Các Cuộc Thập Tự Chinh (bài 1)

tác giả hongsonvh

Thập tự chinh là một loạt các chiến dịch quân sự được tiến hành vì lý do tôn giáo bởi nhiều quốc gia Công giáo La Mã ở Châu Âu, đặc biệt là nước Pháp và Đế quốc La Mã Thần thánh. Các cuộc thập tự chinh cụ thể để khôi phục lại kiểm soát của người Kitô giáo tới vùng Đất Thánh là các cuộc chiến tranh kéo dài trong thời gian gần 200 năm, từ năm 1095 đến năm 1291. Các chiến dịch ở Tây Ban Nha và Đông Âu được tiếp tục vào thế kỷ 15. Các cuộc thánh chiến chủ yếu của lực lượng Công giáo La Mã (diễn ra sau khi Sự ly khai Đông Tây và hầu hết xẩy ra trước Cải cách Tin lành) nhằm vào người Hồi giáo, những người đã chiếm đóng vùng Cận đông kể từ thời vương quốc Hồi giáo Rashidun, Mặc dù các chiến dịch này cũng được tiến hành để chống lại người Slav, người Balt ngoại đạo, người Do Thái, người Nga và Kitô hữu Chính Thống, người Mông Cổ, người Cathar, người Hussite, người Waldensian, nước Phổ cổ, và kẻ thù chính trị của các giáo hoàng. Phe Chính Thống giáo cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc thập tự chinh. Những người tham gia Thập tự chinh thường là tự nguyện và đã được cấp một lễ rửa tội tập thể.

Các cuộc thập tự chinh ban đầu có mục tiêu là chiếm lại Jerusalem và Đất Thánh từ tay người Hồi giáo và các chiến dịch của họ được tiến hành để trả lời lời kêu gọi từ những người Kitô giáo của Đế quốc Byzantine để giúp họ chống lại sự bành trướng của người Seljuk Turk Hồi giáo vào vùng Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch tiếp theo được tiến hành tới tận thế kỷ 16 ở vùng lãnh thổ bên ngoài Levant, các chiến dịch này thường nhằm vào dân ngoại đạo, dị giáo và những người bị rút phép thông công bởi một tập hợp các lý do tôn giáo, kinh tế và chính trị. Sự ganh đua giữa hai quyền lực Thiên chúa giáo và Hồi giáo cũng đã dẫn đến các liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh của người Thiên chúa giáo với Vương quốc Hồi giáo Rum trong cuộc Thập tự chinh lần thứ năm.

Các cuộc thập tự chinh đã tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế và xã hội, một số ảnh hưởng số trong đó kéo dài tới tận thời nay. Vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số trong những cuộc thập tự chinh đã bị lệch khỏi mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập tự chinh lần thứ tư, Kết quả là một cuộc bao vây được nhắm vào thành phố Constantinople và các thuộc địa của đế chế Byzantine bởi người Venice và quân Thập tự chinh. Cuộc Thập tự chinh thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên được khởi hành mà không cần sự cho phép chính thức của Giáo hoàng. Các cuộc Thập tự chinh lần thứ bảy, thứ tám và thứ chín kết quả là người Mamluk và Hafsid đã chiến thắng, cuộc Thập tự chinh lần thứ chín đánh dấu sự kết thúc của các cuộc thập tự chinh trong vùng Trung Đông.

Tình hình Trung Đông

Đất Thánh là nơi cực kỳ quan trọng đối với người Kitô giáo, vì nơi đây là nơi sinh ra, giảng đạo, bị đóng đinh và phục sinh của Chúa Giêsu thành Nazareth, Người Kitô luôn coi Chúa Giêsu như là Đấng Cứu thế hay Messiah. Đến cuối thế kỷ thứ 4, sau khi Hoàng đế La Mã Constantine chuyển đổi sang Thiên chúa giáo (năm 313) và sau đó thành lập đế quốc Byzantine sau sự phân rẽ của Đế quốc La Mã, Đất Thánh đã trở thành một khu vực chủ yếu là của người Kitô giáo. Các lễ hội tôn giáo được tiến hành cho nhiều lễ kỷ niệm và cho những sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giê-xu tại các địa điểm quan trọng.

Jerusalem nói riêng giữ một ý nghĩa quan trọng trong đạo Hồi vì nó là địa điểm để lên thiên đường của tiên tri Muhammad người mà người Hồi giáo tin là vị tiên tri quan trọng nhất của Allah và Jerusalem được xem là địa điểm thiêng liêng thứ ba trong số những địa điểm thiêng liêng nhất của người đạo Hồi. Sự hiện diện của người Hồi giáo tại Đất Thánh bắt đầu với việc người Hồi giáo xâm chiếm Syria trong thế kỷ thứ 7 dưới sự lãnh đạo của Rashidun Khalip. Chiến thắng của các đội quân Hồi giáo ngày càng tăng áp lực vào Đế quốc Byzantine Chính thống giáo Đông, người ban đầu đã tuyên bố khu vực là lãnh thổ của họ (một phần của Đế quốc Đông La Mã mà Byzantine được thừa kế) – sự kiện này cũng bao gồm cuộc tấn công cuối cùng của người Seljuk Thổ Nhĩ Kỳ. Jerusalem cũng có tầm quan trọng lịch sử với tôn giáo của người Do Thái vì nó là địa điểm của Western Wall-Bức tường phía Đông- phần cuối cùng còn lại của Đền thờ thứ hai. Người Do Thái coi Israel như là quê hương của tổ tiên của họ và đã đi thăm thành phố kể từ khi nó bị chiếm đóng bởi người La Mã và bị từ bỏ bởi người Do Thái sau cuộc nổi loạn của họ vào năm 66-73 AD.

Một yếu tố khác góp phần vào sự thay đổi thái độ của phương Tây về phía phương Đông vào năm 1009, khi Quốc vương Hồi giáo al-Hakim bi-Amr Allah triều Fatimid đã ra lệnh phá hủy Nhà thờ Thánh Sepulchre. Trong năm 1039 người thừa kế ông ta sau khi yêu cầu thanh toán một khoản tiền lớn đã cho phép đế quốc Byzantine xây dựng lại nó. Người hành hương đã được phép đến vùng đất Thánh trước và sau khi Nhà thờ Sepulchre được xây dựng lại. Người Hồi giáo đã nhận ra rằng có rất nhiều của cải đến Jerusalem từ những người hành hương, vì lý do này và cả những lý do khác, sự khủng-bố nhắm vào người hành hương cuối cùng cũng dừng lại. Tuy nhiên, thiệt hại vẫn xẩy ra và bạo lực của người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk đã trở thành một phần của mối quan tâm mà lan rộng hỗ trợ cho các cuộc thập tự chinh Thiên chúa giáo trên toàn thế giới.

Tình hình Tây Âu

Nguồn gốc của các cuộc thập tự chinh nằm trong sự phát triển của các nước Tây Âu trước đó trong thời Trung cổ, cũng như tình hình đang ngày một xấu đi của Đế quốc Byzantine ở phía đông gây ra bởi các làn sóng tấn công mới của người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Các phân tích về Đế quốc Carolingian vào những năm cuối thế kỷ 9, kết hợp với sự ổn định tương đối của các địa phương biên giới châu Âu sau sự kiện những người Viking, Slavs và Magyar được Kitô giáo hóa, đã xảy ra việc một số lượng lớn các chiến binh có vũ trang và đầy nhiệt tình đã chiến đấu với nhau một cách không đúng chỗ ( các chiến binh dù đã được Kitô giáo hóa nhưng họ vẫn là những chiến binh và nghề nghiệp của họ chỉ là đánh giết ) và thường tiến hành khủng-bố dân chúng địa phương. Giáo Hội đã cố gắng để ngăn chặn nạn bạo lực này với các phong trào Thỏa thuận ngừng bắn và Hòa bình của Thiên Chúa, tuy đã thu được phần nào thành công nhưng các chiến binh được đào tạo luôn luôn tìm kiếm một lối thoát để phát huy các kỹ năng của họ và cơ hội để mở rộng lãnh thổ đang ngày càng trở nên kém hấp dẫn trước giới đại quý tộc.

