Bảo Tồn Và Phát Huy Các Lễ Hội Truyền Thống Của Dân Tộc Tày Huyện ...

Tóm tắt:

Lễ hội truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hóa, là sản phẩm tinh thần mang đặc trưng văn hóa tộc người, được hình thành và phát triển trong suốt quá trình lịch sử. Những năm qua, người Tày ở Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình đã có nhiều hoạt động để bảo tồn và phát huy các lễ hội truyền thống của dân tộc mình. Tuy nhiên, với tốc độ đô thị hóa nhanh, cùng xu thế giao lưu, hội nhập ngày càng sâu rộng, đã tác động không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. Lễ hội truyền thống của người Tày ở Đà Bắc vì thế, đang đứng trước nguy cơ thất truyền. Khôi phục, bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của người Tày ở Đà Bắc là việc làm cấp thiết, không chỉ để làm phong phú đời sống tinh thần của đồng bào, mà còn góp phần gìn giữ vốn di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc Tày. Qua việc nghiên cứu các lễ hội truyền thống của người Tày ở Đà Bắc, bài viết này đưa ra kiến nghị, đề xuất để khôi phục, bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống của người Tày ở huyện Đà Bắc trong giai đoạn hiện nay.

Từ khóa: Lễ hội truyền thống; Dân tộc thiểu số; Dân tộc Tày; Huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.

1. Đặt vấn đề Huyện Đà Bắc là huyện vùng cao của tỉnh Hòa Bình, có trên 5,5 vạn dân với nhiều dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, dân tộc Tày chiếm đa số với vốn văn hóa đa dạng, mang đậm bản sắc riêng vô cùng độc đáo. Người Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình có những lễ hội truyền thống phong phú, mang hơi thở của đời sống tâm linh, phản ánh nét văn hóa đặc trưng, tiêu biểu của dân tộc Tày, như: Lễ khai hạ, lễ cầu mưa, lễ mừng cơm mới, lễ cầu Mường, lễ cúng rằm, làm vía, đám cưới, đám ma... Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với xu thế giao lưu, hội nhập toàn diện hiện nay đã tác động không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. Các lễ hội truyền thống của người Tày ở Đà Bắc, vì thế, đang đứng trước nguy cơ thất truyền. Khôi phục, bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của người Tày ở Đà Bắc, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của đồng bào, gìn giữ di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc Tày là vấn đề quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

2. Tổng quan nghiên cứu

Đã có khá nhiều cuốn sách, công trình nghiên cứu, bài báo viết về dân tộc Tày ở Việt Nam, trong đó có nhắc tới lễ hội truyền thống của người Tày. Có thể kể tên một số công trình tiêu biểu như: “Văn hóa Tày, Nùng” (1984) của Hà Văn Thư, Lã Văn Lô, NXB Văn hóa; “Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam” (1992) của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học; “Văn hóa truyền thống Tày, Nùng” (1993) của Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Công Văn Lược, Vương Toàn, Văn hóa truyền thống Tày, Nùng”, NXB Văn hóa Dân tộc; “Từ điển thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày” (1994) của Hoàng Quyết, Triều Ân, NXB Văn hóa dân tộc; “Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày, Nùng” (1996) của nhiều tác giả, NXB Văn hóa dân tộc, 1996. Đặc biệt là cuốn “Đến với người Tày và văn hóa Tày” (2010) của TS. La Công Ý, NXB Khoa học xã hội - một công trình chuyên khảo công phu, đề cập một cách hệ thống về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Tày...

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đã đi vào khai thác những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa, văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa dân tộc Tày của nước ta, trong đó có lễ hội truyền thống. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Tày nói chung, nhằm giới thiệu về người Tày, những nét đặc sắc – cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Tày. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày, nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung, hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể; trong đó cũng đã đề cập đến thực trạng và giải pháp cho sự phát triển văn hóa dân tộc Tày, nhưng cũng chỉ là giải pháp mang tính định hướng chung cho các dân tộc thiểu số. Các công trình chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Tày ở góc độ văn hóa, mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của dân tộc Tày – nét văn hóa chứa đựng trong nó rất nhiều đặc trưng mang bản sắc con người và đời sống của dân tộc Tày.

Riêng ở tỉnh Hòa Bình, năm 2011, Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đã tiến hành thực hiện Đề tài khoa học “Điều tra văn hóa phi vật thể dân tộc Tày ở huyện Đà Bắc”. Kết quả nghiên cứu đã mang lại khá nhiều tư liệu về văn hóa dân gian truyền thống của nhóm người Tày ở huyện Đà Bắc. Tuy nhiên, lễ hội truyền thống của người Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình vẫn là một khoảng trống, chưa có công trình, đề tài nào đi sâu nghiên cứu. Thực tế cho thấy, đây là vấn đề rất cần thiết hiện nay nhằm phục vụ cho việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của vùng đất này, góp phần vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày ở Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận

3.1. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập thông tin: Tiến hành bằng cách phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu hỏi các hộ gia đình, cán bộ quản lý, các nghệ nhân ở địa phương để sưu tầm, ghi chép, tìm hiểu về lễ hội truyền thống của người Tày ở huyện Đà Bắc.

