Tiêu Hà: "Dư diệc dục đông nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hồ" (Ta cũng muốn tới miền đông, không thể yên chịu bực tức ở mãi đây được).4. Bên tả vẫn không: thời xưa, khi tiếp khách hay khi cùng ngồi, thì bên tả chỗ mình ngồi là để mời khách quý. Thời Chiến quốc, ở nước Nguỵ có một người hiền, ở ẩn là Hầu Doanh. Công tử nước Nguỵ cho người mang lễ vật trọng hậu tới mời ra giúp việc. Hầu Doanh từ chối không nhận. Công tử nước Nguỵ mở tiệc rượu, mời đông tân khách. Khi khách đã ngồi yên, công tử lên xe ngựa, thân đi mời Hầu Doanh, và để trống chỗ ngồi bên tả ở trên xe để đón Hầu Doanh cùng ngồi. Ý câu này Nguyễn Trãi muốn nói Lê Lợi khẩn khoản đón mời người hiền, nhưng người hiền tới còn ít.5. Mỗi tuần là mười ngày. Mỗi lữ là 500 quân. Linh sơn và Khôi huyện: xem trong sách (chương II, đoạn viết về 5 năm đầu của khởi nghĩa Lam Sơn).6. Dân cày là dịch chữ manh lệ trong nguyên văn. Manh là dân cày, lệ là phụ thuộc, nghèo hèn. Manh lệ có nghĩa là dân cày nghèo, tức quảng đại quần chúng nông dân.7. Rượu hòa nước lã: thời xưa, hai nước Sở và Tấn đánh nhau. Có người đem dâng vua Sở một vò rượu ngon. Vua muốn để toàn quân cùng hưởng, nhưng rượu có ít. Vua Sở liền đổ cả vò rượu xuống sông rồi bảo mọi người cùng múc uống. Cảm động trước tinh thần đồng cam cộng khổ đó, quân sĩ càng nức lòng chiến đấu và đã đánh thắng nước Tấn.8. Thường đặt phục ra kỳ: nguyên văn là "thường thiết phục dĩ xuất kỳ". Nếu bỏ chữ "xuất kỳ" không dịch, là bỏ một ý quân sự quan trọng của Nguyễn Trãi trong đoạn văn này. "Xuất kỳ" hay "ra kỳ" là một khái niệm quân sự cổ. Xuất kỳ nghĩa đen là ra kỳ binh, nghĩa rộng là biến hoá linh hoạt các phép đánh. Trong binh pháp xưa có nói: "thiện xuất kỳ giả, vô cùng như thiên địa, bất kiệt như giang hà; chung nhi phục thủy, nhật nguyệt thị dã; tử nhi phục sinh, tứ thời thị dã...", có thể dịch là “giỏi ra kỳ thì biến hoá vô cùng như trời đất, cuồn cuộn chảy như nước sông vô tận, hết rồi lại bắt đầu như mặt trời mặt trăng, đã qua rồi lại đến như bốn mùa thay đổi vậy...". Ở đây, Nguyễn Trãi đã dùng chữ "ra kỳ" theo nghĩa rộng của binh pháp xưa, để nói lên rằng nghĩa quân Lam Sơn đã giỏi vận dụng linh hoạt các cách đánh, phù hợp với tình huống cụ thể của từng trận đánh, để thắng giặc.9. Yếu đánh mạnh, ít đánh nhiều, đánh tập kích, đặt phục binh, ra kỳ binh nói ở đây, chỉ là những chiến lược chiến thuật chủ yếu của thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa, chứ không phải của toàn bộ cuộc khởi nghĩa. Nhưng, khi mới khởi nghĩa, tuy chỉ vận dụng những chiến lược, chiến thuật của chiến tranh du kích như vậy thôi, mà cuối cùng vẫn đánh thắng được hung tàn, đè bẹp được cường bạo, vì có đại nghĩa, có chí nhân. Đó là ý nghĩa của bốn câu văn này. Trong những giai đoạn sau của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, chiến lược chiến thuật đánh địch ngày càng linh hoạt, phong phú, không chỉ đánh địch bằng phục kích, tập kích, mà còn đánh vận động, đánh trận địa, đánh thành và nhiều khi lấy mạnh thắng yếu, lấy nhiều đánh ít.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #263 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 06:00:22 pm »