Năm 1063, Giáo hoàng Alexander II đã ban phước lành của mình để giáo dân ở Iberia tiến hành cuộc chiến tranh của họ chống lại người Hồi giáo, ông đã cấp cả một tiêu chuẩn của giáo hoàng (vexillum Sancti Petri) và một lễ rửa tội cho những người đã thiệt mạng trong trận chiến. Lời cầu khẩn của Hoàng đế Byzantine, người lúc này đang bị đe dọa bởi người Seljuk đã được lọt vào những đôi tai sẵn sàng lắng nghe. Những gì xảy ra từ năm 1074, giữa Hoàng đế Michael VII với Đức Giáo Hoàng Gregory VII và từ năm 1095 giữa Hoàng đế Alexios I Komnenos với Giáo hoàng Urban II. Một nguồn xác định trong hồ sơ của Trung Quốc Michael VII như là một người cai trị của Hy Lạp (Fulin), đã gửi một phái đoàn tới nhà Tống-Trung Quốc năm 1081. Một học giả Trung Quốc cho rằng đặc sứ này và thậm chí cả Byzantine nữa trong năm 1091 yêu cầu Trung Quốc hỗ trợ trong cuộc chiến chống lại người Thổ.

Các cuộc thánh chiến là một phần lối thoát cho một niềm đạo đức tôn giáo mãnh liệt lúc này càng ngày càng tăng lên vào cuối thế kỷ 11 trong số các công dân là giáo dân ở châu Âu. Một người thập tự quân sau khi đã thề một lời thề trang trọng và nhận được một cây thánh giá từ tay của Đức Giáo Hoàng hay legate-đại diện của ông ta và được từ đó người này được coi là một “người lính của Giáo Hội”. Đây là một phần của Investiture Controversy ( sự trao quyền đầy Tranh cãi ), vốn bắt đầu khoảng năm 1075 và vẫn còn tiếp diễn đến cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Khi hai phe thuộc Investiture Controversy cố gắng để thu hút ý kiến ủng hộ của công chúng cho họ, làm cho mọi người trở nên tham gia vào một cuộc tranh cãi tôn giáo mạnh mẽ một cách cá nhân. Kết quả là họ đã đánh thức đạo đức Kitô giáo một cách mạnh mẽ và vì lợi ích cộng đồng trong các vấn đề tôn giáo, và ý thức này lại được tăng cường hơn nữa bằng các tuyên truyền về tôn giáo, mà chủ trương là Just Wa-Chỉ bằng chiến tranh ( ý nói không có thương lượng) để chiếm lại Thánh Địa từ tay người Hồi giáo. Đất Thánh bao gồm Jerusalem (nơi theo thần học Kitô giáo đã xảy ra cái chết, phục sinh và bay vào thiên đường của Chúa Giê-xu) và Antioch (thành phố đầu tiên của Giáo dân Kitô giáo). Hơn nữa, sự tha tội ( rửa tội? em ko rành lắm) là một nhân tố thúc đẩy bất kỳ người nào còn biết kính Chúa, những người đã phạm tội ác mà muốn thoát khỏi sự trừng phạt muôn đời không thể cưỡng lại của Địa ngục. Đây là một vấn đề tranh cãi nóng bỏng trong các cuộc Thánh chiến là liệu những gì được gọi là “tha tội-rửa tội” có ý nghĩa thật sự hay không ( hay bị lợi dụng). Hầu hết những người tham gia Thập tự chinh đều tin rằng bằng cách tái chiếm Jerusalem họ sẽ đi thẳng lên thiên đàng sau khi họ chết trận. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề tranh cãi xung quanh chính xác những gì các giáo hoàng đã hứa trong thời gian này. Một giả thuyết là nếu một người đã chết trong chiến đấu để lấy lại Jerusalem trong thời gian “tha tội-rửa tội” được áp dụng-> sẽ được lên thiên đàng, đây là chính xác những gì Giáo hoàng Urban II nói trong bài phát biểu của mình. Điều này có nghĩa rằng nếu quân viễn chinh đã thành công và trong trường hợp tái chiếm được Jerusalem thì những người sống sót sẽ không được xoá tội và không được lên thiên đàng ( Hoàn toàn hợp lý, Giáo hoàng ban sự xóa tội cho những người hy sinh khi tái chiếm Jerusalem-họ là người tử vì đạo và được lên thiên đàng, vậy những người không tử trận thì không được xoá tội, vậy muốn lên đó thì họ phải tự tử khi vừa mới thu được thắng lợi để được lên thiên đàng?)

Phản ứng tức thì

Nguyên nhân trực tiếp của cuộc Thập tự chinh đầu tiên là hoàng đế Byzantine Alexios I đề nghị Giáo hoàng Urban II cử lính đánh thuê đến để giúp ông chống lại người Hồi giáo lúc này đang ồ vào lãnh thổ của đế quốc Byzantine. Năm 1071, tại Trận Manzikert ( sẽ có một bài riêng về trận này) Đế chế Byzantine bị đánh bại, dẫn đến sự mất mát phần lớn vùng Tiểu Á (hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ) và họ chỉ còn giữ được vùng duyên hải. Mặc dù cố gắng hòa giải sau Sự ly khai Đông Tây giữa Catholic Church ( Công giaó La Mã ) ở phía tây châu Âu và Giáo hội Chính Thống phương Đông đã không thành công, hoàng đế Alexius I hy vọng cho một phản ứng tích cực từ phía Giáo hoàng Urban II và đã có nó.

Khi những cuộc Thập tự chinh đầu tiên được truyền bá trong năm 1095, các hoàng tử Kitô giáo ở miền Bắc xứ Iberia đang chiến đấu ở vùng núi Galicia và Asturias, các xứ Basque và Navarre ( Basque thuộc nay TBN và Navarre nay thuộc Pháp ), đã có các thành công liên tục trong khoảng một trăm năm. Sự sụp đổ của vùng Toledo và Vương quốc León của người Moor trong năm 1085 là một chiến thắng lớn, nhưng điểm nóng chảy ( điểm thay đổi mang tính bản lề ) của phong trào Reconquista vẫn còn nằm trong tương lai. Sự mất đoàn kết của các tiểu vương Hồi giáo là một yếu tố tối cần thiết.