- Phương pháp kế thừa tài liệu thứ cấp: Chủ yếu là các báo cáo về công tác bảo tồn, phát huy lễ hội truyền thống của dân tộc Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình cùng với một số công trình nghiên cứu về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá phong tục, tập quán, lễ thức và lễ hội truyền thống của dân tộc Tày huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình.

- Phương pháp chuyên gia: Thông qua các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học, thảo luận nhóm, để thu thập các ý kiến chuyên sâu của các chuyên gia, nhà quản lý, cơ quan, ban ngành liên quan. Sau đó, dữ liệu được xử lý phục vụ việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng hệ thống lễ hội truyền thống của dân tộc Tày ở huyện Đà Bắc. Trên cơ sở đó đề xuất nội dung, giải pháp khôi phục, bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của dân tộc Tày tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.

2.2. Cách tiếp cận

- Tiếp cận hệ thống: Để thực hiện mục tiêu khôi phục, bảo tồn và phát huy các lễ hội truyền thống của dân tộc Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình cần đặt vấn đề trong hệ thống thể chế chính trị, pháp luật, quan điểm chỉ đạo... của Đảng và Nhà nước về vấn đề quản lý văn hóa.

- Tiếp cận xã hội học: Được triển khai để đánh giá thực trạng hệ thống các lễ hội truyền thống của dân tộc Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.

- Tiếp cận lịch sử - logic: Với cách tiếp cận này, việc đưa ra các giải pháp nhằm khôi phục, bảo tồn và phát huy các lễ hội truyền thống của người Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình cần được xem xét theo thời gian, trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

Đà Bắc là huyện nằm ở vị trí cực Bắc tỉnh Hoà Bình, phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp huyện Kỳ Sơn, phía Nam giáp huyện Mai Châu, phía Tây giáp tỉnh Sơn La, với diện tích 77.796ha. Huyện có địa hình đồi, núi, sông, suối xen kẽ tạo thành nhiều dải hẹp, bị cắt phá mạnh nên đất có độ dốc lớn (bình quân 350), chia thành nhiều thung lũng, dải đất nhỏ. Do vậy, mặc dù là huyện có diện tích đất tự nhiên lớn nhất trong tỉnh, nhưng diện tích đất nông nghiệp của Đà Bắc chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu là đất rừng.

Theo số liệu về tình hình kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế của huyện Đà Bắc chủ yếu dựa vào nông - lâm nghiệp. Trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 50%; dịch vụ thương mại, du lịch chiếm 35,5%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng chiếm 14,5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 13 triệu đồng/năm.

Về cơ cấu dân số, theo số liệu thống kê tính đến năm 2019, Đà Bắc có dân số 60.970 người với 05 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 22.103 người Tày (41,27%), 17.951 người Mường (33,52%), 7.337 người Dao (3,70%), 5.855 người Kinh (1,09%), 263 người Thái (0,49%) và 48 người thuộc các dân tộc khác (0,09%). Xã Mường Chiềng[1] được coi là thủ phủ của người Tày ở Đà Bắc. Văn hóa ở Đà Bắc là sự giao thoa của nhiều nền văn hoá khác nhau Tày, Thái, Mường, Kinh… tạo nên bức tranh văn hóa nhiều màu sắc.

4.2. Người Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

Theo các công trình nghiên cứu văn hóa đã công bố, trước đây người Tày ở Đà Bắc còn được gọi là người Thổ, là một nhóm người địa phương có nhiều nét tương đồng với văn hóa của Thái Tây Bắc Việt Nam như: Hệ sinh thái, hệ thống kỹ thuật canh tác, cơ cấu làng xã và thiết chế xã hội, kiến trúc, chữ viết, ngôn ngữ, trang phục, phong tục tập quán, tri thức dân gian và gia phả của các dòng họ rất lâu đời... Có thể khẳng định, dân tộc Tày ở Đà Bắc là một cộng đồng dân cư của dân tộc Thái du cư từ phía Bắc Lào - Lai Châu - Điện Biên - Sơn La xuống Hoà Bình.

Có giả thiết cho rằng, tên gọi dân tộc Tày có thể được biến âm theo ngôn ngữ gọi dân tộc Thái (Thài - Thày và đến nay được gọi là Tày) thuộc nhóm Tày Thái ở Việt Nam. Theo tác phẩm “Góp phần tìm hiểu văn hoá Hoà Bình” và “Góp phần tìm hiểu Văn hoá cổ truyền huyện Mai Châu”, người Tày Hoà Bình chính ra là nhóm người Thổ - Đà Bắc hoặc có nhóm người tự nhận là Tày Đón, nhưng lại có tác giả cho rằng là do một nhóm Thái Trắng tách ra tự nhận là Phú Tày (người Thái) hay Cần Tày.