Trà Lân chi trúc phá khôi phiSĩ khí dĩ chi ích tăngQuân thanh dĩ chi đại chấnTrần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ pháchLý An, Phương Chính, suyễn tức dĩ thâu sinhThừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vi ngã hữuTuyển phong tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cươngNinh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lýTốt Động chi thi mãn dã, di xú thiên niênTrần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký khiêu kỳ thủLý Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thiVương Thông lý loạn nhi phần giả ích phầnMã Anh cứu đấu nhì nộ giả ích nộBỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vongNgã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuấtVị bỉ tất cải tâm nhi dịch lựKhởi ý phục tắc nghiệt dĩ tốc côChấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhânTham nhất thời chi công, nhi di tiếu ư thiên hạToại sử Tuyên Đức ư giảo đồng, độc binh vô yếmViên mệnh Liễu Thăng chi nọa tưởng, dĩ du cứu phầnĐinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng ký dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiếnBản niên bản nguyệt Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân Nam nhi laiTrà Lân trúc chẻ tro baySĩ khí càng tăngQuân thanh càng mạnhTrần Trí, Sơn Thọ, nghe tin mất víaLý An, Phương Chính, nín thở tháo thânThừa thắng đuổi dài, Tây Kinh đã thuộc về ta1 Tuyển quân tiến thẳng, Đông Đô cũng thu hết đấtNinh Kiều máu chảy thành sông, trôi tanh muôn dặmTốt Động thây phơi đầy nội, để thối ngàn thu2 Tâm phúc giặc, Trần Hiệp bêu đầuSâu mọt dân, Lý Lượng bỏ xácVương Thông hòng gỡ rối, thua vẫn hoàn thuaMã Anh muốn cứu nguy, tức càng thêm tức3 Nó đến lúc chí cùng lực kiệt, nên phải đành chờ chết bó tayTa mưu dẹp bằng đánh vào lòng, không chiến trận mà địch phải khuất4 Những tưởng chúng sửa lòng đổi nghĩNào hay chúng còn gây ác ra taiHợm mình một ý, vẫn muốn gieo vạ nước ngườiTham công một thời, chỉ để mua cười thiên hạKhiến Tuyên Đức trẻ ranh cùng binh độc vũ quá5 Sai Liễu Thăng tướng nhát, chữa cháy đổ dầu thêmTháng chín Đinh Mùi, Liễu Thăng đưa quân, do Khâu Ôn tiến xuốngCũng năm tháng ấy, Mộc Thạnh chia đường, tự Vân Nam kéo sang_____________________________________1. Tây Kinh tức Thanh Hóa, nơi có thành Tây Đô.2. Trong Chí Linh Sơn Phú, Nguyễn Trãi tả trận Ninh Kiều, Tốt Động bằng những ý khác: "Trận Ninh Kiều như đê vỡ kiến trôi. Trận Tốt Động như gió rung cây gãy”.3. Trong Chí Linh sơn phú, Nguyễn Trãi thuật lại tình cảnh bọn tướng địch lúc ấy bằng hai câu khác: "Trần Hiệp, Lý Lượng như hổ ngã hầm sâu, Vương Thông, Mã Kỳ như cá trong vạc cháy"4. Binh pháp cổ cũng nói tới ý này: ”... thiện dụng binh giả, khuất nhân chi binh, nhi phi chiến dã", hoặc "bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã", nhưng không nói rõ khi nào thì có thể không chiến trận mà địch phải khuất. Nguyễn Trãi nói rõ là khi địch đã chí cùng lực kiệt. Binh pháp có nói đó là phép đánh mưu "Thử mưu công chi pháp dã", nhưng không nói "mưu công", đánh mưu như thế nào. Nguyễn Trãi nói rõ mưu dẹp bằng đánh vào lòng "Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất". Đó là một ưu điểm, một sáng tạo trong tư tưởng quân sự của Nguyễn Trãi.5. Tuyên Đức là vua Minh, khi ấy còn ít tuổi.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #264 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 08:14:50 pm »