Trong khi phong trào Reconquista ( tái chiếm các vùng đất thuộc TBN ngày nay khỏi tay người Hồi giáo) là ví dụ nổi bật nhất về phản ứng của châu Âu để chống lại các Cuộc chinh phục của người Hồi giáo, nhưng đây không phải là ví dụ duy nhất. Robert Guiscard-tay phiêu lưu người Norman đã chinh phục xứ Calabria năm 1057 và giữ được Sicily-vùng lãnh thổ truyền thống của Đế quốc Byzantine trước sự xâm lược của người Hồi giáo. Các thành bang có hải quân phát triển như Pisa, Genoa và Catalonia tất cả đều tích cực chiến đấu chống lại vương quốc Majorca của người Hồi giáo, và giải phóng được vùng bờ biển nước Ý và Catalonia khỏi các cuộc tấn công của người Hồi giáo. Trước đó rất lâu Syria, Lebanon, Palestine, Ai Cập… quê hương của Kitô giáo đã bị chinh phục bởi đội quân của người Hồi giáo. Những đêm trường lịch sử của việc mất mát những lãnh thổ nhạy cảm này vào tay một kẻ thù tôn giáo đã tạo ra một động lực mạnh mẽ để đáp ứng lời kêu gọi của hoàng đế Byzantine Alexius I về một cuộc thánh chiến để bảo vệ Thiên Chúa giáo và để tái chiếm các vùng đất bị mất bắt đầu từ Jerusalem.

Đức Giáo Hoàng Gregory VII đã có những tranh cãi về các giá trị giáo lý của một cuộc thánh chiến và đổ máu nhân danh Chúa với những khó khăn trong việc giải quyết các câu hỏi phán xét việc bạo lực mang lại lợi lộc cho ai. Quan trọng hơn nữa là Đức Giáo Hoàng quan tâm đến việc các Kitô hữu hành hương đến Đất Thánh bị bức hại. Thánh Saint Augustine xứ Hippo-bản sao về mặt trí tuệ của Giáo hoàng Gregory, đã biện minh cho việc sử dụng vũ lực trong việc phục vụ Chúa Kitô trong The City of God-Thành phố của Thiên Chúa, và chỉ bằng chiến tranh của Kitô giáo mới có thể nâng cao vị thế của một nhà lãnh đạo mạnh mẽ đầy tham vọng của châu Âu, như Gregory đã nhìn nhận về chính mình. Những người miền Bắc sẽ tăng cường củng cố xung quanh Rome, và các hiệp sĩ chuyên gây rắc rối của họ có thể sẽ thấy được nghề nghiệp phù hợp với họ ( tiếp tục nghề đâm chém ở phương Đông ). Những nỗ lực trước đây của nhà thờ để ngăn chặn bạo lực, chẳng hạn như khái niệm “Hòa bình của Thiên Chúa” đã không thu được thành công như mong đợi. Về phía nam của Rome, người Norman đã cho thấy họ đáng sợ như thế nào đối với cả hai người Ả Rập (ở Sicily) và Byzantine (trên đất liền). Một quyền bá chủ của người La tinh ( phương Tây) ở các quốc gia Trung cận động sẽ cung cấp đòn bẩy trong việc giải quyết tranh chấp giữa Giáo hoàng trước uy quyền tối cao của Giáo trưởng Constantinople, việc này đã dẫn đến việc Sự ly khai lớn trong năm 1054, một rạn nứt không thể giải quyết bằng sức mạnh của người Frank.

Tại Đế quốc Byzantine, điểm yếu của Hoàng đế phía Đông đã bị bộc lộ bởi sự thất bại thảm hại trong Trận Manzikert trong năm 1071, lãnh thổ châu Á của đế chế ở khu vực phía tây Anatolia và vùng xung quanh Constantinople đã thất thủ. Một dấu hiệu chắc chắn cho thấy sự tuyệt vọng của Byzantine chính là lời kêu gọi của Alexios I tới Đức Giáo Hoàng-kẻ thù của mình để xin viện trợ. Nhưng Giáo Hoàng Gregory lúc này đang bận về vấn đề Investiture Controversy ( sự trao quyền đầy Tranh cãi ) và không thể kêu gọi hoàng đế Đức ( lực lượng chính của Thập tự quân), do đó một cuộc thánh chiến đã không bao giờ được hình thành ( vào thời của Giáo Hoàng Gregory).

Vào thời của Giáo hoàng Urban II-người kế nhiệm ôn hoà hơn của Gregory, một cuộc thánh chiến sẽ làm cho người Thiên Chúa giáo đoàn tụ lại, củng cố địa vị của Giáo hoàng và có thể mang lại phía Đông dưới sự kiểm soát của ông. Những người Đức và người Norman bất mãn đã không được tính đến, và trái tim và xương sống của một cuộc thánh chiến có thể được tìm thấy ở quê hương của chính Giáo hoàng Urban ở phía Bắc của nước Pháp.

Sau cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất

Ở mức độ đại chúng, cuộc thánh chiến đầu tiên đã tạo ra một làn sóng say mê, một cách cá nhân các con chiên ngoan đạo của Thiên chúa giáo đã thể hiện sự giận dữ trong các cuộc tàn sát nhằm vào người Do Thái ( bọn bán Chúa) đi kèm với sự di chuyển của các đám đông qua châu Âu, cũng như bạo lực nhằm vào Chính thống giáo ở phía Đông vì tội “ly giáo”. Trong rất nhiều các cuộc tấn công vào người Do Thái, các Giám mục và một số Kitô hữu địa phương đã cố gắng bảo vệ những người Do Thái từ các đám đông thập tự chinh ( Khoảng mười vạn dân Pháp + Đức chia thành hai đoàn Thập tự chinh, họ hoàn toàn vô tổ chức vừa đi vừa cướp phá, khi chưa đến được Đất thánh họ đã bị tiêu diệt bởi người Thổ nhĩ kỳ và chết đói khát dọc đường-Đây không phải là lực lượng chính của quân Thập tự chinh lần thứ nhất).

Trong thế kỷ 13, các lần Thập tự chinh không bao giờ còn được thể hiện như là một cơn sốt của nhân dân và sau khi pháo đài Acre thất thủ ở cuối năm 1291 và Occitan Cathars bị tiêu diệt trong cuộc thập tự chinh Albegensian, Lý tưởng về các cuộc thập tự chinh của Đức Giáo hoàng đã bị biến chất-giảm giá trị đến mức trở thành các cuộc lấn chiếm lãnh thổ giữa các vương quốc Công giáo châu Âu với nhau.

Cuộc thập tự chinh cuối cùng của các Tổ chức hiệp sĩ được tiến hành là để giữ lãnh thổ Knights Hospitaller ( Hiệp sỹ cứu tế-bệnh viện ). Sau sự sụp đổ của Acre cứ điểm cuối cùng của người Thiên chúa giáo, họ nắm quyền kiểm soát đảo Rhodes, và trong thế kỷ 16 họ phải chuyển tới Malta trước khi cuối cùng Napoleon Bonaparte lại xua họ đi vào năm 1798.

Cuộc Thập tự chinh đầu tiên

Thời gian: từ năm 1096–> năm 1099Địa điểm: Vùng Cận Đông (vùng Anatolia, các quốc gia Trung cận động, Palestine)Kết quả: Thập tự quân chiến thắng quyết định và thành lập Lãnh thổ của Vương quốc Jerusalem và các thành bang thập tự chinh khác

Thành phần tham chiến

Tín đồ Cơ đốc giáo:Đế chế La Mã Thần thánh

  • Genoa
  • Vùng hạ Lorraine
  • Quận quốc Toulouse
  • Marquisate của Provence

Vương quốc Pháp

  • Blois
  • Boulogne
  • Flanders
  • Le Puy-en-Velay
  • Vermandois
  • Normandy

Vương quốc AnhCông quốc Apulia

  • Taranto

Đế quốc ByzantineVương quốc Cilicia Armenia

Chỉ huy

Godfrey của BouillonRaymond IVStephen IIBaldwin của BoulogneEustace III của BoulogneRobert II của FlandersAdhemar của Le PuyHugh của VermandoisRobert II của NormandyBohemond của TarantoTancred của TarantoAlexios I KomnenosTatikiosManuel BoutoumitesGuglielmo EmbriacoConstantine I