Theo số liệu thống kê năm 1999, dân tộc Tày ở huyện Đà Bắc có 19.805 người, chiếm 40,6% tổng số dân của toàn huyện và chiếm 99,44% dân tộc Tày của toàn tỉnh, cư trú tập trung và sống xen kẽ với người Mường, người Dao ở một số xã vùng cao như: Tân Minh, Tân Pheo, Trung Thành, Đoàn Kết, Đồng Ruộng, Đồng Chum, Mường Tuổng, Mường Chiềng, Suối Nánh và Đồng Nghê. Người Tày sinh sống chủ yếu bằng nghề nông và tạo ra cho dân tộc mình một đặc trưng riêng trong hoạt động sản xuất đó là kinh nghiệm sản xuất khai thác các thung lũng hẹp, cách thức ứng xử và sử dụng nguồn nước chảy với nền kinh tế tự cung, tự cấp.

Cũng như người Thái trước năm 1945, cộng đồng người Tày ở Đà Đắc cùng chịu ảnh hưởng của chế độ Phìa, Tạo và các tù trưởng cai trị, sự phân cấp được thể hiện theo từng dòng họ, trên từng vùng đất, vùng lãnh thổ. Xã hội được phân cấp như sau: Đứng đầu là Tạo - Trưởng thôn , Lý - Cai xã - Mo theo dòng họ - Thày Thuốc (Tày dạ) - Dân.

Người Tày Đà Bắc có các họ Xa, Sa, Hà, Lường, Vì, Lò; dòng họ được coi là cao quý trong xã hội người Tày Đà Bắc là dòng họ Xa. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, nhân dân lao động đã được tự do, cơm no, áo ấm, bình đẳng, có đất đai để canh tác, chăn nuôi, xoá bỏ chế độ cai trị Phìa - Tạo, hay Lang đạo, thiết lập cơ quan chính quyền đại diện dưới sự lãnh đạo chung của Đảng, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, các dòng họ có quyền lợi bình đẳng như nhau

Xưa nay, đa số người Tày Đà Bắc không theo một tôn giáo rõ ràng, mà cũng giống như các dân tộc miền núi nông nghiệp khác trong khu vực có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (Ma nhà), họ tin và thờ lực lượng siêu nhiên mà thuật ngữ lĩnh vực này gọi là Phi (Ma). Các loại phi, gồm có: khoăn (phi khoăn) – hồn (linh hồn); phi hươn (tổ tiên). Ngoài ra người Tày Đà Bắc thờ cúng đa thần tạp loại như: Thờ Thành Hoàng, thờ thần núi, thần sông, thần đất, thần cây, các vua, Giàng, Then, thờ Bụt (Quan âm bồ tát). Các lễ thức của người Tày như làm vía, đám cưới, đám tang và trong các dịp như Tết nguyên Đán, lễ Khai hạ, lễ cầu mưa...

Trong cộng đồng người Tày Đà Bắc có vai trò của các Ông Mo (được coi là những người có quyền lực) đại diện cho các đấng siêu nhiên và là cầu nối giữa người sống với thế giới bên kia. Trong cộng đồng người Tày tồn tại có 02 loại Mo: Mo người sống chuyên làm lễ cho người sống như là vía, làm lễ trần và mo người chết làm lễ cho người chết (ma) có âm binh, có thánh sư hỗ trợ chỉ đường. Phong tục tập quán của Người Tày Đà Bắc được thể hiện qua các lễ thức trong đời người, quy ước cộng đồng, lễ hội.

Người Tày ở Đà Bắc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái của Việt Nam, về cơ bản tiếng nói của đồng bào ở đây cũng giống như tiếng nói của người Tày ở Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao Bằng… và đồng bào dân tộc Thái. Họ là một trong số ít các dân tộc thiểu số có chữ viết riêng. Bộ chữ Thái cổ đã có từ xa xưa, được nhiều người dân tộc Tày hiểu. Đó là bộ chữ tương đối hoàn chỉnh, được các thế hệ người Tày chấp thuận và sử dụng nó trong sinh hoạt gia đình, xã hội và cộng đồng người Tày ngày xưa. Trải qua năm tháng, trải qua các thế hệ, chữ Tày cổ vẫn được bảo tồn, vẫn được lưu truyền và trở thành di sản văn hóa quý giá.

4.3. Lễ hội truyền thống của người Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

Có thể nói, với sự xuất hiện lâu đời, người Tày Đà Bắc, Hòa Bình đã hình thành và tạo nên nét văn hóa riêng có. Người Tày Đà Bắc không có những lễ hội lớn như các vùng Thái khác trong khu vực, mà các lễ thức thường được tổ chức trong khuôn khổ gia đình và cộng đồng phạm vi nhỏ. Qua điều tra, khảo sát, người Tày ở Đà Bắc có một số lễ hội tiêu biểu sau:

4.3.1. Các lễ hội trong Tết Nguyên đán

Bắt đầu từ ngày 25 Tết đến ngày 30 Tết (thường là ngày 30 Tết), các gia đình người Tày ở Đà Bắc làm một số lễ:

- Lễ Gia Lay: Lễ vật khá đơn giản gồm, xấp vải, cơi trầu, mấy chiếc vòng bạc và 01 chén nước đặt trước bàn thờ. Chủ nhà thắp hương mời tổ tiên về nhà ngự, chờ con cháu làm lễ ăn Tết. Gia đình phải giữ hương, đèn cho thật kỹ, nếu hương, đèn tắt thì coi như tổ tiên đã đi mất.