Dư tiền ký tuyển phục binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong Hậu hựu điệu kỳ binh tuyệt lộ dĩ đoạn kỳ thực Thập bát nhật Liễu Thăng ký vi ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dãNhị thập nhật Liễu Thăng hựu vi ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn Nhị thập ngũ nhật Bảo định Lương Minh trận hãm nhi táng khuNhị thập bát nhật thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn cảnhNgã tự nghênh nhận nhi giảiBỉ tức đảo qua tương côngKế nhi tứ diện thêm binh dĩ bao viKỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệtViên tuyển tì hưu chi sĩThân mệnh trảo nha chi thầnẨm tượng nhi hà thủy canMa đao nhi sơn thạch khuyếtNhất cổ nhi kình khoa ngạc đoạnTái cổ nhi điểu tán quân kinhQuyết hội nghĩ ư băng đêChấn cương phong ư khô diệpĐô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoảnThượng thư Hoàng Phúc diện phọc nhi tựu cầmCương thi tắc ư Lạng Sơn, Lạng Giang chi đồTiến huyết xích ư Xương Giang, Bình Than chi thủyPhong vân vị chi biến sắcNhật nguyệt thảm dĩ vô quangTa trước đặt phục binh giữ hiểm, đập nát tiền phongSau đưa kỳ binh đánh chặn, cắt đường lương thực1 Ngày mười tám, Liễu Thăng bị đánh, Chi Lăng trúng kếNgày hai mươi, Liễu Thăng bị bại, Mã Yên tan thâyNgày hai mươi lăm, Bảo định bá Lương Minh trận hãm bỏ mìnhNgày hai mươi tám, Binh thượng thư Lý Khánh kế cùng thắt cổTa đưa dao, tới đâu tan đấyGiặc quay giáo đánh lộn cùng nhauTiếp thêm quân bốn mặt bao vâyHẹn giữa tháng mười cùng diệt giặcLựa quân hùm gấuCử tướng vuốt nanhVoi uống mà cạn nước sôngDao mài mà mòn đá núi2 Đánh trống trận đầu, phanh thây kình ngạcĐánh trống trận nữa, tan tác chim muôngĐường kiến đục, đê lún vỡ toangCơn gió thổi, lá khô rụng trụiĐô đốc Thôi Tụ quỳ gối chịu tộiThượng thư Hoàng Phúc trói tay nộp mìnhLạng Sơn, Lạng Giang, thây chất đầy đườngXương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nướcMây gió âu sầu biến sắcTrời giăng thảm đạm mịt mờ________________________________1. Trong hai câu này, Nguyễn Trãi nói rõ việc dùng phục binh và kỳ binh để đánh thắng Liễu Thăng. Nếu không dùng chữ kỳ binh trong bản dịch thì không làm rõ được cái ý vận dụng phục binh, kỳ binh trong binh pháp xưa.2. Hai câu này, ý nói: voi nhiều tới mức có thể uống nước mà cạn cả sông, gươm dao nhiều tới mức mài vào đá mà mòn cả núi. Những ý này nói lên cái thế của nghĩa quân Lam Sơn lúc đó là lấy nhiều đánh ít, lấy mạnh thắng yếu, đánh vận động, đánh trận địa, đánh thành luỹ, chứ không chỉ lấy ít đánh nhiều và đánh tập kích, phục kích như thời kỳ đầu khởi nghĩa.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #265 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 08:19:05 pm »
Kỳ Văn Nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảmKỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lạn tạ bôn hội nhi cẩn đắc thoát thânLãnh Câu chi huyết chử lưu, giang thủy vị chi ô yếtĐan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồngLưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bạiCác thành cùng khấu diệc tương giải giáp dĩ xuất hàngTặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngã hổ khất lân chi vĩThần vũ bất sát, ngã diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâmTham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ, tiên cấp thuyền ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn kinh phách tánTổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinhBỉ ký úy tử tham sinh nhi tu hảo hữu thànhDư dĩ toàn quân vi thượng nhi dục dân đắc tứcPhi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễnỨc diệc cổ kim chi sở vị kiến vănXã tắc dĩ chi điện anSơn xuyên dĩ chi cải quánCàn khôn ký bĩ nhi phục tháiNhật nguyệt ký hối nhi phục minhVu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơVu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sĩÔ hô!Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công Tứ hải vĩnh thanh, đản bá duy tân chi cáo Bá cáo thiên hạ, hàm sử văn triBinh Vân Nam bị quân ta đánh chặn ở Lê Hoa, sợ mà vỡ mậtBọn Mộc Thạnh nghe quân Thăng thua to nơi Cần Trạm, bỏ chạy thoát thân1 Lãnh Câu máu chảy đầy dòng, nước sông nức nởĐan Xá thây chồng khắp núi, cỏ nội đẫm hồng2 Hai đạo cứu binh, chửa quay chân đã bạiCác thành giặc khốn, đều cởi giáp xin hàngTướng giặc cầm tù, vẫy đuôi cọp đói cầu thương hại3 Uy thần chẳng giết, thể lượng đất trời đức hiếu sinhTham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ, trước cấp hơn năm trăm thuyền, đã vượt biển, vẫn hồn kinh phách lạcTổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cho trên mấy nghìn ngựa, đã về nước, còn ngực đập chân runNó đã sợ chết tham sống, phải thành khẩn cầu hòaTa để cho giặc toàn quân4 mà dân ta được nghỉ Chẳng những là mưu kế cực sâu xa Mà cũng thật cổ kim chưa đã thấy Xã tắc từ đây vững yên Giang sơn từ nay đổi mới Càn khôn hết bĩ lại thái Nhật nguyệt hết mờ lại trong Mở rộng nền thái bình muôn thủa Rửa sạch điều hổ thẹn nghìn thuHỡi ơi!Một khi mặc giáp nước yên ngay5, sự nghiệp vẻ vang khôn sánh kịpBốn biển thanh bình dân hưởng mãi, lệnh truyền đổi mới sớm ban raBá cáo thiên hạ, ai nấy tỏ tường___________________________________1. Cần Trạm tức vùng Kép, Cần Dinh bây giờ, phía trên thị xã Bắc Giang chừng 20 ki-lô-mét.2. Lãnh Câu, Đan Xá là hai địa điểm ở gần ải Lê Hoa. Lê Hoa ở phía biên giới Hà Giang - Vân Nam.3. Chí Linh sơn phú cũng có 3 câu tương tự như 3 câu này.4. Ở đây Nguyễn Trãi đã mượn một câu có sẵn trong binh pháp cổ để nói lên chủ trương của ta lúc ấy là tha cho mười vạn hàng binh, để cho chúng được toàn quân về nước. Cố nhiên toàn quân này chỉ là toàn quân còn lại của chúng khi chúng đầu hàng. Binh pháp cổ có nói: “Phù dụng binh chi pháp, toàn quốc vi thượng, phá quốc thứ chi; toàn quân vi thượng, phá quân thứ chi; toàn lữ vi thượng, phá lữ thứ chi, v.v…” có thể dịch là "Phép dùng binh là: "Giữ được vẹn nước (địch) là thượng sách, phá nước (địch) là kém; giữ được vẹn quân (địch) là thượng sách, phá tan quân (địch) là kém, giữ được vẹn lữ (của địch) là thượng sách, phá tan lữ (của địch) là kém...", cho nên chúng tôi hiểu mấy chữ "Dư dĩ toàn quân vi thượng...” của Nguyễn Trãi trong bài này là Nguyễn Trãi muốn nói "ta theo thượng sách: để cho địch được toàn quân...” do đấy mà tha cho mười vạn hàng binh về nước. Như vậy hai chữ "toàn quân" ở đây là toàn quân địch, chứ không phải toàn quân ta. Hiện nay có bản dịch "Dư dĩ toàn quân vi thượng" là "Ta muốn toàn quân làm cốt” hoặc "Ta lấy toàn quân làm hơn”, theo cái ý "toàn quân" là toàn quân ta, không phải toàn quân địch. Nếu hiểu là toàn quân ta như thế thì trái với nghĩa câu "toàn quân vi thượng" của binh pháp cổ và có lẽ không đúng với ý của Nguyễn Trãi muốn diễn đạt ở đây.5. Nguyên văn chữ Hán "Nhất nhung đại định" là rút ra từ một câu trong Kinh Thư: "Nhất nhung y, thiên hạ đại định" có nghĩa là "Một khi mặc áo nhung, tức áo chiến, thì thiên hạ được bình yên". Cả một ý dài như vậy mà rút lại thành 4 chữ "Nhất nhung đại định" nên rất khó dịch. Có bản tạm dịch là "một mảnh nhung y" hay "một tấm nhung y", có bản dịch chệch ra là "một gươm đại định", v.v... Ở đây chúng tôi tạm dịch lại câu này với ý muốn giữ được ý chính của 4 chữ "nhất nhung đại định", mà không chú trọng được nhiều tới thể thức hành văn.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #266 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:08:36 pm »