Lực lượng

Quân Thập tự chinh:~ 35.000 người

  • 30.000 bộ binh
  • 5.000 kỵ binh

Byzantine:~ 2.000 người

Nông dân Pháp+Đức+Ý~ 100.000 người

Tín đồ Hồi giáo:Đế quốc Đại SeljukVương quốc Hồi giáo DanishmendVương quốc Hồi giáo FatimidVương quốc Hồi giáo AlmoravidVương quốc Hồi giáo Abbasid

Chỉ huyKilij Arslan IYaghi-SiyanKerboghaDuqaqFakhr al-Mulk RadwanGhazi ibn DanishmendIftikhar Ad-DaulaAl-Afdal Shahanshah

Lực lượngKhông rõ nhưng đông hơn lực lượng chính quy của Thập tự quân

Cuộc Thập tự chinh đầu tiên là một cuộc viễn chinh quân sự 1096-1099 do người Kitô giáo phương Tây tiến hành để lấy lại Đất Thánh vốn đã bị lấy mất trong các cuộc chinh phục của người Hồi giáo Các nước Trung cận động, cuối cùng họ (người Kitô giáo phương Tây ) cũng tái chiếm được Jerusalem. Nó (Cuộc Thập tự chinh đầu tiên ) được bắt đầu vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục tiêu chính là đáp ứng kháng thư của Hoàng đế Byzantine Alexios I Komnenos, người đã yêu cầu những người tình nguyện phương Tây đến để viện trợ và giúp đỡ mình đẩy lùi các cuộc xâm-lược của người Turks Seljuk từ Anatolia. Một mục tiêu bổ sung nhanh chóng trở thành mục tiêu chính-cuộc tái chiếm Jerusalem – thành phố thiêng liêng của người Kitô giáo cùng với vùng Đất Thánh và giải phóng người Kitô giáo phương Đông từ sự cai trị của người Hồi giáo.

Trong suốt cuộc thập tự chinh, các hiệp sĩ và những người nông dân từ nhiều quốc gia của Tây Âu hành quân trên đất liền và bằng đường biển, đầu tiên là họ đến Constantinople và sau đó là về hướng Jerusalem, như là các đạo quân viễn chinh, những người nông dân đông hơn rất nhiều so với các hiệp sĩ. Nông dân và các hiệp sĩ được chia thành các đội quân riêng, tuy nhiên vì người nông dân đã không được đào tạo trong chiến đấu như các hiệp sĩ, quân đội của họ đã không đạt được Jerusalem. Khi các hiệp sĩ đến được Jerusalem, họ đã phát động một cuộc tấn công vào thành phố và chiếm giữ nó trong tháng 7 năm 1099 và thành lập các thành bang thập tự quân bao gồm Vương quốc Jerusalem, Công quốc Tripoli, Công quốc Antioch và Công quốc Edessa.

Vì cuộc Thập tự chinh đầu tiên chủ yếu liên quan đến Jerusalem, một thành phố mà đã không nằm trong ảnh hưởng của người Thiên chúa giáo trong 461 năm và quân đội thập tự chinh đã từ chối trả lại đất cho Đế quốc Byzantine, bản chất của cuộc Thập tự chinh đầu tiên là phòng thủ hay tấn công vẫn còn gây tranh cãi.

Cuộc Thập tự chinh đầu tiên là một phần của phản ứng của Kitô giáo với các cuộc chinh phục của người Hồi giáo, tiếp theo cuộc Thập tự chinh thứ hai … cho đến cuộc Thập tự chinh lần thứ IX, nhưng các cuộc Thập tự chinh khác vẫn nổ ra trong ít nhất hơn 200 năm sau. Nó cũng là bước tiến lớn đầu tiên để mở cửa trở lại thương mại quốc tế ở phương Tây kể từ sự sụp đổ của Đế quốc La Mã phương Tây.

Bối cảnh

Nguồn gốc của các cuộc thập tự chinh nói chung, và đặc biệt là của cuộc Thập tự chinh đầu tiên vẫn còn đang được tranh cãi giữa các sử gia. Phần lớn các cuộc thập tự chinh có liên quan đến tình hình chính trị và xã hội của châu Âu trong thế kỷ thứ 11, sự nổi lên của một phong trào cải cách trong chức vị giáo hoàng, và cuộc đối đầu về chính trị và tôn giáo giữa Kitô giáo và Hồi giáo ở châu Âu và Trung Đông. Kitô giáo đã lan khắp châu Âu, châu Phi và Trung Đông vào thời Cổ đại, nhưng vào đầu thế kỷ 8 nó đã bị giới hạn ở châu Âu và vùng Anatolia sau những cuộc chinh phục Hồi giáo. Vương quốc Hồi giáo Umayyad đã chinh phục Syria, Ai Cập và Bắc Phi chủ yếu là từ Đế quốc Byzantine Kitô giáo, và Tây Ban Nha từ Vương quốc Visigoth. Tại Bắc Phi, đế quốc Ummayad cuối cùng đã sụp đổ và một số vương quốc Hồi giáo nhỏ hơn đã xuất hiện, chẳng hạn như Aghlabids, đây chính là vương quốc đã tấn công vào Italy trong Thế kỷ thứ 9. Các thành phố Pisa, Genoa và Công quốc Catalonia bắt đầu chiến trận các vương quốc Hồi giáo để kiểm soát Lưu vực của biển Địa Trung Hải, điều này được minh chứng bằng các chiến dịch Mahdia và các trận chiến tại Majorca và Sardinia.

Tình hình ở châu Âu

Tại rìa phía tây của châu Âu và trong sự mở rộng của người Hồi giáo, phong trào Reconquista ở Tây Ban Nha cũng được tiến hành ở thế kỷ 11, đây được coi là cuộc chiến của ý thức hệ, bằng chứng là cuấn Epitome Ovetense của Rodrick McManigal trong năm 881, nhưng nó không phải là một dạng tiền thân của các cuộc thập tự chinh. Ở thế kỷ thứ 11 ngày càng có nhiều hiệp sĩ nước ngoài, chủ yếu là đến từ Pháp, đến Tây Ban Nha để giúp các Kitô hữu trong các nỗ lực của họ để tái chinh phục. Ngay trước khi các cuộc Thập tự chinh đầu tiên nổ ra, Giáo hoàng Urban II đã khuyến khích các Kitô hữu ở Tây Ban Nha chiếm lại lãnh địa Tarragona, Sử dụng nhiều các biểu tượng và ngôn từ tương tự như những thứ mà sau này được sử dụng để rao giảng về các cuộc thánh chiến cho người dân của châu Âu.

Bản thân vùng trung tâm của Tây Âu cũng đã chở nên tương đối ổn định sau sự Kitô hóa của người Saxon, Viking và Hungary vào cuối thế kỷ thứ 10. Tuy nhiên, sự tan rã của Đế quốc Carolingian đã tạo ra một tầng lớp chiến binh, những người lúc này không có nhiều việc để làm ngoài những cuộc chiến giữa bọn họ. Bạo lực xảy ra một cách ngẫu nhiên giữa các tầng lớp hiệp sĩ thường xuyên bị lên án là bởi nhà thờ và ( nhà thờ ) đã phản ứng bằng cách thành lập Hòa bình và thỏa thuận ngừng bắn của Thiên Chúa để cấm chiến đấu vào những ngày nhất định trong năm. Đồng thời, các giáo hoàng có đầu óc cải cách bước vào các cuộc xung đột với Hoàng đế La Mã Thần thánh, kết quả là nổ ra sự Tranh cãi về sự trao quyền. Các Giáo Hoàng như Đức Giáo Hoàng Gregory VII hợp lý hóa cuộc chiến tranh tiếp theo để chống lại các chỉ trích của Hoàng đế La Mã Thần thánh về vấn đề thần học. Người ta đã chở nên chấp nhận việc Đức Giáo Hoàng lợi dụng các hiệp sĩ trong cái tên Tín đồ Cơ đốc giáo không chỉ để chống lại kẻ thù chính trị của bản thân Giáo hoàng, mà còn để chống lại người Hồi giáo Tây Ban Nha hoặc về mặt lý thuyết để chống lại Triều đình người Turk Seljuk ở phía đông.