- Lễ Gia Sênh: Gia đình sắm lễ gồm gà, lợn, cơm, xôi, rượu, trầu cau, vải và bạc, sắp ra 03 mâm cúng thổ công, ma tướng và ông Táo bếp để trên phản giữa nhà; sắp các mâm cùng các đấng bề trên nhà mình đời kế cận đã chết (Ma nhà), sau đó mời thầy về cúng. Mỗi lễ này được cúng khoảng 01 tiếng với ý nghĩa mời tổ tiên về ăn Tết, báo cáo kết quả làm ăn trong năm, cầu tổ tiên phù hộ cho năm mới.

- Lễ Khai hạ: Lễ Khai hạ cũng có nơi gọi là cúng tế (Sơ xệt), được lựa chọn từ ngày 01 Tết đến ngày ngày mùng 5 tháng Giêng âm lịch. Lễ này chỉ diễn ra trong một buổi sáng tại nhà thờ Thành hoàng bản thổ của làng. Tùy điều kiện và lệ làng, có những địa phương quy định cả làng tham gia đóng góp, có địa phương không bắt ai cũng phải mang lễ, mà gia đình nào có điều kiện thì làm, hoặc chỉ quy định cho một nhóm gia đình có điều kiện đứng ra tổ chức.

Trong lễ Khai hạ mâm cỗ chuẩn bị gồm: Thủ lợn, thịt gà, thịt thú r­ừng, xôi, bánh trưng, rượu, trầu cau. Buổi sáng ngày làm lễ, mọi người tập trung về nhà thờ Thành hoàng với các mâm cỗ đã được chuẩn bị. Các mâm cỗ được xếp ngay ngắn trên bàn thờ gồm những lễ vật được đóng góp. Sau đó ông mo sẽ ra cúng thần về chứng giám và phù hộ cho dân làng. Sau khi lễ kết thúc, các gia đình hạ cỗ, trong đó một phần để lại cho thầy mo và đại diện mỗi gia đình ở lại để liên hoan, phần còn lại đ­­ược đem về nhà. Chiều dân làng cùng trai gái tổ chức xòe và các trò chơi dân gian (ném còn, đánh đu).

4.3.2. Lễ cầu mưa (Ca lăn khăm)

Lễ cầu mưa của người Tày ở Đà Bắc đ­­ược tổ chức vào tháng 6 Âm lịch hàng năm với ý nghĩa là cầu mong m­­ưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Lễ cầu mưa đ­ược tổ chức tại nhà thờ Thành hoàng bản thổ của làng trong một ngày, là lễ duy nhất mà cả làng đều tham dự. Trong lễ này, ông thờ ma tà áo là ng­­ười quan trọng, bởi thay mặt cho cả làng bản cầu các thần về chứng giám, phù hộ cho làng. Ông thờ ma tà áo là ng­­ười trong dòng họ có công đến đây sớm và khai hoang lập ấp ở vùng đất này. Ng­­ười đứng đầu dòng họ đó đư­­ợc dân làng tôn làm Thành hoàng làng.

Khâu chuẩn bị lư­­ơng thực đ­­ược phân công rõ ràng, trong đó, ông thờ ma tà áo là ngư­­ời trực tiếp phân công các công việc cho lễ hội và đi thu tiền trong gia đình để mua trâu, lợn, chó, vịt, gạo, rượu, gà cho dân làng. Đến ngày lễ hội cả làng ai cũng có ý thức ra sớm. Tr­­ước khi cúng, ông thờ ma tà áo thắp h­­ương và đánh 3 tiếng vào cối, rồi đi đóng cửa làng (cửa làng làm bằng hai phên nứa, dựng lên t­­ượng tr­­ưng ở đầu làng và cuối làng) báo cho mọi ngư­­ời hãy về nhà thờ, để thầy mo bắt đầu làm lễ.

Cúng xong, thầy mo ra ngoài lấy chày đánh vào cối 3 tiếng rồi đi mở cửa làng, thông báo cho mọi ng­­ười biết thầy đã cúng xong. Lúc này mọi ngư­­ời có thể đi làm, đi chơi và đ­­ược các thần phù hộ cho. Đến chiều dân làng cùng tổ chức các trò chơi truyền thống như­­: đánh cù, ném còn, múa xoè. Tuy nhiên, trải qua thăng trầm thời gian, thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội mà cho đến nay lễ Khai hạ và lễ Cầu mưa không còn diễn ra như truyền thống.

4.3.3. Lễ “Chấm” cúng Rằm

Lễ “Chấm” cúng Rằmcủa người Tày ở Đà Bắc được tổ chứcvào tháng 8 âm lịch. Các gia đình người Tày chọn ngày đẹp, chuẩn bị lễ vật và mời thầy cúng về cúng. Lễ vật trong lễ “Chấm” bao gồm một tổ ong, vài con cá, một đôi vịt, một đôi gà, nếu có điều kiện thì mổ lợn, cơm xôi, trầu cau, vòng bạc, vải (theo quan niệm của người Tày thì càng nhiều đầu con càng tốt). Lễ vật được sắp xếp theo số lượng người chết được thờ trên ban (có thể là bố mẹ bên nội, bố mẹ bên ngoại, bà chị, ông anh…) và một mâm cúng Thổ công. Mỗi mâm được sắp xếp xôi, thịt, rượu, cá, thịt, ong, chén uống rượu, bát đũa, một xúc vải phà, vài cáp váy, thổ cẩm bên trên để một đĩa trầu cau và vòng bạc, xúc xích bạc, lễ vật được xếp dưới sàn trước bàn thờ có một bát hương.

