Thập Tự Chinh - Yêu Lịch Sử

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Thập tự chinh

Thập tự chinh Thập tự chinh là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quý tộc là những người tình nguyện cầm lấy cây thập giá với mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của Kitô giáo với vùng Đất Thánh. Quân thập tự đến từ khắp Tây Âu, và đã có một loạt các chiến dịch không liên tục giữa năm 1095 và 1291. Các chiến dịch tương tự ở Tây Ban Nha và Đông Âu tiếp tục vào thế kỷ 15. Các cuộc Thập Tự Chinh được chiến đấu chủ yếu giữa người Công giáo La Mã chống lại người Hồi giáo và các tín hữu Kitô giáo theo Chính Thống giáo Đông phương trong Byzantium, với các chiến dịch nhỏ hơn tiến hành chống lại người Slav ngoại giáo, Balts ngoại giáo, Mông Cổ, và người Kitô giáo ngoại đạo. Chính Thống giáo Đông phương cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc Thập Tự Chinh. Thập tự chinh được thề và đã được cấp một ơn toàn xá bởi Đức Giáo hoàng. Các cuộc Thập Tự Chinh ban đầu có mục tiêu thu hồi lại Giêrusalem và Đất Thánh khỏi ách thống trị của Hồi giáo và các chiến dịch của họ đã được xuất phát từ lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo đế chế Byzantine để được sự giúp đỡ nhằm chống lại sự mở rộng của người Thổ Seljuk theo đạo Hồi tới Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch đương thời và sau đó được thực hiện ở thế kỷ 16 ở vùng lãnh thổ bên ngoài Levant, thường là để chống lại ngoại giáo, và nhân dân bị khai trừ giáo tịch, cho một hỗn hợp của các lí do tôn giáo, kinh tế, và chính trị. Sự kình địch giữa các quốc gia Kitô giáo và Hồi giáo đã dẫn liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh Kitô giáo với Vương quốc Hồi giáo của Rûm trong cuộc Thập Tự Chinh thứ năm. Các cuộc Thập Tự Chinh đã có một số thành công tạm thời, nhưng quân Thập tự cuối cùng bị buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Tuy nhiên các cuộc Thập Tự Chinh đều tác động từ chính trị, kinh tế và xã hội sâu rộng ở châu Âu. Bởi vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số cuộc thám hiểm thập tự chinh đã chuyển hướng từ mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập Tự Chinh thứ tư, dẫn đến sự chia cắt của Constantinopolis Thiên chúa giáo và sự phân vùng của đế chế Byzantine giữa Venice và quân Thập tự. Cuộc Thập tự chinh thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên xuất phát mà không có sự cho phép chính thức của Đức Giáo hoàng. Các cuộc Thập Tự Chinh thứ bảy, thứ tám và thứ chín đã dẫn đến kết quả là chiến thắng của Mamluk và triều đại Hafsid, như cuộc Thập Tự Chinh thứ chín đã đánh dấu sự kết thúc của cuộc Thập Tự Chinh ở Trung Đông. Bối cảnh, nguyên nhân, động cơ Khoảng thế kỷ thứ 7, những người đứng đầu đạo Hồi tiến hành các cuộc trường chinh xâm chiếm các vùng đất mới. Từ năm 660 đến năm 710, các giáo sĩ Hồi giáo đã chiếm được một lãnh thổ rộng lớn ở Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ. Đến năm 720, những kỵ binh Hồi giáo chiếm Tây Ban Nha rồi thọc sâu vào đến tận lãnh thổ Pháp; từ năm 830 đến năm 976 Sicilia và miền nam Ý rơi vào tay người Hồi giáo. Lúc này, những đoàn hành hương của tín đồ Kitô giáo về các miền Đất Thánh mà trong đó Palestine là nơi thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ 4 và đến thế kỷ 11 đã trở nên rất thịnh hành. Người Thổ Seljuk Hồi giáo không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng Kitô giáo. Cũng sang thế kỷ 11, Đế quốc Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở châu Âu. Lúc này, nguy cơ người Hồi giáo tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người Kitô giáo đặc biệt là sau khi quân đội Seljuk đánh bại quân Byzantine trong trận Manzikert năm 1071 và bắt được cả hoàng đế Romanus IV thì con đường tiến về Constantinopolis đã được khai thông. Suleyman, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ và các chiến binh của ông thậm chí còn định cư ngay tại Niacea, chỉ cách Constantinopolis vài dặm. Để giành lại các vùng đất đã mất ở Tiểu Á, Hoàng đế Byzantine kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu gọi sự giúp đỡ từ Giáo hoàng và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa Chính thống giáo Đông phương và Công giáo La Mã xảy ra năm 1054. Ngày 27 tháng 11 năm 1095 tại Hội nghị giám mục, Giáo hoàng Urban II (tại vị 1088-1099) kêu gọi các hiệp sỹ, hoàng tử phương Tây và tín đồ Kitô giáo đến giúp đỡ tín hữu Kitô giáo phương Đông đồng thời giành lại những vùng Đất Thánh đã mất. Mặc dù những cuộc thánh chiến mang đậm màu sắc tôn giáo, nhưng giới sử học cho rằng bên trong nó còn có các động cơ kinh tế, chính trị, xã hội: Tôn giáo: việc thánh chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người Kitô giáo được hậu thuẫn bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo hội đang diễn ra. Trước khi Giáo hoàng Urban II phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Công cuộc cải cách của Giáo hội đã dẫn đến một thay đổi quan trọng: chính nghĩa là không chỉ là chịu đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa chúng. Các đạo quân thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo hội đang cải tổ mạnh mẽ. Kinh tế, chính trị: những cuộc thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số châu Âu phát triển mạnh mẽ và các học giả cho rằng trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như cuộc tấn công của người Đức vào phương Đông cũng như cuộc xâm chiếm của người Tây Ban Nha. Những cuộc thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở rộng sự bành trướng của phương Tây với các quốc gia Địa Trung Hải. Tuy nhiên thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người Đức và người Tây Ban Nha ở chỗ nó chủ yếu dành cho tầng lớp hiệp sỹ và nông dân du cư ở Palestine. Xã hội: tầng lớp hiệp sỹ đặc biệt nhạy cảm với sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số châu Âu trong giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành chiến tranh và trong bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, những cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy ra. Giáo hoàng Urban II đã nói với các hiệp sỹ của nước Pháp như sau: "Đất đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau." Như vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên góc độ nào đó các cuộc thập tự chinh là phương tiện bạo lực nhằm rút bạo lực ra khỏi đời sống thời Trung Cổ. cũng như đem lại lợi ích kép như lời Thánh Bernard thành Clairvaux đã nói: "Sự ra đi của họ làm cho dân chúng hạnh phúc, và sự đến của họ làm phấn khởi những người đang thúc giục họ giúp đỡ. Họ giúp cả hai nhóm, không những bảo vệ nhóm này mà còn không áp bức nhóm kia.". Các cuộc Thập tự chinh Về danh sách các cuộc thập tự chinh, chưa có sự thống nhất cao trên thế giới, danh sách này có thể lên đến 9 cuộc tùy quan điểm. Thập tự chinh thứ nhất (1095 - 1099) Tháng 9 