Về phía đông của châu Âu vốn là sân nhà của đế quốc Byzantine, họ gồm các Kitô hữu đã một thời gian dài theo một nghi thức Chính thống giáo riêng biệt, Chính thống giáo phương Đông và nhà thờ Công giáo La Mã đã ly giáo từ năm 1054. Các sử gia đã cho rằng mong muốn áp đặt quyền lực nhà thờ La Mã ở phía đông có thể là một trong những mục tiêu của chiến dịch này, mặc dù Urban II-người đã phát động cuộc Thập tự chinh đầu tiên, không bao giờ đề cập đến mục tiêu này một cách chính thức trong những lá thư của mình cho cuộc thập tự chinh “. Người Turk Seljuk đã xâm chiếm gần như toàn bộ vùng Anatolia sau thất bại của người Byzantine tại Trận Manzikert trong năm 1071, với kết quả là vào đêm trước của Hội đồng Clermont, lãnh thổ trong tầm kiểm soát của Đế quốc Byzantine đã giảm xuống chỉ còn hơn một nửa. Đến thời của Hoàng đế Alexios I Komnenos, lãnh thổ của Đế quốc Byzantine chủ yếu chỉ còn là vùng Balkan ở châu Âu và rìa Tây Bắc của vùng Anatolia và họ phải đối mặt với kẻ thù là người Norman ở phía tây cũng như người Thổ Nhĩ Kỳ ở phía đông. Để đối phó với sự thất bại ở Manzikert và sau đó thiệt hại của Byzantine ở Tiểu Á trong năm 1074, Giáo hoàng Gregory VII đã kêu gọi milites Christi (“Người lính của Chúa Kitô”) để đến và viện trợ cho Byzantine-Hy Lạp. Thực chất thì phần lớn lời kêu gọi này đã bị bỏ qua và thậm chí bị phản đối, tuy nhiên nó cũng tập trung được rất nhiều sự chú ý về phía đông.

Tình hình ở châu Á

Cho đến khi có sự xuất hiện của quân viễn chinh, Đế quốc Byzantine vẫn phải liên tục chiến đấu với người Turk Seljuq và các triều đại Thổ Nhĩ Kỳ khác kiểm soát vùng Anatolia và Syria. Người Seljuq, những người theo Hồi giáo dòng Sunni, đã cai trị Đế quốc Đại Seljuk trước đây, nhưng vào thời gian của cuộc Thập tự chinh đầu tiên nó đã bị chia thành một số tiểu quốc nhỏ hơn sau cái chết của Malik-Shah I trong năm 1092. Malik-Shah đã trao quyền thừa kế của vùng Anatolia cho Vương quốc Hồi giáo Rum của Kilij Arslan I, và Syria cho anh trai Tutush I-người đã chết trong năm 1095. Fakhr al-Mulk Radwan và Duqaq-con trai của Tutush đã kế thừa vùng Aleppo và Damascus tương ứng, rồi lại tiếp tục bị phân chia giữa các tiểu vương Syria đối kháng với nhau, cũng như Kerbogha-atabeg của Mosul.

Ai Cập và nhiều phần của Palestine đã bị kiểm soát bởi vương quốc Hồi giáo Fatimid Ả Rập Shia, vương quốc này chở nhỏ hơn một cách đáng kể kể từ khi có sự xuất hiện của người Seljuq. Chiến tranh giữa triều Fatimid và người Seljuq đã gây ra sự gián đoạn tuyệt đối cho các Kitô hữu địa phương và khách hành hương tây. Triều đình Fatimid, dưới sự cai trị danh nghĩa của quốc vương Hồi giáo al-Musta’li nhưng thực sự kiểm soát của tể tướng al-Afdal Shahanshah, đã bị mất Jerusalem vào tay người Seljuq trong năm 1073 (mặc dù một số tài liệu cũ nói rằng năm 1076); họ đã chiếm lại nó trong 1098 từ triều đình Artuqid, một bộ tộc Turk nhỏ hơn có liên kết với người Seljuq, ngay trước khi có sự xuất hiện của quân viễn chinh.

Nghiên cứu lịch sử

Bây giờ người ta không thể đánh giá chính xác tại sao cuộc Thập tự chinh đầu tiên lại xảy ra, mặc dù nguyên nhân của nó có thể đã được đề xuất bởi các sử gia. Các biên soạn lịch sử của cuộc thập tự chinh này đã phản ánh nỗ lực của các sử gia khác nhau để hiểu được nguyên nhân gây phức tạp và luận cứ của cuộc Thập tự chinh. Một lý thuyết thời đầu hiện đại, được gọi là ” luận án Erdmann “, được phát triển bởi nhà sử gia Đức Carl Erdmann, nó trực tiếp liên kết các cuộc thập tự chinh với các phong trào cải cách ở thế kỷ thứ 11. Lý thuyết này lần đầu tiên tuyên bố rằng ” việc chuyển chiến binh đến hỗ trợ phía đông và hỗ trợ cuộc chiến của đế quốc Byzantine là mục tiêu chính của Thập tự chinh, và rằng cuộc chinh phục thành phố Jerusalem là mục tiêu thứ yếu”.

Nói chung, các sử gia sau này hoặc có thể tiếp tục Erdmann với mở rộng hơn nữa luận án của ông, hoặc phản đối nó. Một số sử gia, chẳng hạn như Speros Vryonis, đã nhấn mạnh ảnh hưởng của sự gia tăng của Hồi giáo nói chung và đặc biệt là nhấn mạnh về tác động của các đợt tấn công của người Seljuk gần lúc đó. Steven Runciman cho rằng cuộc thập tự chinh đã được thúc đẩy bởi một sự kết hợp của thần học biện minh cho cuộc thánh chiến và một “sự bồn chồn nói chung và mùi vị của các cuộc phiêu lưu”, đặc biệt là giữa những người Norman và những “người con trai trẻ hơn” của giới quý tộc Pháp-những người không còn có cơ hội nào khác ( Trong gia đình một quý tộc Pháp thì thường người anh cả sẽ thừa kế gia tài, những người em trai phải bước ra ngoài để tìm kiếm cơ hội cho chính mình). Runciman thậm chí còn ngụ ý rằng không có mối đe dọa ngay lập tức từ thế giới Hồi giáo, ông còn cho rằng “vào giữa thế kỷ 11 rất nhiều Kitô hữu ở Palestine hiếm khi được chở nên dễ chịu như vậy “. Tuy nhiên, luận điểm của Runciman mình chỉ giới hạn đến vùng Palestine dưới sự cai quản của triều Fatimid 1029-1073 mà không đề cập đến thời của người Seljuq. Hơn nữa, nguồn này thường được coi là tích cực đối với nhiều Kitô hữu ở Palestine trong thế kỷ thứ 11 sau này được coi là không rõ ràng, vì có rất ít nguồn tài liệu bằng văn bản trong thời kỳ này từ Palestine và hầu như không tồn tại nguồn tư liệu của Kitô giáo phát sinh trực tiếp từ Palestine dưới thời cai trị của người Seljuk. Đối lập với đối liệu của Runciman, và trên cơ sở tài liệu hiện đại của người Jewish Cairo Geniza, cũng như tài liệu sau này của người Hồi giáo, Moshe Gil cho rằng cuộc chinh phục và chiếm đóng Palestine của người Seljuk (năm 1073-1098) là một giai đoạn “tàn sát và phá hoại, cùng với các khó khăn về kinh tế và tróc rễ dân Thiên chúa giáo”. Thật vậy, bản thảo của các nhà văn trước đó như Ignatius của Melitene, Michael xứ Syria đã ghi nhận rằng người Seljuq đã nhắm vào Coele-Syria và bờ biển Palestine để “phá hủy và cướp bóc”.