Thầy cúng thắp hương tuyên bố lý do và mời cha mẹ, bề trên của gia chủ về, thông báo lễ vật và lý do tổ chức làm lễ, xin tổ tiên cho phép làm lễ lên xuống vào tháng Chín tiến các cụ về với tổ tiên. Lễ cúng kéo dài khoảng 1 giờ. Sau một tháng theo lời chỉ dẫn của thày cúng cho ngày Gia chủ thực hiện lời hứa làm lễ lên và lễ xuống. Nếu số lên của gia chủ vào số chẵn thì số xuống phải là số lẻ.

4.3.4. Lễ làm nhà (Nươn Mờ)

Gia đình khi chuẩn bị xong các điều kiện và vật liệu cây, que, nứa, lá, nhờ công thợ chọn được ngày lành tháng tốt để làm lễ làm nhà. Lễ vật được chuẩn bị gồm: Lợn, gà, cơm, xôi, rượu, trầu, cau… được sắp xếp theo số lượng người chết đang thờ trên ban (có thể là bố mẹ bên nội, ngoại, bà chị, ông anh…) và một mâm cúng Thổ công. Mời Ma xó thì mỗi mâm được sắp xếp xôi, thịt, rượu, cá, ong, một chai rượu, chén uống rượu, bát đũa; một xúc vài phà, vài cáp váy, thổ cẩm bên trên để một đĩa trầu cau và vòng bạc, xúc xích bạc, lễ vật được xếp dưới sàn trước bàn thờ có một bát hương. Gia đình sẽ mời Mo chính về làm lễ Mời ma xó, Thổ công về chứng kiến và xin phép thổ công thổ địa, tổ tiên cho phép dựng nhà. Cúng xong, gia đình sẽ mở tiệc thiết đãi dân làng.

4.3.5. Lễ Cơm Mới “Kháu hang”

Lễ cơm mới của ngư­­ời Tày diễn ra tr­­ước bàn thờ tổ tiên, trong ngôi nhà sàn của từng gia đình từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch hàng năm khi cả làng, bản đã gặt hái xong mùa vụ. Lễ cơm mới với ý nghĩa trước hết để cúng tổ tiên, mời tổ tiên về ăn cơm mới của mùa vụ; tạ ơn và cầu mong tổ tiên phù hộ gia đình làm ăn thuận lợi, mọi ngư­ời khoẻ mạnh, gia đình hạnh phúc, đồng thời, nhắc nhở con cháu luôn nhớ đến tổ tiên.

Lễ cơm mới được chuẩn bị công phu với các lễ vật bao gồm các món cá, thịt, rượu, trầu cau... tùy thuộc vào từng hoàn cảnh gia đình. Nh­­ưng cho dù hoàn cảnh thế nào, mọi nhà đều cố gắng có một mâm cơm cúng tươm tất, đầy đủ các món đồ lễ để dâng cúng lên tổ tiên:Ba cuộn vải thổ cẩm; các đồ trang sức bằng bạc của gia đình (vòng bạc, nhẫn bạc, dây xà tích, vòng tay); một “tăng” (chiếc ghế mây) và một cuốn sách cúng bằng tiếng Tày cổ.

Nếu gia đình có người biết cúng thì tự cúng, còn không thì mời thầy mo về cúng. Trong lễ cơm mới, vai trò ông Mo quan trọng nhất bởi thầy cúng đại diện cho thế giới con ng­­ười giao tiếp với thế giới của thần linh và thiên nhiên, cầu mong cho mọi ng­­ười trong gia đình mạnh khoẻ làm ăn may mắn.Ngoài việc chuẩn bị đầy đủ lễ vật, nhân lực, vật lực, thì buổi chiều tr­­ước ngày làm lễ Cơm mới, cả gia đình dọn vệ sinh nhà cửa, v­­ườn tư­ợc, ao chuồng cho sạch sẽ. Đến tối lấy gạo nếp và gạo cốm cùng các loại thịt thú rừng ra ngâm để chuẩn bị cho ngày mai thật chu toàn.

Ngày làm lễ, cả gia đình dậy sớm, quần áo, đầu tóc gọn gàng sạch sẽ. Đàn ông thì thịt lợn, thịt gà, phụ nữ đồ xôi, thổi cơm. Trong ngày lễ cơm mới, ng­­ười con dâu trong gia đình giữ vai trò quan trọng nhất. Lễ cơm mới diễn ra chu đáo, đầy đủ hay không là do sự nhanh nhẹn, đảm đang của người con dâu trong gia đình. Nếu mâm cơm cúng đầy đủ, ngon, đẹp mắt thì sẽ được gia đình khen ngợi, cảm ơn. Nếu mâm cơm cúng không tốt, không cẩn thận thì ng­­ười con dâu sẽ bị mọi ngư­­ời trong gia đình quở trách, nặng hơn là sẽ bị đánh phạt. Chính vì thế trong ngày này, ngư­­ời con dâu rất chú ý thận trọng trong việc bếp núc.