CHÍ LINH SƠN PHÚThần long khởi hề phi Lam kinhThiên qua chỉ hề sóc tái thanhSáng nghiệp chi công thành bí tíTây thổ chi sơn xuyên hữu linhÊ ngã hoàng chi thánh vũĐương tứ phương chi kinh dinhQuốc bộ phương truân, tâm khốn lự hànhKý ư thiên nhi thủ tất, nãi lệ chí dĩ cánh thànhThử kim nhật sở dĩ hóa Hồ Việt vi nhất gia, nhi tư sơn đắc dĩ thiên cổ thùy danh dãĐương kỳ nghĩa binh sơ khởi, tặc thế phương trươngNhất quốc anh hào, thu diệp vẫn sươngChí thôn Ngô hề, thục Chủng thục LãiĐồ hưng Hán hề, thục Bình thục LươngNgã hoàng phương độn tích vu tư sơn, duy sản thái dĩ mai quangThê tử lưu ly, sĩ tốt tán vươngTuy xử khốn nhi ích hanh, tri tương hưng chi hữu tường Cung giới trụ dĩ vi y, thực thái căn nhi vi lương Chí cấp cấp ư đồ hồi, tâm uất uất nhi bất vươngPHÚ NÚI CHÍ LINHRồng thiêng dậy, bay rợp Lam kinh1 Giáo trời chỉ, dẹp tan Bắc binhDựng nước thành công nhiều khó nhọcMiền Tây2 sông núi hẳn anh linhÔi! Vua ta tài thánh vũĐứng lên bốn phương kinh dinh.Vận nước gian truân, khổ tâm lo tínhThấy lẽ tất yếu của trời, càng quyết trí để nghiệp thànhNhờ thế ngày nay Hồ Việt được một nhà, mà núi này cũng lưu danh muôn thuởKhi nghĩa quân mới dấy là lúc thế giặc đương hăngAnh hào cả nước lưa thưa như lá thu gặp sương3 Chí nuốt giặc Ngô, ai Chủng, ai LãiMưu dựng nghiệp Hán, ai Bình, ai Lương4 Vua tạ ẩn náu núi này, đành bặt tăm hơi, bưng kín ánh sángVợ con lưu lạc, quân sĩ tha phươngTrong cảnh khốn vẫn bền lòng, vững tin ở ngày hưng vượngLấy giáp sắt làm áo mặc, lấy rễ rau làm quân lương Chí rộn ràng lo khôi phục, lòng u uất thật khôn lường___________________________________1. Lam Kinh là Lam Sơn, quê của Lê Lợi, từ khi Lê Lợi lên làm vua, tại đó có xây dựng cung điện nên gọi là Lam Kinh.2. Miền tây, hay Tây thổ, Tây kinh, Tây đô đều chỉ miền Thanh Hóa thời bấy giờ.3. Mùa thu, lá cây bị khô rụng, gặp sương càng rụng nhiều. Ý câu này muốn nói anh hào cả nước ít ỏi quá.4. Thời xưa, ở Trung Quốc, nước Việt bị nước Ngô đánh chiếm, về sau vua nước Việt là Câu Tiễn được những người có tài là Văn Chủng, Phạm Lãi giúp sức, đánh thắng được nước Ngô, khôi phục được nước Việt. Khi nhà Hán khởi nghiệp, Lưu Bang cũng được những người có tài như Trương Lương, Trần Bình giúp sức, nên đánh được nước Tần, diệt được nước Sở, dựng nên cơ đồ đế vương ở Trung Quốc. Tới đây Lê Lợi cũng muốn có được những người tài như thế.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #267 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:11:07 pm »
Tưởng tư sơn ư thử thời hề, khởi bất tự hồ Hán hoàng chi tại Mang Đãng giả da Do kỳ tri bỉ tri kỷ, năng nhược năng cường Đãi thời tứ tệ, thu phong liễm mang Chẩm tân nhi ngọa, huyền đảm nhi thường Tư tuyết tiền sỉ, dĩ phục cố cươngTưởng tư sơn ư thử thời hề, khởi bất tự hồ Cối Kê chi thê Việt vương giả da Ký nãi thu kỳ tàn tốt, phủ dưỡng ích cần Nội tu chiến cụ, ngoại thác hòa thân Quyên kim mộ sĩ, sát tượng hưởng quân Nhân hoài thân thượng dĩ tử trưởng, tư dục hiệu lực dĩ thù ânƯ thị: luyện binh tuyển tướng, chế thắng xuất kỳSinh nhục tử vinh, tri ngã quân