Các Phương Pháp Lượng Giá Trị Dịch Vụ Hệ Sinh Thái Rừng Và áp Dụng ...

     Hệ sinh thái rừng của Việt Nam

     Theo các thông tin được công bố trong Quyết định số 911/QĐ-BNN-TCLN, ngày 19 tháng 03 năm 2019, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến hết năm 2018, Việt Nam có 14.491.295 ha rừng (chiếm 41,65% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước), trong đó 10.255.525 ha rừng tự nhiên (gồm rừng nguyên sinh và rừng tái sinh tự nhiên) và 4.235.770 ha rừng trồng. Rừng tự nhiên của Việt Nam được chia thành 8 nhóm: (i) rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới với thảm thực vật dày và độ đa dạng sinh học cao; (ii) rừng thường xanh trên núi đá vôi với hệ thực vật bản địa đặc trưng của miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc; (iii) rừng khộpchịu hạn trong thời gian dài với cây họ dầu là loài ưu thế; (iv) rừng ngập mặn phân bố dọc theo các vùng bờ biển; (v) rừng kín lá rộng nửa rụng nhiệt đới phân bố ở ở vùng núi có lượng mưa lớn với mùa khô kéo dài từ 1 -  3 tháng; (vi) rừng lá kim tự nhiên ở các khu vực miền núi; (vii) rừng tràm phát triển mạnh mẽ ở những khu vực thường xuyên bị úng nước như vùng đồng bằng sông Cửu Long; và (viii) rừng tre nứa. Rừng trồng của Việt Nam có độ đa dạng thấp hơn, trong đó các rừng trồng các loài keo và bạch đàn là phổ biến nhất, chiếm 70 – 75% tổng diện tích rừng trồng của cả nước.

      Bảng 1 dưới đây thể hiện diện tích các hệ sinh thái rừng của Việt Nam theo vùng sinh thái và theo mục đích sử dụng.

     Bảng 1: Diện tích rừng theo vùng sinh thái năm 2017

Vùng

Rừng tự nhiên  (ha)

Rừng trồng (ha)

Tổng diện tích  (ha)

Tỷ lệ che phủ (%)

Tây Bắc

1.530.833

173.335

1.704.168

41,65

Đông Bắc

2.353.991

1.549.658

3.903.648

56,02

ĐBSông Hồng

45.678

36.867

82.544

6,02

Bắc Trung Bộ

2.222.455

881.146

3.103.601

57,65

Nam Trung Bộ

1.563.540

846.601

2.410.141

49,27

Tây Nguyên

2.206.975

350.347

2.557.322

46,01

Đông Nam Bộ

257.707

229.012

486.719

19,44

Tây Nam Bộ

74.347

168.805

243.152

5,26

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2019)

 

     Các dịch vụ hệ sinh thái rừng quan trọng của Việt Nam

     Các hệ sinh thái rừng của Việt Nam cung cấp cho con người, môi trường và nền kinh tế rất nhiều hàng hoá và dịch vụ quan trọng được chia thành 4 nhóm theo cách phân loại dịch vụ hệ sinh thái của Đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ (Millenium Ecosystem Assessment, 2005) gồm: (i) dịch vụ cung cấp (là cáchàng hoá, sản phẩm hữu hình mà con người nhận được từ hệ sinh thái như:vật liệu thô, nước sạch, thực phẩm, dược liệu v.v); (ii) dịch vụ điều tiết (là các lợi ích mà con người nhận đượctừ chức năng điều tiết của hệ sinh thái như xử lý chất thải, hấp thụ các-bon, điều tiết vi khí hậu, v.v), (iii) dịch vụ văn hoá (là các lợi ích phi vật chất mà con người nhận được từ hệ sinh thái thông qua các hoạt động du lịch, giáo dục, nghiên cứu, tâm linh, v.v.); và (iv) dịch vụ hỗ trợ (là những gì cần thiết cho sự hình thành các dịch vụ hệ sinh thái khác như đa dạng nguồn gen, chu trình dinh dưỡng, v.v).