Thomas Asbridge lập luận rằng cuộc Thập tự chinh đầu tiên được Giáo hoàng Urban II phát động để cố gắng mở rộng quyền lực của giáo hội và để đoàn tụ giáo hội La Mã với Constantinople, vốn bị chia rẽ từ sự ly khai từ năm 1054. Tuy nhiên, Asbridge lại đưa ra rất ít bằng chứng từ những bài viết của Giáo hoàng Urban để củng cố tuyên bố này. Theo Asbridge, sự lan truyền của Hồi giáo là không quá quan trọng bởi vì “Hồi giáo và Thiên Chúa giáo đã cùng tồn tại một cách cân bằng trong nhiều thế kỷ “. Nhưng Asbridge lại không chú ý đến những cuộc chinh phục của người Thổ Nhĩ Kỳ vào phía nam Anatolia và Syria trước đó và đã phá vỡ sự cân bằng về quyền lực mong manh nhưng tương đối ổn định mà đế quốc Byzantine đã phần nào phục hồi và dần dần phát triển so với sức mạnh trước đó của đạo Hồi giáo trong suốt thế kỷ 11 và đầu 10 . Sau thất bại tại Manzikert trong năm 1071, người Hồi giáo đã chiếm mất một nửa lãnh thổ của đế quốc Byzantine, và các thành phố quan trọng về mặt chiến lược và tôn giáo như Antioch và Nicaea đã thất thủ trước người Hồi giáo chỉ trong thập niên trước khi Hội đồng Piacenza họp mặt. Hơn nữa, các tài liệu về cuộc xâm lược và chinh phục Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ được ghi nhận bởi các sử gia Kitô giáo phương Đông như là John Skylitzes, Michael Attaleiates, Matthew xứ Edessa, Michael xứ Syria và những người khác vốn được tổng hợp bởi Vryonis, dường như mâu thuẫn với hình ảnh mà Asbridge đưa ra đó là sự “chung sống” bình thản giữa thế giới Kitô giáo và Hồi giáo trong nửa sau của thế kỷ thứ 11.

Thomas Madden đại diện cho một quan điểm gần như trái ngược với quan điểm của Asbridge, cho rằng cuộc thập tự chinh chắc chắn liên quan đến cải cách giáo hội và nỗ lực để khẳng định thẩm quyền giáo hoàng, ông cũng lập luận rằng quan trọng nhất là một cuộc đấu tranh giải phóng các Kitô hữu, những người mà Madden khẳng định, “đã bị đàn áp khốc liệt dưới bàn tay của người Thổ Nhĩ Kỳ “. Lập luận này ám chỉ đến nạn bạo lực tương đối gần đó và các cuộc chiến tiếp sau những cuộc chinh phục của người Thổ Nhĩ Kỳ từ những bước tiến của người Hồi giáo. Christopher Tyerman kết hợp cả hai quan điểm đối lập trong luận án của mình, cụ thể là các cuộc Thập tự chinh xuất phát từ các cải cách giáo hội và các lý thuyết của thánh chiến cũng như nó là một phản ứng trong xung đột với thế giới Hồi giáo trên khắp Châu Âu và Trung Đông. Theo nghiên cứu của Jonathan Riley-Smith, nạn mất mùa và dân số quá đông đúc cùng với các phong trào thực dân trước đó đối với các khu vực biên giới của châu Âu cũng góp phần vào cuộc thập tự chinh…

Ý tưởng cho rằng những cuộc thánh chiến là một phản ứng với người Hồi giáo đã tồn tại từ thế kỷ thứ 12 khi nhà sử gia William xứ Tyre, người đã bắt đầu viết cuấn biên niên sử của ông khi thành phố Jerusalem đã thất thủ trước Umar. Mặc dù những cuộc chinh phục đầu tiên của người Hồi giáo đã được thực hiện nhiều thế kỷ trước khi cuộc Thập tự chinh đầu tiên được bắt đầu, các sự kiện gần đó hơn có thể vẫn còn in sâu trong tâm trí của các Kitô hữu châu Âu thời gian đó. Ví dụ, trong năm 1009 Nhà thờ Thánh Sepulchre đã bị phá hủy bởi al-Hakim bi-Amr Allah của Triều đình Fatimid; Đức Giáo Hoàng Sergius IV được cho là đã kêu gọi một cuộc viễn chinh quân sự để phản ứng lại hành động này, và ở Pháp nhiều cộng đồng người Do Thái thậm chí còn bị tấn công trả đũa mặc dù là bị nhầm đối tượng ( ở đây có lẽ là người Do Thái cho vay lãi cắt cổ nên giàu ú ụ-> bị người ta tranh thủ làm thịt). Mặc dù Nhà thờ Thánh Sepulchre đã được xây dựng lại sau cái chết của al-Hakim, và các cuộc hành hương đã được nối trở lại, bao gồm cả Cuộc Đại hành hương của người Đức năm 1064-1065, người hành hương vẫn tiếp tục bị tấn công từ người Hồi giáo địa phương. Ngoài ra, hơn nữa gần lúc này người Thổ Nhĩ Kỳ đã xâm nhập vào Tiểu Á và miền bắc Syria và theo các sử gia Kitô giáo phương Đông thì họ đã chắc chắn gieo rắc những tàn phá và người Byzantine đã trình bày lại điều này với Đức Giáo Hoàng để thu hút sự trợ giúp của người Kitô hữu ở châu Âu.

Hội đồng Clermont

Trong khi các cuộc thập tự chinh đã làm bắt rễ sâu trong cuộc sống chính trị và xã hội của châu Âu ở thế kỷ thứ 11, sự kiện cuối cùng thực sự gây ra cuộc Thập tự chinh đầu tiên được cho là đề nghị hỗ trợ từ hoàng đế Byzantine Alexios I Komnenos. Alexios đã lo lắng về sự tiến lên của người Seljuqs, lúc này họ đã đến tận phía tây İznik, cách không xa Constantinople. Trong tháng ba năm 1095, Alexios gửi sứ thần đến Hội đồng Piacenza để yêu cầu Giáo hoàng Urban II gửi viện trợ để chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ. Giáo hoàng trả lời một cách đầy triển vọng, có lẽ ông hy vọng sẽ hàn gắn sự ly khai lớn trong bốn mươi năm trước đó, và tái thống nhất Giáo Hội là ưu tiên của Đức Giáo Hoàng bằng cách giúp giáo hội phương Đông vào lúc họ cần giúp đỡ.