Sáng ngày làm lễ, trước tiên ng­­ười chủ gia đình thắp hương kính cáo và xin phép tổ tiên cho phép gia đình đ­­ược làm lễ Cơm mới. Khi mâm cỗ cúng đư­ợc hoàn tất vào khoảng 8 giờ sáng cũng là lúc thầy mo tới cúng giúp gia đình. Trư­­ớc khi thầy mo cúng, ng­­ười chủ gia đình thắp h­ương lên bàn thờ tổ tiên xin phép tổ tiên cho thầy mo bắt đầu đ­­ược cúng. Trong khi thầy mo đang cúng thì đàn bà, con gái trong gia đình không đư­ợc phép đến gần nơi bàn thờ tổ tiên. Bài cúng diễn ra khoảng hai tiếng đồng hồ.

Thầy mo cúng bằng sách cúng đ­­ược viết bằng chữ Tày cổ. Nội dung của cuốn sách nói về nguồn gốc, lịch sử của ng­ười Tày, quá trình di dân của ng­ười Tày, việc khai hoang lập ấp, việc làm ra các công cụ sản xuất, những kinh nghiệm sống của ông cha, những lời răn dạy con cháu trong cuộc sống, những vấn đề về xã hội của ng­­ười Tày, tín ngưỡng, các phong tục tập quán. Nội dung bài cúng của thầy mo gồm hai phần: Phần I, lý do thầy mo tới nhà ngày hôm nay; Phần II, cúng tổ tiên, mời tổ tiên về ăn cỗ của con cháu và phù hộ cho gia đình. Khi thầy mo cúng xong, gia đình đem cất những cuộn vải và đồ trang sức đi, bày mâm cỗ cúng ra để cả nhà cùng liên hoan. Trư­ớc khi ăn cơm, chủ nhà gói lại mỗi thứ một ít để làm quà cảm ơn cho thầy mo lúc ra về. Riêng cơm mới thì dành cho trẻ con trong nhà và trẻ con hàng xóm đến chơi ăn. Ng­ười Tày quan niệm, nhà ai làm lễ cơm mới mà có nhiều trẻ con đến chơi thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn.

Lễ cơm mới kết thúc trong niềm vui sướng của gia đình, ai cũng cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm, thanh thản vì đã làm đ­­ược mâm lễ cơm mới chu đáo để cúng tổ tiên và đã đ­­ược tổ tiên gia đình chứng giám và công nhận. Hiện nay, do giao lư­­u với nhiều nguồn văn hoá khác nhau, để giản tiện các hình thức lễ nghi, ngư­­ời Tày ở xã Tân Pheo đã kết hợp lễ cơm mới với Tết Nguyên Đán của dân tộc.

4.3.6. Lễ Cầu bản (Xờn bản)

Là lễ truyền thống của dân tộc Tày Đà Bắc đã thất truyền từ những năm 1960, đến năm 1989 mới được một số nơi ở Đà Bắc khôi phục lại. Lễ cầu bản được tổ chức vào tháng Tám âm lịch hàng năm, chỉ diễn ra trong một buổi sáng tại nhà thờ Thành hoàng bản thổ của làng.

Người Tày ở Đà Bắc quan niệm bản là cụm dân cư bền vững, đầu bản, cuối bản đều có những vị tướng cai quản. Trong bản có Thành hoàng làng, có thổ công, thổ địa. Hàng năm, lễ hội cầu bản được tổ chức nhằm cùng Thần hoàng làng, thổ công, thổđịa và các vị tướng cai quản cầu cho dân an, mùa màng bội thu.

Trưởng làng sẽ gặp thầy cúng trong làng chọn ngày lành, thông báo cho dân biết chuẩn bị, mỗi gia đình đóng góp rượu, gạo, hoặc tiền… Trước lễ một ngày, dưới sự chỉ huy của trưởng làng, các gia đình cử đại diện đến vệ sinh miếu làng và đường làng ngõ xóm. Sáng ngày làm lễ, mọi người tập trung về nhà Trưởng làng mổ lợn, gà, đồ xôi, chuẩn bị các vật dụng.

Lễ vật để cúng trong lễ cầu bản gồm các loại thịt, xôi, cau trầu, rượu… Một bộ phận sắp xếp vài phà, têm trầu, rót rượu… Khi lễ vật đã được làm chín, trưởng bếp sắp làm 04 mâm, đưa ra miếu thờ (đi đầu là thầy cùng, trưởng làng, gia làng, đến mọi người trong làng). Đến nơi lễ vật được xếp lên ban thờ ở miếu làng. Trình tự sắp xếp khi làm lễ cúng: Ngồi trước bàn thờ là Thầy cúng, sau đó là trưởng làng, già làng, tiếp đến là đại diện các gia đình đầu ngồi xếp mái trước ban thờ để nghe thầy cúng. Kết thúc lễ, các gia đình hạ cỗ, một phần để lại cho thầy mo cùng đại diện các gia đình ở lại để liên hoan, phần còn lại đ­­ược đem về nhà. Buổi chiều, dân làng cùng trai gái tổ chức khắp, xòe và các trò chơi dân gian như­­: ném còn, đánh đu, cướp cờ… Đến đêm trong không khí vui tươi, hy vọng sang năm mọi việc đều được như ý nguyện.