     Dịch vụ cung cấp: Các hệ sinh thái rừng của Việt Nam hiện đang cung cấp hàng loạt các hàng hoá khác nhau, được chia thành 3 nhóm: gỗ, củi và lâm sản ngoài gỗ (LSNG). Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2017), mỗi năm các hệ sinh thái rừng của Việt Nam cung cấp khoảng 18 triệu m3gỗ rừng trồng và rừng tự nhiên làm nguyên liệu để sản xuất bột giấy, ván dăm, trụ mỏ, dàn giáo, v.v. Bên cạnh đó, mỗi năm các hệ sinh thái rừng của Việt Nam còn cung cấp khoảng 24,5 triệu tấn củi được sử dụng làm nhiên liệu cho các ngành công nghiệp dựa vào năng lượng nhiệt như chế biến thực phẩm, sản xuất đồ uống, v.v. và được sử dụng để nấu ăn và sưởi ấm trong các hộ gia đình. Ngoài ra, hệ sinh thái rừng còn cung cấp hơn 60.000 tấn lâm sản ngoài gỗ có giá trị cho người dân và cho nền kinh tế. Đến thời điểm hiện tại, khoảng 3.830 loài dược liệu (trong đó, 1.800 loài có giá trị dược lý), 500 loài tinh dầu, 620 loài nấm, 820 loài tảo, 40 loài mây, 76 loài cho nhựa thơm, 600 loài cho tannin, 823 loài cho dầu béo, 186 loài đặc hữu đã được tìm thấy ở Việt Nam. Lâm sản ngoài gỗ được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là trong các hộ gia đình dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa (ví dụ, lá cây dùng làm thực phẩm cho gia súc, củi để nấu ăn, trái cây, hoa, mật ong, vỏ cây để làm thức ăn và thuốc, v.v.). Lâm sản ngoài gỗ cũng là nguồn nguyên liệu thô để sản xuất nhiều mặt hàng có giá trị (như: tinh dầu, thủ công mỹ nghệ, trang sức, v.v.) phục vụ nhu cầu trong nước lẫn xuất khẩu (Dzung, 2017).

     Dịch vụ điều tiết: Các hệ sinh thái rừng của Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn nhờ khả năng giữ đất, kiểm soát xói mòn, ngăn ngừa sự bồi lắng và tích tụ bùn, cát trong dòng chảy. Bên cạnh đó, các hệ sinh thái rừngcủa Việt Nam cũng có khả năng điều tiết dòng nước, giảm thiểu lũ lụt và cải thiện chất lượng nước. Suy thoái rừng do khai thác bừa bãi và thay đổi sử dụng đất gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với khả năng phòng hộ đầu nguồn của hệ sinh thái này (FSIV, 2009). Ngoài ra, các hệ sinh thái rừng cũng giúp giảm lưu lượng nước chảy trên bề mặt và tăng khả năng thẩm thấu nước vào đất. Theo Thái Phiên và Trần Đức Toàn (1998), tốc độ dòng chảy bề mặt bên dưới các tán rừng thấp hơn 2,5 đến 2,7 lần so với tốc độ dòng chảy tại khu vực canh tác nông nghiệp. Lưu lượng dòng chảy bề mặt trong rừng tự nhiên thấp hơn 3,5 đến 7 lần so với rừng trồng. Trong rừng tự nhiên, tốc độ thẩm thấu nước vào đất là 16,8 mm/phút, trong rừng trồng, tốc độ này là  10,2 mm/phút và ở các khu vực có cỏ và cây bui thì tốc độ giảm xuống còn  2,1 mm/phút (Vũ Văn Tuấn, 2003). Rừng tự nhiên lá rộng thường xanh với độ che phủ 70-80% có thể ngăn ngừa 9,5-11,7% nước mưa rơi xuống đất, trong khi đó các thảm thực vật có độ che phủ 30 - 40% chỉ có thể ngăn ngừa được 5,7%. Nếu độ che phủ của thảm thực vật giảm từ 70-80% xuống 30-40%, xói mòn đất sẽ tăng 42,2% và dòng chảy trên mặt đất sẽ tăng 30,4%. Tương tự, nếu độ che phủ của các rừng tre nứa được giảm từ 70-80% xuống 40-50% thì tốc độ xói mòn sẽ tăng 27,1% và dòng chảy bề mặt sẽ tăng 33,8% (Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải, 1997). Các hệ sinh thái rừng với nhiều tầng tán có khả năng trữ nước trong mùa mưa và cấp nước trong mùa khô rất hiệu quả. Những năm gần đây, lũ lụt đã xảy ra liên tiếp tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung, gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho tính mạng và tài sản của người dân. Lũ lụt gia tăng có một phần nguyên nhân là do nạn phá rừng ở các khu vực đầu nguồn (Bann et al, 2017).