chi khả dụngHầu lương khí giới, giai nhân địch dĩ vi tiVạn toàn dĩ thủ, nhất thốc bất diCầm Bành khể tảng dĩ hiến địaPhương Chính hư hát nhi động nghiNãi cứ hiểm nhi lập côngHựu đa phương dĩ ngộ chiDạ tắc cử hoả, trú tắc trương kỳĐỗ Gia chi xâm địa tranh tiệnKhả Lưu chi độ giang trầm siLôi khu điện xiết, trúc phá khôi phiChu Kiệt hạm xa, Hoàng Thành bộc thiTưởng núi này lúc ây khác nào đất Mang Đãng khi Hán hoàng khởi nghiệp1Biết người, biết mình, khi mềm, khi mạnh Chờ thời, rình mệt, giấu nhọn, che sắc Gối củi nằm gai, ngậm cay nuôi đắng Lo rửa nhục trước, giành lại quê hương Tưởng núi này khi đó, khác nào đất Cối Kê2 thời Việt vương ẩn náuThế rồi, thu nhặt tàn quân, nuôi dưỡng ân cầnTrong sửa chiến cụ, ngoài giả hòa thânQuyên tiền mộ lính, giết voi khao quânAi cũng thân người trên, chết cho người trưởng, cố sức để đền ânTừ đấy, luyện quân kén tướng, đánh địch ra kỳ3Chết vinh hơn sống nhục, biết quân ta dùng đượcLấy của giặc đánh giặc, thu quân lương vũ khíVẹn toàn vững kế, một mũi tên không để phíCầm Bành rạp đầu dâng đấtPhương Chính khiếp vía chạy dàiBèn giữ hiểm để lập côngLại nhiều phương lừa đánh địchĐêm lửa đốt, ngày cờ baySớm chiếm Đỗ Gia, giành thế tiện trên núi ấyTrước vượt Khả Lưu, đánh đắm địch tại sông nàySấm ran chớp giật, trúc chẻ tro bayChu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây_______________________________________1. Mang Đãng: vùng núi ở Giang Tô. Lưu Bang trước khi dấy binh đánh Tần thường ẩn náu tại đây.2. Cối Kê là tên một dãy núi, khi Việt vương Câu Tiễn bị nước Ngô đánh bại, phải tới đó nương náu và xây dựng lại lực lượng, rồi cũng từ đó tiến ra khôi phục đất nước.3. "Xuất kỳ" hay "ra kỳ" là một khái niệm quân sự cổ. Xuất kỳ nghĩa đen là ra kỳ binh, nghĩa rộng là biến hoá linh hoạt các phép đánh. Trong binh pháp xưa có nói: "thiện xuất kỳ giả, vô cùng như thiên địa, bất kiệt như giang hà; chung nhi phục thủy, nhật nguyệt thị dã; tử nhi phục sinh, tứ thời thị dã...", có thể dịch là “giỏi ra kỳ thì biến hoá vô cùng như trời đất, cuồn cuộn chảy như nước sông vô tận, hết rồi lại bắt đầu như mặt trời mặt trăng, đã qua rồi lại đến như bốn mùa thay đổi vậy...". Ở đây, Nguyễn Trãi đã dùng chữ "ra kỳ" theo nghĩa rộng của binh pháp xưa, để nói lên rằng nghĩa quân Lam Sơn đã giỏi vận dụng linh hoạt các cách đánh, phù hợp với tình huống cụ thể của từng trận đánh, để thắng giặc.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #268 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:16:11 pm »
Nghệ An chi địa dĩ vi ngã hữuTây Đô chi tiệp, tật ư tiêu trìGiáp đạo hồ tương, lai giả như quiHào kiệt hàm phẫn dĩ thiết xỉPhụ lão cảm khấp nhi hư hiNgã chi quân thanh nhật dĩ ích chấnTặc chi bôn mệnh, nhật dĩ ích bìNinh Kiều chi băng đê hội nghĩTốt Động chi kính phong tồi nuyTrần Hiệp, Lý Lượng chi thâm khanh trụy hổVương Thông, Mã Kỳ chi phí đỉnh ngư nhiVạn Lý chi sơn hà khắc phụcĐông Đô chi thị tứ bất diĐương thử chi thời khởi bất tự hồ Hán Cao Cai Hạ tứ diện chi vi giả daNại hà, cuồng lỗ chi tham tâm bất trấpCử quốc chi viện binh phục laiDĩ du cứu phần, lạc họa hạnh taiLiễu Thăng tống tử nhi Chi Lăng lưu huyếtMộc Thạnh tiêu độn nhi Lãnh kinh tích hàiLưỡng lộ cứu binh, bất toàn chủng nhi câu bạiCác xứ tặc thành, bất huyết nhận nhi tự khaiTrạo vĩ khất lân, thành thiết khảm aiĐương thử chi thời khởi bất tự hồ Câu Tiễn chi khốn Ngô vương ư Cô Tô đài giả daĐánh Nghệ An, đất thuộc