4.3.7. Lễ Cầu Mường “Xên Mường”

Đây là lễ hội truyền thống của dân tộc Tày Đà Bắc đã thất truyền từ những năm 1957, đến năm 2017 được phục dựng tại xã Mường Chiềng trong khuôn khổ của gói thầu bảo tồn văn hóa, thuộc dự án Phát triển nông thôn đa mục tiêu huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.

Trước đây, dưới sự cai trị của Phìa tạo, dòng họ Xa cầm quyền vùng Mường Chiềng thì cứ 02 đến 03 năm một lần vào ngày 18/8 âm lịch tổ chức lễ hội Cầu Mường tại Trung tâm Mường Chiềng (hiện nay vẫn còn khu đất trong nơi ngày xưa dựng đình để tổ chức). Ngôi Đình được làm bằng gỗ, tre, nứa và lợp lá cọ, dạng nhà sàn Tày 5 gian có cầu thang lên xuống. Tùy vào quy mô tổ chức, nhỏ thì huy động các vùng Tày trong huyện, lớn thì mời tất cá các dân tộc dòng họ trong vùng về dự.

Người Tày ở Đà Bắc quan niệm, cầu Mường là lễ hội lớn nhất trong vùng, thu hút cả vùng Đà Bắc tham gia với 12 họ, trong đó có 7 họ Tày và các họ Dao, Mường cúng Ma rừng, Thần hoàng, Thổ công, Thổđịa và các vị tướng, tổ tiên các dòng họ trong vùng cầu cho dân an, được mùa màng bội thu, sức khỏe, thái bình…

- Về lễ thức, lễ nghi: Đến tháng 8 âm lịch hàng năm, nhà Tạo đứng ra chỉ đạo tổ chức lễ hội Cầu Mường, mời thầy cúng có uy tín trong vùng làm lễ và thông báo cho nhân dân trong vùng biết để tham gia, chuẩn bị đóng góp.

- Về nhân lực: Nhà Tạo huy động và phân công nhân lực cho lễ Cầu Mường. Ngày 17/8 âm lịch, trước lễ chính thức một ngày, nhà tạo sẽ giao cho các chức sắc nêu trên xem xét các điều kiện chuẩn bị lễ hội, huy động lực lượng vệ sinh Đình và đường làng ngõ xóm. Cử người chuẩn bị 01 con bò, 02 con gà, cơm xôi, rượu đem sang bên kia suối thuộc xã Giáp Đắt (không được ở bên nay suối và không được trong đất của Mường Chiềng) mời thầy cúng sang đó làm lễ tế ma rừng. Mâm cúng được bày ra trên bờ suối cho thầy cúng mời ma rừng, thú dữ về nhận lễ và cầu cho ma rừng và thú dữ không về phá lễ hội Cầu Mường và cầu cho thú dữ ma rừng không bắt người, không phá hoại mùa màng của nhân dân.

Lễ cúng được thầy cúng làm lễ trong buổi sáng, đến gần trưa con bò được mổ tại chỗ, cái đầu được chụp lên bằng vợt xúc cá, mọi người diễn lại cảnh hổ về nhận bò, nhận lợn kéo đầu bò vào rừng và xuống suối; thịt bò được chế biến tại chỗ và cho dân làng ăn hết không được mang về.

Sáng ngày 18/8 âm lịch tổ chức lễ chính thức, mọi người tập trung mổ lợn, gà, đồ xôi, chuẩn bị các vật dụng; một bộ phận sắp xếp vài phà, têm trầu, rót rượu… Các mâm cúng trong ngày lễ chính thức đều được dùng bằng mâm tre hoặc gỗ, lót lá chuối hoặc lá dong và được xếp lên đình thờ. Mọi người di chuyển vào vị trí, đi đầu là thầy cúng, trưởng lễ, đến đại diện các họ trong vùng. Ngồi trước ban thờ chính là chủ áo, sau đó là Thầy cúng; giữa gian ngoài có một bình rượu cần; gian trong trước 12 mâm cúng họ là đại diện của các gia đình và quan khách.