năm 1095, Giáo hoàng Urban II đã có một bài thuyết giảng tại Clermont, miền nam nước Pháp kêu gọi giới quý tộc đảm nhiệm cuộc viễn chinh vào Đất Thánh. Lời kêu gọi này đã gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội phương Tây và dẫn đến một cuộc thập tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của nông dân và người nghèo ở miền bắc Pháp và châu thổ sông Rhine cùng với một số hiệp sỹ và tu sỹ vào tháng 2 năm 1096, được lãnh đạo bởi một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là Piere l'Ermite. Đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức tốt này tấn công người Do Thái, từ Cologne (Đức) vượt qua Bulgaria, Hungary rồi kéo đến Constantinople. Sau khi được hoàng đế Alexios I của Byzantine đưa qua eo Bosphorus, họ nhanh chóng bị quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đánh tan. Ngay sau đó, một đội quân thực sự được tổ chức tốt do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường tiến hành cuộc thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Những chỉ huy gồm có: Robert xứ Normandy (con trai của William the Conqueror); Godfrey xứ Bouillon cùng hai anh trai là Baldwin xứ Boulogne và Robert xứ Flanders; Raymon IV xứ Toulouse; Bohemond I xứ Antioch, Tancred xứ Taranto,... Họ dẫn đầu 4 đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến Constantinople năm 1096 và 1097 để từ đó tấn công nhà Seljuk ở Rum. Cuối tháng 4 năm 1097, đội quân thập tự chinh tiến vào lãnh thổ của người Seljuk và giành được thắng lợi đầu tiên trong trận Dorylaeum[10] ngày 1 tháng 7 năm 1097. Chiến thắng có tính chất bước ngoặt của thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng Antioch[11] và đã giành được thắng lợi sau cuộc vây hãm kéo dài 8 tháng, mở thông đường tiến về Jerusalem. Ngày 7 tháng 6 năm 1099, Thập tự quân tới Jerusalem và bắt đầu vây hãm thành phố. Ngày 15 tháng 7 năm 1099, thập tự quân đột kích chiếm Jerusalem và tàn sát các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo cũng như cả Chính thống giáo Đông phương[12]. Trong khi đoàn quân chủ yếu tiến đến Antiochia và Jerusalem thì Baldwin xứ Boulogne tách đội quân của mình ra để chiếm Edessa[13], nơi ông thiết lập Công quốc thập tự quân đầu tiên ở phương Đông. Sau đó với sự giúp đỡ của hạm đội của Venice và Genoa, Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ Đông Địa Trung Hải và thiết lập bá quốc Tripoli và 1 số tiểu quốc khác. Kết quả của Thập tự chinh thứ nhất là đã lập ra một loạt những Công quốc Thập tự quân: Edessa, Antioch, Tripoli... và đặc biệt là Jerusalem trải rộng trên khắp vùng Cận Đông. Thập tự chinh thứ hai (1147 - 1149) Năm 1144, việc quân Hồi giáo tái chiếm Edessa và uy hiếp Jerusalem đã dẫn đến cuộc thập tự chinh thứ hai do Bernard thành Clairvaux tích cực phát động. Đoàn thập tự chinh gồm hai đội quân, một do vua Louis VII của Pháp, một do vua Konrad III (Hohenstaufen) của Đức chỉ huy lên đường chiếm Damascus (Syria) để tạo tiền đồn phòng thủ tốt hơn cho Jerusalem. Cuộc đột chiếm Damascus thất bại, thành phố này rơi vào tay vua Nur ad-Din Zangi, vị tiểu vương Hồi giáo đã dẫn quân đến cứu viện theo đề nghị của Damascus. Đội quân thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào ngoại trừ việc Thập tự quân Bắc Âu dừng lại ở Lisboa và cùng với người Bồ Đào Nha chiếm lại thành phố này từ người Hồi giáo. Thập tự chinh thứ ba (1189 - 1192) Sau khi Saladin chiếm được Ai Cập, trở thành Sultan ở đây và thống nhất các tín đồ Hồi giáo, Syria bị đe dọa nghiêm trọng, lãnh thổ của người Kitô giáo có thể bị xâm lấn bất cứ lúc nào. Năm 1187, Saladin đánh bại quân Thập tự và chiếm lại Jerusalem nên nguy cơ công quốc thập tự quân này bị xóa sổ đã hiện hữu. Trước tình hình đó, hoàng đế Friedrich I Barbarossa của đế quốc La Mã thần thánh, vua Philippe II Auguste của Pháp cùng vua Richard I tim Sư tử của Anh đồng loạt tiến quân về phương Đông, tiến hành cuộc Thập tự chinh thứ ba. Ngày 10 tháng 6 năm 1190, Friedrich I Barbarossa chết đuối khi đang vượt sông Saleph (nay là sông Goksu) ở xứ Tiểu Á, Thổ Nhĩ Kỳ và hầu hết quân đội của ông quay trở về nước. Đội quân của Richard tim Sư tử và Philippe II Auguste đã vây hãm và chiếm được Acre[14], đây là thắng lợi quan trọng nhất của cuộc thập tự chinh này, nhưng do mâu thuẫn vốn có giữa 2 vương quốc nên Philippe II Auguste bỏ về nước để thực hiện các kế hoạch thiết thân hơn ở Tây Âu. Mặc dù vậy, thập tự chinh thứ ba kết thúc trong bế tắc, Richard phải kí hòa ước với Saladin vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, theo đó lãnh thổ của công quốc Jerusalem vẫn nằm trong một phạm vi hẹp từ Acre đến Jaffa và việc người Kitô giáo hành hương được quyền viếng thăm Jerusalem trong 3 năm là kết quả của cuộc viễn chinh tốn kém này. Trên đường về nước năm 1192, con tàu của Richard tim Sư tử bị hỏng ở Aquileia (Ý), ngay trước Giáng Sinh năm ấy, ông bị Leopold V (Công tước Áo) bắt giữ rồi trao cho hoàng đế Heinrich VI (Đế quốc La Mã thần thánh). Richard tim Sư tử bị cầm tù cho đến 4 tháng 2 năm 1194 mới được giải phóng sau khi đã trả tiền chuộc. Thập tự chinh thứ tư (1202 - 1204) Cuộc Thập tự chinh thứ tư bắt đầu năm 1202 do Giáo hoàng Innocent III phát động với mục tiêu chiếm Ai Cập để từ đó tấn công Jerusalem. Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy thập tự quân đã thỏa thuận với Venezia nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc hành quân sang Ai Cập, để đổi lại, người Venezia sẽ nhận một nửa đất chiếm được và Thập tự quân phải trả 85000 đồng mác bằng bạc [15]. Sau đó, Venezia đề nghị đội quân thập tự chinh đánh chiếm Zara, địch thủ thương nghiệp của Venezia [16], một thành phố cũng của người Kitô giáo. Bởi còn thiếu 34000 mác, thập tự quân đã tấn công và đánh chiếm Zara vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người Venezia lại thuyết phục thập tự quân tấn công Constantinople, thủ đô của Đế quốc Byzantine theo Chính thống giáo Đông phương. Thành phố vốn đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày 12 tháng 4 năm 1204. Mặc dù Giáo hoàng Innocent III cố gắng ngăn chặn các đạo quân thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố[17]. Sau đó người Venezia và Thập tự quân phân chia đế quốc Byzantine thành các công quốc và thống trị cho đến năm 1261. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà Thập tự quân không tiếp tục tiến về Đất Thánh. Thập tự chinh thứ năm (1217 - 1219) Thập tự chinh thứ năm do Giáo hoàng Honorius III tổ chức, Thập tự quân năm 1217 gồm các đạo quân do Leopold VI (Công tước Áo) và András II của Hungary dẫn đầu, đến năm 1218, quân đội của Oliver thành Cologne và một đội quân hỗn hợp của vua Hà Lan Willem I cũng tham gia. Mục tiêu của Thập tự quân lần này là tấn công Ai Cập. Năm 1218, John thành Brienne, vua Jerusalem bị thay thế. Năm 1219, Thập tư quân công chiếm Damietta[18] và Giáo hoàng cử đại diện là Pelagius[19] thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Người Hồi giáo đã đề nghị đổi quyền kiểm soát giữa Damietta và Jerusalem nhưng Pelagius từ chối. Năm 1219, Thập tự quân định tấn công Cairo nhưng không vượt qua được sông Nin đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui do hậu cần không đảm bảo. Trên đường rút lui, những cuộc tấn công vào ban đêm của quân đội Hồi giáo đã gây nhiều thiệt hại cho Thập tự quân và Damietta bị tái chiếm. Thập tự chinh thứ sáu (1228 - 1229) Đoàn quân do hoàng đế Friedrich II (Đế quốc La Mã thần thánh) đứng đầu tiến hành Thập tự chinh thứ sáu năm 1228 nhưng nhanh chóng quay trở về và Friedrich II đã bị Giáo hoàng rút phép thông công. Sau đó Friedrich II quay sang đàm phán, năm 1229 ông đạt được với người Hồi giáo một hiệp ước hòa bình trong mười năm, khôi phục lại quyền kiểm soát Jerusalem, Nazareth và Bethlehem cùng với một hành lang từ Jerusalem ra biển cho những người Kitô giáo. Trước sự chống đối của các giáo trưởng ở Jerusalem, Friedrich II đã tự phong mình làm vua ở đây năm 1229. Năm 1244, Jerusalem thất thủ trước sự tấn công ồ ạt của lính đánh thuê Hồi giáo và người Kitô giáo chỉ trở lại kiểm soát được thành phố này vào năm 1917. Thập tự chinh thứ bảy (1248 - 1254) Sau khi Jerusalem bị chiếm, vua Pháp Louis IX (Thánh Louis) đã chuẩn bị một cuộc Thập tự chinh vào năm 1247, mục tiêu lần này vẫn là Ai Cập. Mặc dù đội quân không được tổ chức tốt, năm 1248, ông vẫn chiếm được Damietta một cách dễ dàng và tiến quân về Cairo năm 1249. Tuy nhiên, Thập tự quân nhanh chóng bị quân Hồi giáo của Baybars I và Emir Fakr ed-Din đánh bại trong trận Mansoura[21] ngày 8 tháng 2 năm 1250, Damietta lại rơi vào tay người Hồi giáo. Vua Louis IX của Pháp bị bắt làm tù binh và được thả sau khi đã trả tiền chuộc. Thập tự chinh thứ tám (1270) Chiếm Constantinople năm 1204 Các sự kiện Jaffa và Antioch bị người Hồi giáo chiếm lại đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh do Vua Louis IX tiến hành. Cuộc viễn chinh lần này nhằm đến Tunisia, Thập tự quân tấn công Tunis nhưng ngày 25 tháng 8 năm 1270, Louis IX chết ở gần Tunis vì bệnh dịch hạch. Sau đó đội quân của Louis IX cùng với đoàn Thập tự quân do hoàng tử Anh Edward tiếp tục tiến hành cuộc Thập tự chinh nhưng không đạt kết quả nào. Cuộc tấn công Tunis ngừng lại còn hoàng tử Edward dẫn quân tới Acre. Những hoạt động của đội quân do hoàng tử Edward chỉ huy trong những năm 1271 - 1272 có tài liệu gọi là Thập tự chinh thứ chín, có tài liệu lại ghép vào cùng với Thập tự chinh thứ tám. Trong hai năm này, hoàng tử Edward cũng không đạt được kết quả nào đáng kể cho đến khi ông đình chiến và quay trở về Anh để kế thừa ngôi báu sau cái chết của nhà vua Henry III. Đây cũng là cuộc viễn chinh cuối cùng trong thời Trung Cổ của người Kitô giáo tới miền Đất Thánh. Năm 1289, Tripoli bị người Hồi giáo chiếm và tới năm 1291, khi Acre cũng rơi vào tay họ thì giai đoạn của các cuộc Thập tự chinh thời trung cổ kết thúc. Thập tự chinh thứ chín 1271–1272 Thập tự chinh phía Bắc (Baltic và Đức) Các cuộc thập tự chinh khác Ngoài những cuộc thập tự chinh tới miền Đất Thánh, một số hoạt động quân sự khác trong giai đoạn này cũng được gọi là Thập tự chinh như: chiến dịch quân sự chống lại giáo phái Albi ở vùng Languedoc, Pháp từ năm 1209 đến năm 1229; sự kiện thực hư lẫn lộn xảy ra năm 1212 khi hàng loạt trẻ em kéo tới Ý được gọi là Thập tự chinh của trẻ em; hay các hoạt động quân sự chống lại người Tarta, những cuộc hành binh đến Thụy Điển, vùng Balkan... cũng được coi là Thập tự chinh. Các hiệp sỹ tham gia thập tự chinh Ngay sau cuộc Thập tự chinh thứ nhất, các hiệp sỹ đã hình thành nên một tầng lớp mới, tầng lớp quân đội-tôn giáo. Những phẩm chất như sự cống hiến, kỷ luật và kinh nghiệm tu hành của họ được kết hợp vào mục đích quân sự của các cuộc thập tự chinh. Tầng lớp này cung cấp các đội bảo vệ vũ trang cho những đoàn hành hương về Đất Thánh, bảo vệ dân cư và trở nên rất cần thiết cho các vương triều phương Tây cũng như đóng vai trò quan trọng trong xã hội châu Âu thời kỳ đó. Hiệp sỹ dòng Đền (hay Hiệp sỹ Đền thờ; Tiếng Pháp: Ordre du Temple) do các hiệp sỹ Pháp thành lập đầu thế kỷ 12. Họ sống chung với nhau trong các khu nhà hoặc cộng đồng riêng và tôn chỉ là 3 lời thề tu sỹ: nghèo khó, thanh khiết và phục tùng. Họ tự ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ Công quốc Jerusalem, đảm bảo sự an toàn cho các tuyến đường nối tây Âu với các Công quốc Thập tự quân. Các Hiệp sỹ Đền thờ cũng đảm nhận việc vận chuyển, bảo vệ tiền bạc rất cần thiết cho những cuộc thập tự chinh diễn ra liên tục và do vậy trở thành thể chế ngân hàng quan trọng nhất của thời đại. Năm 1321, các hoạt động của Hiệp sỹ Đền thờ bị Giáo hoàng ra lệnh cấm. Hiệp sỹ Cứu tế Thánh Gioan hay gọi ngắn gọn là Hiệp sỹ Cứu tế (Knights Hospitaller) do các hiệp sỹ ở Jerusalem thành lập vào khoảng năm 1103. Tuy quân số không đông bằng Hiệp sỹ Đền thờ nhưng họ đã giữ vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ Công quốc Jerusalem trong suốt thời gian xảy ra những cuộc Thập tự chinh. Năm 1291, sau khi thành Acre thất thủ, tổng hành dinh của Hiệp sỹ Cứu tế dời đến Cyprus rồi sau đó đến đảo Rhodes và cuối cùng là đảo Malta. Cùng với các hiệp sỹ ở Malta, họ cai trị hòn đảo này cho đến năm 1798 khi Napoléon Bonaparte chiếm Malta trên con đường chinh phục Ai Cập. Các hiệp sỹ trở thành Giai cấp tối cao (Sovereign order) ở Malta và còn tồn tại đến ngày nay như một nhóm chuyên làm các công việc bác ái. Hiệp sĩ Giéc-man (tiếng Đức: Deutscher Orden): được thành lập vào khoảng năm 1190 ở Acre để bảo vệ các đoàn hành hương người Đức đến Palestine. Tổng hành dinh của họ sau được dời đến Venezia, rồi Transynvania năm 1211 và cuối cùng là đến Phổ năm 1299. Các Hiệp sỹ Giécman đã trở thành đội quân tiên phong của Đức mở rộng lãnh thổ về phía đông và chiếm được một vùng đất dọc theo biển Baltic. Năm 1525, trong phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu, Albert thành Brandenburg, một đại địa chủ theo học thuyết của Martin Luther đã nắm quyền kiểm soát ở đây và giải trừ quyền hành của tầng lớp Hiệp sỹ Giécman. Dấu ấn của Thập tự chinh Hai lực lượng chính đối đầu nhau trong những cuộc thập tự chinh là những người Kitô giáo và Hồi giáo có quan điểm đánh giá rất khác nhau về những cuộc Thập tự chinh. Đối với phương Tây, Thập tự chinh là những cuộc viễn chinh mạo hiểm nhưng anh hùng, những người tham gia thập tự chinh, dù rất nhiều trong số họ đã bỏ mình nơi chiến địa được xem là tiêu biểu cho sự dũng cảm và tinh thần hiệp sỹ. Richard tim Sư tử được xem là vị vua đắc thủ tất cả những đức tính của một hiệp sỹ kiểu mẫu - gan dạ, thiện chiến, phong độ uy nghi, ngay cả sự nhạy bén để soạn những bài ca trữ tình của giới ca sĩ hát rong. Louis IX, vị vua đã băng hà trong cuộc Thập tự chinh ở Tunisia, với đức tính ngoan đạo, khổ hạnh cũng