về taThắng Tây Đô, tin như bão dậyGiỏ cơm bầu nước, người xin theo đông như hội trẩyHào kiệt căm thù tức giận nghiến răngPhụ lão cảm khích mừng vui rơi lệTa quân thanh ngày càng lừng lẫyGiặc sinh mệnh ngày một hao gầyTrận Ninh Kiều như đê vỡ kiến trôiTrận Tốt Động như gió rung cây gãy1 Trần Hiệp, Lý Lượng, như hổ ngã hầm sâuVương Thông, Mã Kỳ, như cá trong vạc cháyNon sông muôn dặm đã thu lạiChợ búa Đông Đô chẳng đổi thayLúc đó khác nào Hán Cao tổ thuở trước bốn mặt đem quân bao vây Cai Hạ2 Vậy mà lũ giặc cuồng, lòng tham tối mắtĐưa viện binh bên nước sang đâyĐem dầu chữa cháy, lấy họa làm hayLiễu Thăng bỏ xác, Chi Lăng lai láng máu Mộc Thạnh trốn đêm, Lãnh kinh tràn ngập thâyCứu binh hai đạo, chân quay chưa kịp đã thua dàiThành giặc các nơi, đầu cúi chịu hàng không máu vấyThảm thiết kêu xin, vẫy đuôi van lạyLúc ấy khác nào Câu Tiễn bức khốn vua Ngô ở Cô Tô đài thuở trước_____________________________________1. Cùng một hình ảnh "đê vỡ, kiến tan", Nguyễn Trãi đã viết theo hai cách. Trong Chí Linh sơn phú, Nguyễn Trãi viết là "băng đê hội nghĩ”. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết là "hội nghĩ ư băng đê". Chúng tôi chưa nắm được thực ý của Nguyễn Trãi trong hai cách viết này. Trong Bình Ngô đại cáo, chúng tôi dịch theo ý "kiến đục vỡ đê” (quyết hội nghĩ ư băng đê). Trong Chí Linh sơn phú, chúng tôi dịch theo ý "đê vỡ kiến tan" (băng đê hội nghĩ). Cả hai ý này đều có nghĩa. Hiện nay, các bản dịch cũng thường dịch theo hai ý này.2. Cai Hạ là nơi Hạng Vũ bị Lưu Bang vây khốn.
Logged
chuongxedap Đại tá * Bài viết: 13434
Re: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước « Trả lời #269 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:17:08 pm »
Tuy nhiên Hán Cao tổ chi qui mô hoằng viễn, chính tự ngô hoàng kim nhật chi thịnhCâu Tiễn đặc thủ kỳ phục thù chi chí nhi dĩ, khởi túc dĩ nghĩ nghị kỳ vạn nhất tai Chí nhược, thần vũ bất sát, đại đức hiếu sinh Niệm quốc gia trường cửu chi kế Phóng thập vạn khất hàng chi binh Tu lưỡng quốc chi hòa hảo Tức vạn thế chi chiến tranh Toàn quốc vi thượng duy đồ tập ninh Thị tắc ngã hoàng chi thịnh đức, hựu khởi Cao tổ đồng nhật chi câu ngữ Tương dữ nhị đế tam vương nhi tịnh xưng giả dã Ta hồ, cổ vãng kim lai, bách thế khả suy Nghiêu hưng Đường hầu, Thuấn khởi trắc vi Thành Thang chi tai tự Bạc, Thái vương chi thiên vu Kỳ Cái đa nạn nãi hưng bang chi bản Nhi ân ưu thực khải thánh chi ky Lịch biến đa tắc tư lự thâm Kế sự viễn tắc thành công kỳ Đế vương chi hưng, mạc bất do tyNhiên tắc ngã hoàng hưng vương chi nghiệp, thực do thử sơn nhi sáng thủy Nhi ngã hoàng chi long công thịnh đức, trường dữ thử sơn nhi nguy nguy giả hồNãi bái thủ khể thủ nhi hiến ca viếtThiên khải thánh hề địa hưng vươngCàn khôn thảo muội hề vận tế phi thườngĐổ Linh Sơn chi nga nga hề, niệm tích nhật chi gian khổPhủ vương nghiệp chi du cơ hề, hà nhật năng vươngNguyện kỷ thịnh đức dĩ lặc trinh mân hề, vĩnh thuỳ bất hủCắng thiên cổ dữ vạn cổ hề, đồng thiên địa nhi trường cửu.Nhưng thịnh đức của vua ta ngày nay, chỉ quy mô rộng lớn của Hán Cao tổ mới sánh kịpCòn như Câu Tiễn, ngoài chí phục thù là đáng kể, thì trong muôn phần không so được với vua taĐến như: uy thần chẳng giết, đức lớn hiếu sinhNghĩ kế nước nhà trường cửuTha cho mười vạn hàng binhGây lại hòa hảo cho hai nướcDập tắt chiến tranh cho muôn đờiĐịch phải theo thượng sách: nước vẹn toàn1, dân được an ninhNhư thế thì