Trong tháng 7 năm 1095, Urban hướng về quê hương của ông ở nước Pháp để kêu gọi tuyển dụng người cho các cuộc viễn chinh. Ông đã đi đến đó và dự họp với Hội đồng Clermont trong tháng 11, ở đây theo một số bài phát biểu khác nhau được cho là cuả ông, ông đã diễn thuyết một bài giảng đầy nhiệt huyết trước đối tượng là một số lượng rất lớn giáo sĩ và các quý tộc Pháp, ông tả chi tiết về các hành động cực kỳ tàn bạo được cho là nhằm đã nhằm vào người hành hương và các Kitô hữu phương Đông . Có năm bản ghi nhớ của bài phát biểu được ghi lại bởi những người có thể đã ở tại Hội đồng (Baldric của Dol, Guibert xứ Nogent, Robert the Monk và Fulcher xứ Chartres) hoặc những người đã tham gia vào cuộc thánh chiến (Fulcher và tác giả vô danh của cuấn Gesta Francorum), Cũng như các phiên bản khác tìm thấy bởi các sử gia sau này (chẳng hạn như William xứ Malmesbury và William xứ Tyre). Tất cả các phiên bản được viết sau khi Jerusalem đã bị chiếm đóng ( chắc là bởi quân Thập tự chinh). Vì vậy thật khó để biết những gì đã thực sự được nói và những gì là tái tạo từ kết quả của một cuộc thập tự chinh thành công. Hồ sơ hiện đại chỉ là một vài chữ cái được viết bởi Đức Giáo Hoàng Urban trong năm 1095.

Tất cả năm bản ghi nhớ của bài diễn văn này rất khác nhau từ chi tiết tới tổng thể. Tất cả các phiên bản, ngoại trừ trong cuấn Francorum Gesta, nói chung đồng ý rằng Urban nói chuyện về bạo lực của xã hội châu Âu và sự cần thiết phải duy trì hòa bình của Thiên Chúa; về việc giúp đỡ người Byzantine-Hy Lạp, những người đã yêu cầu để được hỗ trợ; về những người dị giáo đang tấn công các Kitô hữu ở phía Đông và về một cuộc chiến kiểu mới, như các cuộc hành hương có vũ trang và các phần thưởng từ trên trời rơi, nơi sự tha thứ được trao cho bất kỳ người nào phải chết trong các cuộc Thập tự chinh. Đặc biệt là không phải tất cả các phiên bản này đều đề cập đến Jerusalem như là mục tiêu cuối cùng, tuy nhiên, người ta lại lập luận rằng thuyết giảng tiếp theo của Urban tiết lộ rằng ông mong đợi rằng tất cả các chuyến viễn chinh cuối cùng sẽ đến được Jerusalem. Theo một phiên bản của bài diễn văn, đám đông đã nhiệt tình đáp lại bằng tiếng hô Deus vult! (“Chúa muốn vậy!”). Tuy nhiên, các phiên bản khác của bài diễn văn lại không bao gồm chi tiết này.

Tuyển dụng

Bài phát biểu của Urban cũng đã lên kế hoạch tuyển dụng, ông đã thảo luận về các cuộc thập tự chinh với Adhemar xứ Le Puy và Raymond IV, Bá tước của Toulouse, và ngay lập tức cuộc viễn chinh đã có sự hỗ trợ của hai nhà lãnh đạo quan trọng nhất miền Nam nước Pháp. Bản thân Adhemar đã có mặt tại Hội đồng Clermont và là người đầu tiên ” take the cross – nhận chiếc thập tự”. Trong thời gian còn lại của năm 1095 và vào năm 1096, Urban cho thông tin trên toàn nước Pháp và thúc giục các giám mục và các đại diện của mình thuyết giảng trong giáo phận của họ ở những nơi khác tại Pháp, Đức và Italy. Tuy nhiên, rõ ràng là phản ứng với bài diễn văn là nhiều hơn với ngay cả với dự kiến Đức Giáo Hoàng hay Hoàng đế Alexios. Sau ngày ông đi Pháp về, Urban đã cố gắng để ngăn cấm một số loại người nhất định (bao gồm cả phụ nữ, tu sĩ, và người bệnh) tham gia vào cuộc thập tự chinh, nhưng thấy rằng điều này gần như là không thể. Cuối cùng, hầu hết những người hưởng ứng lời kêu gọi lại không phải là giới hiệp sĩ, mà là những người nông dân không khá giả và có rất ít các kỹ năng chiến đấu… Thông thường thì sau khi lời rao giảng kết thúc tất cả mọi người đều tình nguyện tham gia một cuộc hành hương đến Nhà thờ Thánh Sepulchre, và họ cũng may một chữ thập chéo vào quần áo của họ.

Như Thomas Asbridge đã viết, “Cũng như chúng ta có thể làm gì khác hơn là ước tính số lượng hàng ngàn người phản ứng một cách nhiệt tình với lý tưởng thập tự chinh”, vì vậy với những bằng chứng còn sót lại chúng ta có thể có được một cái nhìn giới hạn về động lực và ý định của họ. ” các học giả trước đây cho rằng quân viễn chinh được thúc đẩy bởi sự tham lam, hy vọng tìm được một cuộc sống tốt hơn, thoát ra khỏi nạn đói và chiến tranh đang xảy ra ở Pháp, nhưng ghi chú của Asbridge, “Hình ảnh này là … gây hiểu lầm sâu sắc.” Ông lập luận rằng lòng tham không thể là một yếu tố chính vì chi phí là rất cao để đi một chuyến xa nhà, và bởi vì hầu hết tất cả quân viễn chinh cuối cùng đã trở về nhà sau khi hoàn thành cuộc hành hương của họ thay vì cố gắng tạo ra của cải cho bản thân mình trong vùng đất Thánh. Do đó rất khó khăn hoặc không thể đánh giá các động cơ của hàng ngàn người nghèo mà không có các hồ sơ lịch sử, hay ngay cả đối với những hiệp sĩ quan trọng, có những câu chuyện thường được kể lại bởi các thầy tu hoặc giáo sĩ. Vì thế giới thế tục thời trung cổ đã ăn rất sâu vào thế giới tâm linh của giáo hội, rất có thể đạo đức cá nhân là một trong những nhân tố chính cho nhiều Thập tự quân.

Mặc dù sự nhiệt tình là rất phổ biến, tuy nhiên, Urban muốn đảm bảo rằng sẽ có một đội quân các hiệp sĩ, được rút ra từ các tầng lớp quý tộc Pháp. Ngoài Adhemar và Raymond và các nhà lãnh đạo khác, ông tuyển dụng trong năm 1096 bao gồm Bohemond I của Antioch, một đồng minh ở miền nam Ý của các giáo hoàng theo phe cải cách; Bohemond cháu trai của Tancred-Hoàng thân Galilee; Godfrey xứ Bouillon, người đã từng là một đồng minh chống lại cải cách của Hoàng đế La Mã Thần thánh; anh trai của Baldwin I xứ Jerusalem; Hugh I-Bá tước Vermandois, anh trai của Philip I thông thái của Pháp quốc; Robert Curthose, anh trai của William II của Anh quốc; và Stephen II, Bá tước của Blois cùng với Robert II, Bá tước của Flanders. Các đoàn quân viễn chinh đại diện cho miền Bắc và miền Nam nước Pháp, Đức, và miền nam Ý và do đó được chia thành bốn đội quân riêng biệt mà không phải lúc nào cũng luôn luôn hợp tác, mặc dù họ đã được tổ chức lại với nhau bởi mục tiêu cuối cùng của họ.