như công lý mà ông đem lại cho nền quân chủ Pháp thậm chí trong suốt cuộc đời mình, vua Louis đã được xem là bậc thánh. Cao lớn, đẹp trai, lịch thiệp và quả cảm, vua Friedrich I Barbarossa, cũng giống như vị vua trước đó là Charlemagne, đã giành được vị trí lâu dài trong ký ức và huyền thoại của thần dân. Godfrey xứ Bouillon, với chiến công cùng với một nhóm hiệp sỹ của mình là những người đầu tiên vượt qua tường thành để xâm nhập Jerusalem và chiếm lại Đất Thánh trong cuộc vây hãm ở Thập tự chinh thứ nhất đã trở thành huyền thoại. Ông được người châu Âu thời ấy xếp vào một trong số Chín biểu tượng của tinh thần hiệp sỹ trong mọi thời đại, được ca ngợi trong những bản trường ca, một thể loại vốn phổ biến ở Pháp thời trung cổ. Cuộc tấn công Antioch cũng là chủ đề của bản Trường ca Antioch dài hơn 9.000 câu thơ. Những bài hát của ca sĩ hát rong ở khắp châu Âu ca ngợi những thủ lĩnh, những hiệp sỹ thập tự chinh và những mối tình lãng mạn của họ. Dấu ấn lịch sử của Thập tự chinh trong thế giới Hồi giáo không đậm nét bằng ở phương Tây mặc dù những vị vua Hồi giáo chống lại người Kitô giáo như Nur ad-Din,...đặc biệt là Saladin cũng rất được ngưỡng mộ và kính trọng. Đối với người Hồi giáo, Thập tự chinh là những sự kiện đầy tàn bạo và dã man và những cuộc chiến đấu của họ chống lại Thập tự quân được gọi là Thánh chiến. Ảnh hưởng của Thập tự chinh Mặc dù các cuộc Thập tự chinh không tạo ra sự hiện diện thường xuyên và vững chắc của phương Tây tại Tiểu Á nhưng sự tiếp xúc giữa văn hóa phương Đông và phương Tây đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hai nền văn hóa này. Kỹ thuật quân sự: sau những cuộc Thập tự chinh đầu tiên, Thập tự quân đã phải tiến hành các chiến dịch phòng thủ quy mô lớn ở những tiền đồn xa xôi và điều này khiến cho kỹ thuật phòng vệ, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng lâu đài phát triển. Các lâu đài có thiết kế công sự tháp treo để thuận lợi cho việc bắn vũ khí, ném gỗ, đá, dầu... vào những người tấn công; lối vào lâu đài được bố trí các góc, tường ngăn không cho đối phương công phá trực tiếp. Các lâu đài Hồi giáo cũng có bước phát triển tương tự. Cùng với kỹ thuật phòng thủ, các phương tiện công thành như máy bắn đá, máy phá thành bằng những khúc gỗ lớn...trở nên tinh vi và hiệu quả hơn; các kỹ thuật đào đất, đặt chất nổ...cũng có bước phát triển. Kinh tế: mặc dù không có số liệu thống kê tin cậy về thu nhập cũng như phí tổn của các cuộc Thập tự chinh nhưng chắc chắn rằng chúng rất tốn kém, đặc biệt là đối với phương Tây do họ phải tiến hành viễn chinh. Chiến tranh đã làm cạn kiệt dần nguồn lực của phương Tây dẫn đến phải áp dụng thuế ở mức độ cao. Để tài trợ cho Thập tự chinh thứ ba, năm 1188, với sự cho phép của Giáo hoàng, các vương công đã đánh thuế trực thu 10% trên thu nhập của tất cả tu sỹ và người dân có thu nhập gọi là Thuế thập phân Saladin. Thuế cũng kéo theo sự phát triển của các kỹ thuật quản lý, thu thuế, chuyển tiền...Mặt khác, Thập tự chinh kích thích thương mại giữa phương Đông và phương Tây: các sản phẩm như đường, gia vị,... từ phương Đông được buôn bán rất mạnh; các mặt hàng xa xỉ như vải lụa...cũng được phát triển sản xuất ngay tại châu Âu. Các cuộc thăm dò: Thập tự chinh đã kích thích những cuộc thăm dò của người phương Tây đến những nền văn hóa phương Đông. Khởi phát là các công quốc có Thập tự quân, các tu sỹ rồi đến thương gia; họ đã thâm nhập sâu vào lục địa châu Á và đầu thế kỷ 13 đã đến Trung Hoa. Những chuyến đi của họ, đặc biệt là của Marco Polo đã cung cấp cho châu Âu nguồn thông tin đa dạng và quý báu về Đông Á, tạo tiền đề cho những nhà hàng hải tìm kiếm các lộ trình mới để buôn bán với Trung Hoa vào cuối thế kỷ 15 và thế kỷ 16. Khát vọng thăm dò, chiếm đoạt các nền văn hóa khác, và mở rộng Kitô giáo là một phần mà các cuộc Thập tự chinh đã truyền cảm hứng cho chủ nghĩa đế quốc sau này. CÁC CUỘC THẬP TỰ CHINH CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ CHỐNG HỒI GIÁO Tiếng La Tinh CRUX có nghĩa là Thánh Giá hoặc Chữ Thập, biểu tượng của đạo Ki Tô. Từ chữ Crux phát sinh ra danh từ CRUSADE có nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công Giáo từ Âu Châu kéo qua các nước lân cận để tấn công những người Hồi Giáo trong thời Trung Cổ. Những người lính trong đoàn quân viễn chinh Công Giáo này đều mang huy hiệu chữ thập ở phía trước ngực và phía sau lưng nên được gọi là Thập Tự Quân (Crusaders). Suốt trong hai thế kỷ từ 11 đến 13 (1096-1291) những đoàn quân thập tự này đã gieo rắc biết bao kinh hoàng tang tóc cho những người Hồi Giáo Ả Rập. Hình ảnh tàn bạo man rợ của đoàn quân Công Giáo Âu Châu đã in sâu vào tim óc của thế giới Hồi Giáo nói chung và của những người Hồi Giáo Ả Rập nói riêng. Đến nỗi ngày nay, người Hồi Giáo đã đồng hóa Công Giáo với chủ nghĩa thực dân đế quốc. Mỗi khi lên án hành động bành trướng bá quyền của Tây Phương, họ thường tố cáo hành vi đó là "Tân chiến tranh thập tự". (Neo-Crusade). Cổ nhân thường nói "ôn cố tri tân", chúng ta hãy coi lại lịch sử của hai thế kỷ chiến tranh đẫm máu do những đoàn viễn chinh chữ thập Công Giáo La Mã phát động chống những người Hồi Giáo ở Trung Đông trong hai thế kỷ từ 11 đến 13. Những bài học lịch sử sẽ soi sáng cho chúng ta trong nhiều vấn đề của thời cuộc hôm nay và cũng để hiểu thêm thực chất của một tôn giáo thường hay vỗ ngực tự xưng là đạo của Công bằng bác ái! Để trình bày về đề tài này, chúng tôi tham khảo các tài liệu sau đây: The CRUSADES, by Brenda Staleup, Green Haven Press xuất bản 2000. The Oxford Illustrated History of Medieval Europe, by George Holmes, Oxford University Press 1986. The Cross and the Crescent, by Malcoms Billing, Sterling Publication 1988. NGUYÊN NHÂN CHIẾN TRANH Có hai nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thảm khốc giữa hai tôn giáo anh em (Fraternal faiths) kéo dài 195 năm là: sự xung đột như nước với lửa về giáo lý và sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo (nhưng thực chất cả hai đều là đế quốc). 1. Sự xung đột về giáo lý Mặc dầu kinh Koran là Kinh Thánh của đạo Hồi (Koran: The Muslim Gospel) công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng của Jessus. Koran gọi các phép lạ của Jesus là những trò ảo thuật học mót ở Babylon (Magic and such things as come down at Babylon - Koran 2:102). Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông, hoàn toàn phủ nhận cái chết của Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do Thái không giết và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not, nor cruxified him - Koran 4:157) Muhammad thù ghét Công Giáo vì đạo này thờ ảnh tượng, vi phạm điều răn thứ hai của Maisen. Một điều nữa mà Muhammad ghét cay ghét đắng là thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki Tô. Đối với Muhammad, đạo Ki Tô là Đa Thần Giáo, đi ngược lại chủ thuyết độc thần của tổ phụ Abraham. Hồi Giáo và đạo Do Thái là hai đạo Độc Thần đúng nghĩa vì chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God Religion). Công Giáo La Mã thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong... do đó Công Giáo là một tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng nghĩa. Muhammad cũng ghét đạo Do Thái vì Do Thái gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số nhiều của El). Đạo Hồi gọi Thiên Chúa bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả Rập là Il. Đi liền với Il có chữ "ah" là một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả Rập. Vì thế Il thành Il-ah. Khi chuyển sang Anh Ngữ, các chữ I đổi thành A, vì thế Il - ah thành ALLAH (cũng như Ibrahim trong tiếng Ả Rập đổi thành Abraham trong tiếng Anh). Muhammad gọi chung những người theo đạo Do Thái và Ki Tô Giáo là "Những tín đồ của các sách thánh kinh" (The People/The followers of the Books) hoặc gọi chung là "Những kẻ không tin Thiên Chúa Allah" (The Unbelievers). Riêng đối với các tín đồ Công Giáo, Muhammad gọi là "Những kẻ thờ thần tượng". (The Idolers). Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu gọi các tín đồ đạo Hồi Giáo phải chiến đấu chống lại những kẻ theo Do Thái, đạo Ki Tô và tất cả những ai không tin theo đạo Hồi. Trong vùng kiểm soát của Hồi Giáo, bất cứ một ai ngoại đạo đều phải nộp thuế thân và phải chấp nhận một địa vị thấp kém trong xã hội. (Fight those who do not believe God and His Messenger, those who among the People of the Books, fight them until they personnally pay tax on non - Muslims adknowledging their inferiority - Koran, sura 9). Những người Công Giáo thờ ảnh tượng bị coi là hạng người dơ bẩn và bị cấm vào các đền thờ Hồi Giáo (The idolers are nothing but unclean, so they shall not approach the sacred mosques - Koran 9:28). Các người Do Thái và Ki Tô bị cấm không được xây nhà thờ mới hay sửa chữa nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực, không được đọc kinh to tiếng và cấm ngặt rước kiệu trên đường phố. Người Ki Tô Giáo bị coi là đa thần giáo có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Koran chương 9 câu 5 đã qui định: "Khi những tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục kích để bắt chúng" (When the sacred months have passed away then kill the polytheists wherever you saw them, take them captives and wait for them in every ambush - Koran Sura 9: verse 5). Người Tây Phương gọi những câu thơ nói trên là "Những câu thơ của đao binh" (The verses of the swords). Trong thực tế, những câu thơ của kinh Koran đã tạo nên sự dũng mãnh của những đoàn quân Hồi Giáo trong công cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of Allah). Chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi Giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung Đông, một phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời những câu thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu sắc giữa các tôn giáo anh em và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc thánh chiến. 2. Sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo Từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ 6, toàn vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ của các giáo phái Ki Tô. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 7, đạo Hồi xuất hiện và bành trướng với tốc độ vũ bão chưa từng thấy khiến cả thế giới phải ngạc nhiên. Chỉ trong 10 năm kể từ khi Mohammad qua đời, quân Hồi chiếm trọn bán đảo Ả Rập bao la (bằng 4 lần tiểu bang Texas hoặc 8 lần Việt Nam) chiếm các nước Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía tây của nước Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy Lạp. Qua đầu thế kỷ 8 (711 - 716) quân Hồi dám đánh chiếm một nước Âu Châu nổi tiếng sùng đạo Công Giáo, đó là nước Tây Ban Nha. Trong thời gian đó, kỵ binh Hồi Giáo chiếm trọn Ba Tư (Iran) và từ đây xuất quân chiếm hết các nước Trung Á ở phía Nam nước Nga, chiếm trọn vùng Bắc Ấn (tức Pakistan và Afganistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng trận với quân nhà Đường trên sông Talas năm 751.) Ki Tô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng thời cũng mất rất nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó đế quốc La Mã và Ki Tô bị lâm vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành vi trả đũa nào cả! Đến đầu thế kỷ 11, Ki Tô giáo chia thành hai giáo phái với hai giáo đô thù nghịch nhau. Đó là Công Giáo La Mã (Roman Catholic) đóng đô tại Vatican và Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương (The Eastern Orthodox Church) đóng đô tại Byzantine, còn được gọi là Constantinople tức Istambul, thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Năm 1091, quân Hồi tấn công Byzantine. Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Giáo tuy không ưa Công Giáo nhưng cũng đành phải gửi văn thư chính thức yêu cầu giáo hoàng La Mã đem quân đến cứu giúp. Vatican lúc đó muốn giúp Byzantine thì ít nhưng điều quan tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem để giáo dân toàn Âu Châu được tự do đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất của dân Công Giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong thời gian chiếm đóng Jerusalem, quân Hồi đã triệt phá Nhà Thờ Kính Mộ Chúa (Church of the Holy Sepulchre). Tội triệt phá nhà thờ Mộ Chúa trở thành lý do chính cho cuộc thánh chiến trả thù của Công Giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là vụ người Hồi Giáo hành hạ những người Công Giáo Âu Châu đi hành hương ở Jerusalem năm 1076. Những người hành hương sống sót trở về Âu Châu đã kể nhiều chuyện về sự ngược đãi của người Hồi khiến cho dân Âu Châu rất phẫn nộ. Tu sĩ Peter Hermit là người hết sức cuồng nhiệt vận động quần chúng tín đồ Công Giáo ở các nước Âu Châu tham gia cuộc thánh chiến chống Hồi Giáo. Các giáo dân Âu Châu vào thời đó đa số là những nông dân thất học và cuồng tín, nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có rất nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ thập. Lịch sử Âu Châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là "Đoàn quân Nông Dân" hoặc "Đoàn quân con nít" (Popular Crusade - The Children's Crusade). Vào thời đó, Âu Châu đang ở trong thời đại bóng tối tinh thần (The Dark Age) nên từ vua tới dân, từ các tu sĩ đến các bổn đạo, tất cả đều không có một chút hiểu biết nào về Hồi Giáo, không có một chút kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và địa thế của các nước phương Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng tín tôn giáo đã mau chóng biến việc tái chiếm Jerusalem khỏi tay quân Hồi thành một khát vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số đó có ít nhất là 60.000 trẻ vị thành niên! CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ NHẤT (1096-1099) Như trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân Thập Tự khởi đầu từ năm 1091 do sự cầu viện của hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới năm 1096, tức 5 năm sau, mới thực hiện được. Đoàn quân thập tự gồm hàng trăm ngàn người được điều khiển bởi các hiệp sĩ chuyên nghiệp, xuất phát từ hai nước Ý và Pháp. Đoàn quân của Pháp chia làm hai nhánh: nhánh quân ở miền Bắc tập trung tại Normandie, nhánh quân ở miền Nam tập trung tại Toulouse. Cả hai nhánh này tiến quân thẳng tới Constantinople. Trên đường hành quân, khi đi ngang qua đồng bằng sông Rhin, đoàn quân thập tự của Pháp đã lùng bắt những người Do Thái rồi đưa họ ra những bãi hoang chém giết tập thể. Hiện nay tại vùng đồng bằng sông Rhin thuôc nước Đức có nhiều nơi vẫn còn ghi dấu bằng những bia đá ghi tên những người Do Thái bị sát hại trong dịp này. Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân thứ ba của Pháp tập trung tại Clairmont đi thẳng đến Rome để kết hợp với 50.000 quân Ý. Sau đó liên quân Pháp-Ý cùng kéo đến Constantinople. Vua và triều đình Byzantine vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn quân thập tự chỉ là một đám nông dân rách rưới bẩn thỉu và có quá nhiều trẻ vị thành niên ngơ ngác. Vua Byzantine lập tức ra lịnh cho quân đội ngăn chặn không cho đoàn quân ô hợp này vào thành phố. Tuy nhiên, nhà vua cung cấp cho đoàn quân này một số lương thực,thực phẩm và cho quân đội áp tống đám thập tự quân này đến Boporus thuộc miền nam Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lúc đoàn quân thập tự trú đóng tại Boporus thì bị quân Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ bất thần tấn công giết chết rất nhiều. Đoàn quân còn lại tiếp tục đi tới Anatolia, một thành phố thuộc phần đất Á Châu của Thổ Nhĩ Kỳ rồi đến bao vây thành phố Hồi Giáo Antioch ở phía cực nam nước Thổ. Trong lúc đang bao vây thành Antioch, đoàn thập-tự-quân bất ngờ bị quân Hồi Giáo Iraq kéo đến bao vây vòng ngoài từ ngày 21-10-1097 đến ngày 3-6-1098. Đoàn thập tự quân bị kẹt ở giữa vì thành Antioch quá kiên cố không thể xâm nhập, trong khi đó đoàn quân Iraq lại quá hùng hậu nên thập tự quân không thể phá được vòng vây. Sau hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, thập tự quân cạn hết lương thực nên bị chết đói rất nhiều. Cuối cùng, ngày 3-6-1098, đoàn quân thập tự buộc lòng phải chấp nhận một trận quyết tử để mở đường máu phá vỡ vòng vây của quân Hồi Giáo Iraq. Đoàn quân chữ thập tiếp tục lên đường trong hơn một năm mới tới được Jerusalem. Tại thành phố thánh địa này lúc đó có rất ít quân Hồi phòng thủ nên đoàn thập tự quân đã chiếm thành phố thánh địa một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau khi chiếm Jerusalem, thập tự quân ra lịnh cấm người Hồi Giáo không được leo lên tháp cao ở đền thờ để kêu gọi mọi người đọc kinh, không được ăn chay trong tháng Ramadan, không được xây đền thờ mới, cấm sửa chữa đền thờ cũ. Tất cả những tín đồ Công Giáo cải sang đạo Hồi đều bị tử hình. Chỉ trong vòng vài tuần lễ đầu chiếm đóng Jerusalem, đoàn thập tự quân tàn sát những người đàn ông Do Thái và người Hồi Giáo Ả Rập tổng cộng lên đến 30.000 người. Thánh địa của cả ba tôn giáo độc thần biến thành một nhà xác khổng lồ. Lý do là vì số người chết nhiều hơn quân số của thập tự quân tại Jerusalem và không có ai lo chuyện chôn người chết cả. Cho tới năm tháng sau, các cống rãnh và các thung lũng ở Jerusalem vẫn còn sặc mùi hôi thối của các xác chết. Cuộc chiến tranh thứ nhất của Thập Tự Quân Công Giáo La Mã (The First Crusade) là một ấn tượng ghê tởm nhất đối với người Hồi Giáo và Do Thái Giáo, và là một bài học kinh nghiệm nhớ đời cho toàn thế giới Hồi Giáo về sự man rợ khủng khiếp của bọn tín đồ Công Giáo cuồng tín. Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này mà người Âu Châu đã có cơ hội hiểu biết về thế giới Ả Rập và Hồi Giáo. Họ không ngờ thế giới Hồi Giáo quá rộng lớn, bao trùm một vùng lãnh thổ từ Bắc Phi qua Âu Châu tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi Giáo cũng là một nền văn minh, trong đó có nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học tiến bộ vượt xa Âu Châu. Cũng từ đó, người Âu Châu đã dần dần tự giác ngộ để tự giải thoát ra khỏi thời đại đen tối (The Dark Age). Về thành tích giết người tàn bạo của thập tự quân tại Jerusalem trong những ngày đầu của cuộc thánh chiến hiện nay vẫn còn một chứng tích lịch sử độc đáo. Đó là bức thư của vị tướng tổng-chỉ-huy thập tự quân gửi từ Jerusalem về Vatican để báo cáo tin mừng chiến thắng lên Giáo Hoàng Urban II. Bức thư này hiện được lưu trữ tại Văn khố của Tòa Thánh. Trong thư có đoạn viết như sau: "Đức Thánh Cha có biết chúng con đã đối xử với kẻ thù của chúng ta ở Jerusalem ra sao không? Tại cổng thành Solomon và trong Đền Thánh, đoàn kỵ binh của chúng con phải đi qua những vũng máu dơ bẩn của quân Hồi Giáo Saracenes ngập cao đến đầu gối của những con ngựa". (If You would know how we treated our enemies at Jerusalem know that in the portico of Solomon and in the Temple, our men rode through the unclean blood of Saracenes which came up to the knees of the horses - Deceptions and Myths of the Bible, by Lloyd Graham, p. 462) Kết quả lớn nhất của cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân chữ thập là sự hình thành một vương quốc trực thuộc Vatican. Vương quốc này trãi dài 800 km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải mang tên "Vương Quốc La Tinh Jerusalem" (Latin Kingdom of Jerusalem) bao gồm: Hai tỉnh Antioch và Edessa ở phía đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, nước Syria, nước Liban, xứ Judia và xứ Gallilee, trong đó có thành phố thánh địa Jerusalem. Tòa thánh Vatican trực tiếp cai trị bằng cách phong vương cho người đứng đầu vương quốc này. Nhưng thay vì gọi là "vua" của vương quốc, tòa thánh gọi là "Người Bảo Vệ Mộ Chúa" (Protector of the Holy Sepulchre). Vương quốc La Tinh Jerusalem tồn tại được 88 năm (từ 1099 đến 1187) qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong. Trong 88 năm cai trị vương quốc Jerusalem, quân thập tự đã tàn sát rất nhiều người Hồi Giáo và Do Thái Giáo, bất kể họ là người già, phụ nữ hay trẻ em. Quân thập tự cũng xây cất rất nhiều pháo đài và lâu đài phòng thủ kiên cố để bảo vệ vương quốc, đến nay vẫn còn những di tích lịch sử để lại tại các nước Trung Đông dọc theo bờ biển Địa Trung Hải. CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ HAI (1147-1149) Nguyên nhân dẫn đến cuộc Thập Tự Chinh thứ hai (The Second Crusade) là do biến cố quân Hồi Giáo thuộc giáo phái Sunni từ các nước Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ tấn công tái chiếm tỉnh Edessa thuộc Vương Quốc La Tinh Jerusalem. Để thực hiện quyết tâm phục thù, Vatican ra lệnh cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là Courad III phối hợp với nhau tổ chức cuộc Thập Tự Chinh thứ hai. Năm 1147, liên quân Pháp Ý trong đoàn quân chữ thập lên đường đến Thổ Nhĩ Kỳ để chiếm lại Edessa nhưng đã hoàn toàn bị