     Dịch vụ văn hóa: Các hệ sinh thái rừng là một phần rất quan trọng của văn hóa Việt Nam cả về mặt tinh thần lẫn mặt  giải trí. Các nghiên cứu nhân chủng học tại Việt Nam đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ sinh thái tự nhiên với sinh kế và văn hóa của người dân tộc bản địa. Ví dụ, các nhóm người bản địa ở Tây Nguyên rất gắn bó với rừng. Họ sử dụng gỗ để xây dựng nhà truyền thống và các vật dụng khác trong nhà, sử dụng cây rừng để làm thuốc, thu nhặt các lâm sản ngoài gỗ để làm lương thực, chất đốt. Thêm vào đó, tất cả các nghi lễ văn hóa ở đây đều liên quan đến rừng và tài nguyên thiên nhiên (Bann et al, 2017).Ngoài ra, hầu hết các hệ sinh thái rừng có tính đa dạng sinh học cao và có vẻ đẹp hữu hình, lôi cuốn đều được quy hoạch thành các vườn quốc gia và rừng đặc dụng, cung cấp cơ hội cho nền công nghiệp giải trí tại Việt Nam, đặc biệt là ngành du lịch sinh thái – một ngành có nhiều tiềm năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp đa dạng hoá sinh kế và xoá đói giảm nghèo thông qua việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tại phương và tạo ra các cơ hội để người dân địa phương có thể tiếp thị các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cũng như các loại lâm sản ngoài gỗ như mật ong, dược liệu.

     Dịch vụ hỗ trợ: Dịch vụ hỗ trợ của các hệ sinh thái rừng Việt Nam không có tác động rõ ràng và trực tiếp đến nền kinh tế nhưng chúng là nền tảng cho nhiều hoạt động kinh tế có lợi cho con người. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào khả năng cung cấp như nước, cải thiện độ phì đất của các hệ sinh thái rừng. Quá trình thụ phấn của nhiều loại cây trồng phụ thuộc vào việc môi trường xung quanh có duy trì được đủ số lượng các loài thụ phấn hay không. Sự phụ thuộc của hoạt động sản xuất nông nghiệp vào các hệ sinh rừng thể hiện ở chỗ, bất kỳ thay đổi nào của hệ sinh thái rừng ngay lập tức sẽ gây ra những tác động đáng kể về năng suất của hệ thống nông nghiệp liên quan. Các dịch vụ hỗ trợ của hệ sinh thái rừngkhông chỉ ảnh hướng đến địa điểm và hình thức canh tác mà còn ảnh hưởng tới giá trị kinh tế của diện tích đất canh tác. Mặc dù đất canh tác được định giá một phần bởi giá trị của cây trồng nhưng giá trị kinh tế của đất canh tác cũng phụ thuộc vào chi phí sản xuất có liên quan đến dịch vụ hệ sinh thái như tăng cường độ phì, độ xốp của đất hay kiểm soát dịch bệnh (Bann et al, 2017).

     Các phương pháp lượng giá giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng

     Giá trị kinh tế của các dịch vụ hệ sinh thái (bao gồm các hệ sinh thái rừng) là thước đo về sự đóng góp của chúng cho phúc lợi của con người (Pascual et al, 2010). Giá trị kinh tế thường được thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong các nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, giá trị kinh tế của các dịch vụ hệ sinh thái được quan sát qua giá thị trường – đại lượng phản ánh lợi ích của tiêu dùng và chi phí của sản xuất. Trong trường hợp các dịch vụ hệ sinh thái không có thị trường thì giá trị kinh tế của chúng được đo lường bởi các phương pháp phi thị trường.

     Hiện nay trên thế giới có rất nhiều phương pháp để lượng giá giá trị các dịch vụ hệ sinh thái. Các phương pháp này có thể chia thành 2 nhóm, gồm: các phương pháp lượng giá sơ cấp (sử dụng các dữ liệu sơ cấp để tạo ra thông tin mới/thông tin gốc) và các phương pháp chuyển giao giá trị (sử dụng các thông tin có sẵn cho các bối cảnh chính sách mới). Hình 2 trình bày các phương pháp hiện có đểlượng giá dịch vụ hệ sinh thái.

     Hình 2: Các phương pháp lượng giá dịch vụ hệ sinh thái

 

Nguồn: Brander (2013)

 

Các phương pháp lượng giá sơ cấp

Bảng 2 dưới đây trình chi tiết về một số phương pháp lượng giá sơ cấp thường được sử dụng trong các nghiên cứu gần đây:

Từ khóa » Hệ Sinh Thái Rừng Là Gì