Động cơ của giới quý tộc phần nào là rõ ràng hơn của những người nông dân, sự tham lam rõ ràng không phải là một yếu tố chính. Người ta thường giả định, ví dụ như Runciman đã nói ở trên, là chỉ các thành viên trẻ tuổi của một gia đình quý tộc tham gia vào cuộc thập tự chinh, để tìm kiếm sự giàu có và các cuộc phiêu lưu ở nơi khác, bởi vì họ không có triển vọng thăng tiến ở quê nhà. Riley-Smith lại chỉ ra rằng lý do không phải luôn luôn là như vậy. Cuộc thập tự chinh này đã được lãnh đạo bởi một số các quý tộc hùng mạnh nhất của Pháp, những người bỏ lại tất cả mọi thứ phía sau, và có cả trường hợp thường thấy là toàn bộ gia đình đã tham gia vào cuộc thập tự chinh với chi phí rất lớn của riêng họ. Ví dụ, Robert của Normandy phải cho vay Đất công tước của Normandy cho em trai của ông-William II của Anh và Godfrey phải bán-thế chấp tài sản của mình cho nhà thờ. Theo nhà viết tiểu sử của Tancred, ông lo lắng về bản chất tội lỗi của hiệp sĩ trong chiến tranh và được kích thích để tìm một lối thoát cho bạo lực ở vùng Đất thánh. Tancred và Bohemond, cũng như Godfrey, Baldwin, và anh trai của mình Eustace III, tước của Boulogne, là những ví dụ về các gia đình quyền quý đã tham gia thập tự chinh cùng với nhau. Riley-Smith lập luận rằng sự nhiệt tình của cuộc thập tự chinh có lẽ dựa trên quan hệ gia đình, vì hầu hết các quân viễn chinh Pháp đã bỏ lại người thân ở xa. Tuy nhiên, ít trong nhất một số trường hợp, động cơ cá nhân đóng vai trò động cơ của Thập tự chinh. Ví dụ, Bohemond đã được thúc đẩy bởi mong muốn chiếm được cho mình một lãnh thổ ở phía đông và trước đó đã chiến đấu chống lại Byzantine để cố gắng đạt được điều này. Cuộc Thập tự chinh cho ông một cơ hội nữa, đó chính là Cuộc bao vây Antioch của ông, kết quả là ông ta đã sở hữu của thành phố này và thành lập Công quốc Antioch.

Thập tự chinh của nhân dân

Tuy nhiên đây không phải là lần đầu tiên các nhà Đại quý tộc Pháp và các đội quân hiệp sĩ được đào tạo rất tốt của họ tiến hành các cuộc hành trình hướng về Jerusalem. Giáo Hoàng Urban đã lên kế hoạch xuất phát cho cuộc thập tự chinh đầu tiên vào ngày 15 tháng 8 năm 1096, đây là ngày Lễ Feast of the Assumption, nhưng nhiều tháng trước sự kiện này, một số đội quân không được tính tới của nông dân và các quý tộc nhỏ đã khởi hành đi Jerusalem vào các ngày của riêng họ, do một linh mục có sức lôi cuốn được gọi là Peter Hermit dẫn đầu. Peter là người thành công nhất trong các nhà truyền giáo khi truyền đạt thông điệp của Giáo Hoàng Urban và phát triển thành một sự nhiệt tình gần như cuồng loạn giữa các con chiên của ông, mặc dù có lẽ ông này không phải là một truyền giáo “chính thức” được cho phép bởi Giáo Hoàng Urban tại Clermont. Một thế kỷ sau ông này đã trở thành một nhân vật huyền thoại; William xứ Tyre tin rằng Peter chính là người đã khuấy lên ý tưởng về các cuộc thập tự chinh trong tâm trí của Urban. Người ta cho rằng Peter đã dẫn đầu một nhóm lớn gồm các nông dân chưa qua đào tạo quân sự và mù chữ, nhiều người thậm chí không có bất kỳ ý tưởng gì về Jerusalem, nhưng thực sự cũng có nhiều hiệp sĩ trong số các nông dân, bao gồm cả Walter Sans Avoir-người là Trung úy của Peter và dẫn đầu một đội quân riêng.

Bản đồ lộ trình của cuộc Thập tự chinh đầu tiên từ Châu Âu đến vùng Đất Thánh

Tranh vẽ Peter nhà ẩn sỹ dẫn đầu cuộc thập tự chinh của Nhân dân

Walter và người Pháp

Peter tập hợp quân đội của mình tại Cologne ngày 12 tháng 4 năm 1096, theo kế hoạch họ sẽ dừng lại ở đó và rao giảng cho người Đức và thu thập thêm quân viễn chinh mới. Tuy nhiên người Pháp lại không sẵn sàng chờ đợi Peter và người Đức và dưới sự lãnh đạo của Walter Sans-Avoir ( ông này vốn là một Hiệp sỹ nghèo còn có biệt danh là Walter không xu dính túi, nhưng ông đã được đào tạo về quân sự rất bài bản-ông không có lãnh chúa để phục vụ và không có chư hầu để chỉ huy, nhưng bù vào đó ông lại có kinh nghiệm về chiến tranh ), một vài ngàn quân viễn chinh người Pháp đã tiến trước Peter và đến được Hungary ngày 8 tháng 5, họ đi xuyên qua Hungary mà không có chuyện gì xảy ra và khi đến sông Sava tại biên giới lãnhthổ của Byzantine ở Belgrade. Viên tổng trấn Belgrade đã bị bất ngờ và đã không đưa ra mệnh lệnh để đối xử với họ như thế nào, và từ chối cho họ đi vào thành phố buộc quân viễn chinh phải cướp bóc các vùng nông thôn để lấy thực phẩm. Sự kiện này dẫn đến một cuộc giao tranh giữa quân Thập tự chinh với các đơn vị đồn trú ở Belgrade, đồng thời làm cho vấn đề chở nên tồi tệ hơn, mười sáu người của Walter đã cố gắng cướp một cửa hàng trên sông Zemun ở Hungary và đã bị tước áo giáp và quần áo, sau đó họ bị treo cổ trên các bức tường lâu đài. Cuối cùng, quân viễn chinh đã được phép tiến đến Nis, nơi họ được cung cấp thức ăn và chờ đợi những thông tin từ Constantinople.

Từ Cologne đến Constantinople

Peter và số quân viễn chinh còn lại rời Cologne vào ngày 20 tháng 4. Khoảng 40.000 quân Thập tự chinh lên đường ngay lập tức, trong khi một nhóm khác sẽ đi theo ngay sau đó. Khi họ đến bờ sông Danube, một phần của đội quân này đã quyết định tiếp tục đi bằng thuyền xuôi theo dòng sông Danube, trong khi phần chính tiếp tục đi theo con đường bộ và đi vào Hungary tại ở tại thị trấn Sopron. Ở đó, họ tiếp tục đi xuyên qua Hungary mà không gặp sự cố nào và tái gia nhập đội ngũ đi theo dòng Danube tại Zemun trên biên giới với Byzantine.

Tại Zemun quân viễn chinh trở nên nghi ngờ vì thấy cảnh 16 người của Walter bị treo cổ lủng lẳng trên các bức tường và cuối cùng một cuộc tranh chấp về giá cả của một đôi giày trong một cửa hàng đã dẫn đến bạo loạn và sau đó biến thành một cuộc tấn công toàn diện của quân viễn chinh vào thành phố (có thể điều này là ngoài ý muốn của Peter), trong vụ này khoảng 4.000 người Hungary đã bị giết. Sau đó quân viễn chinh bỏ chạy qua sông Sava đến Belgrade, nhưng chỉ sau khi đã giao c

Từ khóa » Cuộc Viễn Chinh Chữ Thập ở Châu âu