thất bại. Tàn quân rút chạy về phía nam thuộc lãnh thổ Liban và Syria. Đến năm 1949, toàn bộ đám tàn quân nầy bị quân Hồi tiêu diệt tại Damacus (thủ đô Syria ngày nay). CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ BA (1190-1192) Đối với Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo thì Jerusalem là thánh địa duy nhất của họ. Đối với Hồi Giáo thì thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của nước Ả Rập Saudi). Thánh địa thứ hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca 250 dặm về phía Bắc. Và Jerusalem là thánh địa thứ ba của Hồi Giáo vì tương truyền rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này. Quân Thập Tự của Vatican chiếm Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và đau đớn cho thế giới Hồi Giáo. Người Hồi Giáo đã phải nuốt hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ hội phục thù. Cái nhân của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế giới, đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc người Kurd theo giáo phái Sunni. Ông được dân Ai Cập và Syria tôn lên làm vua (Sultan). Nhân vật Saladin trở nên một nhân vật huyền thoại trong nhiều tác phẩm văn chương của các nước Âu Châu thời đó. Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem và nhiều phần đất khác của vương quốc La Tinh vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi Giáo Ả Rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được tái chiếm và danh dự của Hồi Giáo đã được phục hồi. Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi Giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatican và Giáo Hội Công Giáo càng thấm thía ê chề bấy nhiêu. Do rút tỉa kinh nghiệm của những thất bại trước đây, lần này Vatican chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba ông vua đầy quyền lực tại Âu Châu là vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh Richard I - người được mệnh danh là "Richard Trái Tim Sư Tử" (Richard The Lion - Hearted). Cũng xin nói thêm ở đây là Giáo Hội Công Giáo Anh tách rời khỏi giáo quyền của Vatican do vua Henri VIII chủ xướng vào năm 1534. Trước đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền Vatican như hầu hết các vua khác ở Âu Châu. Cuộc thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế Âu Châu điều khiển nên các sử gia thường gọi cuộc thập tự chinh này là "Cuộc Thập Tự Chinh của các vua" (The Crusade of the kings). Vua Anh Richard I đích thân điều khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào năm 1192. Trong hai năm chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm hầu hết lãnh thổ của Vương Quốc La Tinh Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là thánh địa Jerusalem thì lại không chiếm được. Quân Hồi chặn đứng đoàn quân chữ thập của Richard I tại thành phố Acre ở phía bắc Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua Anh Richard The Lion - Hearted đã ra lệnh chém đầu tập thể trên 3000 người Hồi Giáo Ả Rập. Vụ này đã đi vào lịch sử Hồi Giáo như một bằng chứng về tội ác diệt chủng của Giáo Hội Công Giáo La Mã. (The Cross and The Crescent by Malcom Billing - page 116). Hiện nay, tại Thư Viện Quốc Gia của Pháp (Bibliotheque Nationale) có lưu trữ một bức họa thời Trung Cổ vẽ cảnh Vua Richard The Lion-Hearted ngồi trên khán đài chứng kiến đoàn quân thập tự chém đầu tập thể những người Hồi Giáo. CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ TƯ (1201-1204) Giáo Hội Công Giáo La Mã rất thù ghét Giáo Hội Chính Thống là một giáo hội Ki Tô tách rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa thế kỷ 11. Trong thời gian thập tự quân chiếm đóng Jerusalem, các tín đồ đạo Chính Thống ở Âu Châu bị cấm không được đến hành hương thánh địa. Các giáo dân và tu sĩ đạo Chính Thống tại Jerusalem đều bị ngược đãi tàn tệ. Đó là những lý do khiến cho hoàng đế Byzantine và giáo hội Chính Thống không thể ngồi yên trước sự lộng hành của Vatican. Để tránh bị lâm vào cái thế "lưỡng đầu thọ địch", hoàng đế Byzantine và giáo hội Chính Thống thương thuyết với vua Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ, kết quả hai bên đạt tới việc ký hòa ước cam kết không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau. Hòa ước Byzantine - Thổ Nhĩ Kỳ làm cho mối bất hòa giữa Vatican và Chính Thống Giáo càng trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu ở Âu Châu lúc đó là các hiệp sĩ (Knights) trong những nước Công Giáo cuồng tín đã lập những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican phát động cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư để tiêu diệt đế quốc Byzantine và Chính Thống Giáo. Vatican lợi dụng dịp này ban hành những thông điệp phổ biến cho giáo dân khắp Châu Âu về sự phản bội của Byzantine và Chính Thống Giáo. Cuộc viễn chinh lần này được Vatican ủy nhiệm cho các thủ lãnh hiệp sĩ Ý và Đức thực hiện. Trên danh nghĩa, cuộc Thập Tự Chinh thứ tư nhằm trừng phạt Byzantine và Chính Thống Giáo nhưng mục tiêu chính là để tiêu diệt một đồng minh tương lai của Hồi Giáo. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm từ 1201 đến 1204, đoàn quân Thập Tự chiếm trọn lãnh thổ đế quốc Byzantine. Vatican đặt tên cho lãnh thổ này là "Đế Quốc La Tinh Constantinople" (The Latin Empire of Constantinople). Vatican chia đế quốc này thành nhiều thái ấp (feuds) và phong chức lãnh chúa cho các hiệp sĩ có công để cai trị các thái ấp đó. Vatican đã biến toàn vùng đế quốc Byzantine xưa kia thành một xã hội phong kiến. Các lãnh chúa thu thuế của dân và trích ra một phần để nộp cho Vatican. Đế quốc La Tinh Constantinople tồn tại được 57 năm (1204-1261). CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ NĂM (1217-1221) Cuộc thập tự chinh thứ năm không có một nguyên nhân chính trị hay tôn giáo nào mà hoàn toàn do sự bốc đồng của vua Andrew nước Hungary. Hungary chỉ là một nước nhỏ nằm ở giữa Châu Âu. Vua Andrew là người cuồng tín và có quá nhiều ảo vọng quyền lực. Ông ta đã không luờng sức của mình, tự ý thành lập một đạo quân thập tự rồi kéo quân đến tấn công một nước xa xôi là Ai Cập. Ông ta may mắn thành công trong việc chiếm thành phố Dannietta của Ai Cập. Người Ai Cập nhân danh Hồi Giáo thương thuyết với Andrew là nếu nhà vua chịu trả lại thành phố Dannietta cho Ai Cập thì Hồi Giáo sẽ trả lại Jerusalem cho Giáo Hội Công Giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề nghị này và kéo quân tiến đánh thủ đô Cairo của Ai Cập. Quân Hồi Giáo Ai Cập hết sức phẫn nộ đã mãnh liệt phản công tiêu diệt hoàn toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221. CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ SÁU (1228-1229) Cuộc thập tự chinh lần này do Vatican giao cho vua Đức Frederic II thực hiện để trả thù cho Andrew. Vatican đã cấp cho vua Frederic một ngân khoản rất lớn để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập tự. Tuy nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài, đã phạm phải những lỗi lầm nghiêm trọng về chiến thuật nên toàn bộ đoàn quân chữ thập mới đặt chân lên đất Ai Cập đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua Frederic II bị quân Hồi Giáo Ai Cập bắt sống. Vatican đã phải trả một số tiền rất lớn để chuộc mạng cho Frederic, y được quân Hồi phóng thích cho về nước an toàn. CUỘC THẬP TỰ CHINH CUỐI CÙNG (1248-1254) Lý do dẫn đến cuộc Thập Tự Chinh thứ 7 là vụ quân Hồi đánh chiếm thánh địa Jerusalem vào năm 1244. Vatican trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh chiến cho vua Pháp Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của Vatican chuẩn bị tổ chức cuộc viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong vòng 4 năm. Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy cuộc viễn chinh, kéo quân qua các nước Syria, Liban, Palestine... Đi tới đâu đều bị quân Hồi phục kích tấn công đến đó. Cuôc chiến dai dẳng không phân thắng bại khiến cho binh sĩ vô cùng chán nản. Sáu năm sau, đoàn quân thập tự vẫn không tới được Jerusalem. Đến năm 1254, quân Hồi tổng phản công Louis IX phải bỏ chạy, những kẻ sống sót tìm đường trở lại Âu Châu. Đến năm 1291, quân Hồi chiếm lại tất cả những phần đất đã mất về tay đoàn quân chữ thập trước đây, chấm dứt hoàn toàn Vương Quốc La Tinh Jerusalem sau 195 năm tồn tại. Cũng xin nói thêm ở đây là trong lịch sử các cuộc viễn chinh thập tự có hai vua Pháp mang tên Louis tham dự. Vua Louis VII bị thất bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147-1149) và vua Louis IX bị thất bại trong cuộc thập tự chinh cuối cùng (1248-1254). Tuy nhiên, Louis IX đã được lòng Vatican nên ông này đã được Vatican phong thánh. Vì thế, người Pháp không còn gọi Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis. Tên của ông đã được dùng để đặt tên cho một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố này có nhiều người Mỹ gốc Pháp. NHỮNG ĐIỀU ĐÁNG GHI VỀ CÁC CUỘC THẬP TỰ CHINH 1. Vấn đề: có bao nhiêu cuộc thập tự chinh? Khi nghiên cứu về những cuộc viễn chinh của đoàn quân chữ thập thời Trung Cổ, chúng ta sẽ gặp nhiều tài liệu sử học đưa ra những con số khác nhau về những cuộc chiến tranh của thập tự quân. Có tài liệu nói là 6 trận, có tài liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu làm cho các sử gia bối rối không thể nêu lên con số chính xác vì cuộc chiến của thập tự quân kéo dài gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong thời gian dài dằng dặc đó đã xảy ra nhiều cuộc chuyển quân của thập tự quân giả dạng làm những đoàn người đi hành hương hoặc đoàn người đi buôn bán... nhưng sau đó họ vẫn có thể thực hiện được những cuộc tấn công vào quân Hồi Giáo. Một điều phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ 11, nhiều giáo hội Công Giáo Âu Châu tách rời khỏi giáo quyền Vatican như Chính Thống, Anh Giáo và Tin Lành. Vatican tổ chức những đoàn quân cũng mang danh là Thập Tự Quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó. Trường hợp rõ nét nhất là cuộc Thập Tự Chinh lần thứ tư (1201-1204) Vatican đánh chiếm hoàn toàn lãnh thổ đế quốc Byzantine của Chính Thống Giáo. Vậy có nên coi cuộc thập tự chinh này là một trong những cuộc Thập Tự Chinh chống Hồi Giáo hay không? Nhiều sử gia trả lời là có vì mục tiêu chính của Vatican là triệt hạ một đồng minh mới của Hồi Giáo. 2. Nhiều con cháu của thập tự quân trở thành Hồi Giáo Những thập tự quân Âu Châu đến Jerusalem trong cuộc viễn chinh đầu tiên năm 1096, sau mấy chục năm định cư tại đây, họ dần dần hiểu được thực tại và tỉnh ngộ chứ không còn cuồng tín như trước. Vì tại Jerusalem không có phụ nữ Âu Châu nên lính thập tự đều lấy vợ Ả Rập Hồi Giáo. Từ thế hệ thứ hai, thứ ba trở đi, hầu hết con cháu của thập tự quân đều thành người Hồi Giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc thập tự chinh thứ hai (1147 tức sau 51 năm) và thập tự chinh thứ ba (1190, tức sau lần thứ nhất gần một thế kỷ) những con cháu của thập tự quân đợt đầu đều rất thù ghét những người Âu đến sau. Họ là những chiến sĩ Hồi Giáo chống đối mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh 2 và 3. 3. Nạn buôn nô lệ: Các cuộc chiến tranh của thập tự quân tại Trung Đông đã làm cho tệ nạn buôn bán nô lệ trở thành một kỹ nghệ phát đạt. Cả hai phe Hồi Giáo cũng như thập tự quân đều chú tâm bắt sống tù binh và bắt thường dân ở các vùng chiếm đóng để đem bán tại các chợ ở khắp miền Trung Đông. Các thiếu nữ đẹp luôn luôn là một món hàng đắt giá nhất được các nhà giàu hoặc các quan quyền mua về làm tì thiếp hay nô lệ tình dục. 4. Giá máu quá đắt cho một chuyện hoang đường. Trong suốt năm 1095, Giáo Hoàng Urban II đi khắp các nước Công Giáo Âu Châu kích động quần chúng tín đồ đầu quân tham gia đoàn quân thập tự hoặc đóng góp tiền bạc để tài trợ cho cuộc chiến thần thánh nhằm bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Nhưng ngôi mộ của Chúa (The Holy Sepulchre) chỉ là chuyện hão huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã sống lại và lên trời thì làm gì có mộ của Chúa? Còn nếu Chúa đã bị quân La Mã đóng đinh trên thập giá thì theo luật của La Mã là mọi tử tội đã chết trên thập giá phải bị vứt xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt. Trong lịch sử La Mã tuyệt đối không có chuyện xác tử tội được trao cho người nhà đem về chôn cất tử tế ở trong mồ. Jesus bị quân La Mã xếp vào loại tử tội nguy hiểm chẳng lẽ lại được La Mã dành cho một đặc ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà đem về chôn trong mồ hay sao? Chuyện ngôi mộ của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn đại bịp. Nhưng câu chuyện hão huyền ấy đã làm đổ máu của ba triệu người, trong số đó có ít nhất là 60.000 trẻ em. Sử gia Lloyd M. Graham đã viết về vấn đề này như sau: "Chúng ta hãy quan tâm đến những cuộc chiến tranh của Thập Tự Quân, đó là những cuộc chiến tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ "ngôi mộ của thánh Chúa mà nó chẳng bao giờ có, thế mà ba triệu người đã bị giết một cách vô ích, trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em". (Consider the Crusades, those hellish wars for a "holy sepulchre" that never existed, three million people neeedlessly butchered, among them sixty thousand children - Deception and Myths of the Bible, page 350). Ba triệu sinh mạng là giá máu quá đắt mà nhân loại đã phải trả cho một chuyện hoang đường của tà đạo đa thần Công Giáo La Mã. Ba triệu người đã tức tưởi chui xuống những nấm mồ có thật chỉ vì một nấm mồ không có thật của một người được mệnh danh là Chúa Cứu Thế! Charlie Nguyễn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)

Giới thiệu về tôi

Unknown Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Lưu trữ Blog

  • ▼  2014 (36)
    • ▼  tháng 12 (3)
      • TÔN GIÁO KHÁC DƯỚI CON MẮT MỘT PHẬT TỬ
      • KI TÔ GIÁO VÀ HỒI GIÁO
      • Thập tự chinh

Từ khóa » Cuộc Viễn Chinh Chữ Thập ở Châu âu