Sau khi bày biện mâm cỗ và sắp xếp chỗ ngồi, thầy cúng tuyên bố lý do, báo báo các đấng bề trên việc làm lễ: Báo cáo số lượng lễ vật, mời tên các đáng bề trên, đọc tên 12 họ. Thầy cúng sẽ kể chuyện “sống trụ xôn xao”, lịch sử thiên di của người Tày. Tiếp đến, sẽ cúng mời các đấng bề trên nhận lễ, uống rượu và cầu xin phù hộ cho nhân dân được sức khỏe, ấm no, hạnh phúc, quốc thái dân an, tránh được mọi tai ương trong cuộc sống. Sau khi cúng xong làm lễ hạ lễ và tổ chức ăn uống, 12 con gà của 12 mâm họ gửi về cho 12 trưởng họ. Sau đó, con trâu được mổ và đầu trâu được dâng lên mâm chính bên trái để cả đầu. Đầu trâu cúng xong được mang về phơi khô và thuộc lại đem treo trên cột nhà đình. Nửa con trâu được nấu lên cho thầy cúng làm lễ tiếp, còn nửa còn lại được chia cho người dân mang về. Cúng xong, chủ lễ và thầy cúng đọc sách và diễn xướng tổ chức xòe quanh bình rượu cần. Nghi lễ xòe này chiếm thời gian khoảng 2 giờ. Sau đó, đến phần hội với các trò chơi hoặc khắp, xòe tùy theo không khí hội tự phát hoặc không tổ chức gì

Sau khi làm lễ, thầy cúng về nhà ông chủ áo cùng chủ bếp, chủ rượu làm vía lại sau khi làm lễ. Chủ áo mổ 01 con lợn để làm lễ vía cho 04 ông có xòe nghi lễ tiếp tục tại nhà ông chủ áo cùng nhịp của đạo cụ cụm chẹ.

5. Thảo luận

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, điều tra thực trạng về lễ hội của người Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình và thông qua các cuộc hội thảo, tọa đàm, ý kiến chuyên gia, nhóm nghiên cứu đã thống nhất phục dựng lễ hội như sau:

- Phục dựng lễ cúng tổ tiên (đám Chấm), lễ cầu bản;

- Phục dựng lễ hội Cầu Mường (xên Mường) đã bị thất truyền hơn 60 năm, đây là lễ hội quan trọng trong đời sống văn hóa, tâm linh của người Tày ở Mường Chiềng, Đà Bắc.

- Phục dựng các hoạt động xung quanh lễ hội Xên Mường bao gồm: Lễ cúng, các trò chơi dân gian được thi đấu trong lễ hội, trình diễn các loại hình nghệ thuật (múa xòe, các bài khắp, nhạc cụ truyền thống); liên hoan ẩm thực đậm chất của người Tày (món luộc, món đồ…).

Tuy nhiên, để bảo tồn và phát huy các lễ hội truyền thống của dân tộc Tày, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, chính quyền địa phương cần quan tâm một số vấn đề sau:

- Quan tâm đến công tác tuyên truyền vận động người dân về ý thức bào tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung. Trong đó, chú trọng công tác quảng bá tiềm năng văn hóa du lịch vùng Mường Chiềng và dân tộc Tày huyện Đà Bắc.

- Duy trì lễ hội Cầu Mường với các giá trị văn hóa truyền thống sẵn có trong lễ hội hàng năm, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân, gắn với việc xây dựng các đề án quy hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, dịch vụ du lịch và quy hoạch du lịch khu vực Mường Chiềng trở thành một trong những địa diểm du lịch của địa phương và của tỉnh.

- Quan tâm đến việc ban hành các chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống của dân tộc và tri thức dân gian của dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày huyện Đà Bắc nói riêng.

6. Kết luận

Có thể nói, cùng với dòng chảy và nhịp sống hiện đại với những xu thế và quan niệm khác nhau, người Tày ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình đã được khoác lên mình những yếu tố hiện đại, những loại hình nghệ thuật cũng mang những hơi thở mới. Qua nghiên cứu ở Đà Bắc, những loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống vẫn được lưu giữ và những thầy Mo, người già vẫn còn am hiểu tường tận những điệu Khắp, điệu múa, những nghệ nhân vẫn còn chơi được những nhạc cụ truyền thống. Các cấp chính quyền địa phương đã nhận thức sâu sắc và hiểu được ý nghĩa các chính sách có liên quan đến bảo tồn, duy trì và phát huy các giá trị nghệ thuật dân gian truyền thống. Hơn hết, nhóm nghiên cứu nhận thấy là bản thân người Tày có những mong muốn được khôi phục, bảo tồn, duy trì các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của họ, như một phần máu thịt và nguồn cội, để con cháu họ hiểu được những giá trị văn hóa cha ông để lại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Địa Chí tỉnh Hoà Bình, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.

2. Niên giám Thống kê tỉnh Hòa Bình 1999 - 2010,

3. Góp phần tìm hiểu Hòa Bình, NXB Hà Sơn Bình.

4. Xòe Thái - Cẩm Trọng - Bùi Chí Thanh

5. Từ điển Thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày - NXB Văn hóa dân tộc 1996

6. Tuyển tập sưu tầm của Nghệ nhân Lường Đức Chôm,

7. Gia phả Họ Xa - Đà Bắc - Sưu tầm ghi chép Xa Văn Mắn - Xa Hồng Diờn.

[1] Trong tiếng Tày Đà Bắc, “Mường” có nghĩa là vùng đất - một đơn vị hành chính xưa của cư dân Tày - Thái. “Chiềng” là trung tâm, thủ phủ”.

Nguyễn Thị Thân Thủy

Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế, Học viện Dân tộc

Từ khóa » Chế độ Phìa Tạo