thịnh đức của vua ta Cao tổ nhà Hán sánh sao kịpVua ta phải ngang hàng với hai đế ba vương2 lừng danh thuở trướcThan ôi! Xưa đi nay lại, trăm đời nên nghĩNghiêu nổi dậy từ Đường hầu, Thuấn khởi nghiệp tự hàn viThành Thang dấy nghĩa nơi đất Bạc, Thái vương khởi binh tại núi KỳNhiều hoạn nạn là nền dựng nước Lắm lo toan là gốc trị vì Biến cố trải nhiều thì suy nghĩ sâu Mọi việc lo trước thì thành công kỳ Nổi nghiệp đế vương, không thể khác thế Vậy thì vua ta dựng nghiệp thật đã tự núi này trở đi Công cao đức cả của vua ta cũng sẽ cùng núi này hùng vĩ muôn đờiBèn cúi đầu chắp tay, dâng lời ca rằngTrời sinh vua thánh, đất dấy nghiệp vươngCàn khôn mờ mịt, vận hội phi thườngNhìn Linh Sơn cao vút, nhớ những ngày gian khổVỗ nghiệp vương bền vững, không một ngày xao lãngXin ghi thịnh đức vào đá, lưu truyền bất hủNgàn vạn đời sau, vẫn cùng trời đất dài lâu_________________________________1. "Toàn quốc vi thượng” là chữ có sẵn trong binh pháp cổ (xem chú thích số 29) có nghĩa là "giữ được toàn vẹn nước địch là thượng sách". Ở đây, không thể hiểu "toàn quốc vi thượng" là "ta lấy việc giữ toàn vẹn nước địch, tức nước Minh, làm thượng sách", vì ta không đem quân sang đánh nước Minh, và Nguyễn Trãi cũng không nói là “Dư dĩ toàn quốc vi thượng", như đã nói "Dư dĩ toàn quân vi thượng" trong Bình ngô đại cáo. Nhưng nếu hiểu là "ta lấy việc giữ toàn vẹn nước ta làm thượng sách" hay "giữ vẹn nước là hơn” hoặc "chỉ cần vẹn đất" thì trái với nghĩa "toàn quốc vi thượng" của binh pháp cổ. Ở đây, chúng tôi hiểu Nguyễn Trãi muốn nói là ta buộc địch phải theo binh pháp xưa, lấy "toàn quốc vi thượng" tức "chúng phải rút quân về, lấy việc giữ toàn vẹn nước địch làm thượng sách”, do đấy mà nước ta an toàn, dân ta được nghỉ. Chúng tôi đã dịch theo ý đó.2. Hai đế ba vương (nhị đế, tam vương): nhị đế là Nghiêu và Thuấn. Tam vương là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng đế. Đây là tên những vua trong truyền thuyết Trung Quốc.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 » Lên
In
« Trước Tiếp »
Chuyển tới: Chọn nơi chuyển đến: ----------------------------- Thông tin chung ----------------------------- => Bảng tin => Chung sức xây dựng website ===> Trao đổi thông tin về sách ===> Mặt trận Wiki => Giúp đỡ tìm người ----------------------------- Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam ----------------------------- => Cha ông ta đánh giặc => Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tài liệu nước ngoài => Tự dịch => Văn học chiến tranh ----------------------------- Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc ----------------------------- => Từ thuở mang gươm đi mở cõi... => Quyết tử cho Tổ quốc... => Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước... => Anh ở biên cương... => Từ cây giáo đến khẩu súng... => Kiến thức quốc phòng ----------------------------- Máu và Hoa ----------------------------- => Một thời máu và hoa => Về người lính hôm nay => Hình ảnh - Kỷ vật => Về lại chiến trường xưa... ----------------------------- Văn hoá - Thể thao - Giao lưu ----------------------------- => Quán nước cổng doanh trại => Du lịch => Xem phim bãi => Văn công => Chiến sỹ khoẻ ----------------------------- Chợ xép ngoài rào doanh trại ----------------------------- => Hàng sách cũ
Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM
Loading...

Từ khóa » Bài Thơ Phú Núi Chí Linh