Các Tội Phạm Về Chức Vụ Là Gì? - Luật Hoàng Anh

1. Căn cứ pháp lý

Các tội phạm về chức vụ được quy định tại Chương XXIII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự).

Gồm 15 Điều luật cụ thể như sau:

Điều 352. Khái niệm tội phạm về chức vụ

Điều 353. Tội tham ô tài sản

Điều 354. Tội nhận hối lộ

Điều 355. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Điều 356. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Điều 357. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ

Điều 358. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi

Điều 359. Tội giả mạo trong công tác

Điều 360. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Điều 361. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác

Điều 362. Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác

Điều 363. Tội đào nhiệm

Điều 364. Tội đưa hối lộ

Điều 365. Tội môi giới hối lộ

Điều 366. Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi

2. Dấu hiệu pháp lý của các tội tội phạm về chức vụ

2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của các tội phạm về chức vụ xâm phạm là sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan hoặc tổ chức. Ngoài ra, một số tội phạm này còn xâm phạm quan hệ sở hữu của Nhà nước, của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc quy định các tội phạm về chức vụ trong Bộ luật hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu không chỉ nhằm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của các tổ chức đạt hiệu quả mà còn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, của các tổ chức, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Mỗi cơ quan hoặc tổ chức có một chức năng, nhiệm vụ nhất định và hoạt động trên cơ sở các qui định của Nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật hoặc điều lệ. Việc qui định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước và của các tổ chức, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức được hiểu là hoạt động của các cơ quan, tổ chức đó được tiến hành trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật. Mọi hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đều có thể gây thiệt hại ở những mức độ khác nhau cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của các tội phạm về chức vụ được thể hiện ở hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi thi hành công vụ, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Việc thực hiện các hành vi này của người có chức vụ, quyền hạn phải liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà người phạm tội được cơ quan, tổ chức giao cho. Nếu thiếu dấu hiệu này, thì hành vi vi phạm pháp luật do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không cấu thành tội phạm về chức vụ.

Hành vi phạm tội về chức vụ có thể biểu hiện cả dưới dạng hành động hoặc không hành động. Người có chức vụ, quyền hạn có thể trực tiếp lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình (trong phạm vi thẩm quyền công tác) để phạm tội hoặc lợi dụng địa vị, uy tín, mối quan hệ trong công tác, khả năng, điều kiện để thúc đẩy người khác có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép (ngoài phạm vi thẩm quyền công tác). Hành vi phạm tội về chức vụ dưới hình thức không hành động được thể hiện ở chỗ, người có chức vụ, quyền hạn không thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, hoặc không làm một việc phải làm gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của các tội phạm về chức vụ được qui định tại chương XXIII chỉ có thể là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Người có chức vụ ở đây có thể là người do bổ nhiệm, do dân cử hoặc là do hợp đồng hoặc một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó. Những người khác có thể là chủ thể của các tội phạm này trong trường hợp đồng phạm. Người có chức vụ thường có thể là những người sau đây:

+ Người đại diện chính quyền, tức là người có quyền ra những quyết định có tính chất bắt buộc đối với người khác. Trong một số trường hợp nhất định, họ còn có thể áp dụng một số biện pháp cưỡng chế đối với người khác như người đại diện Uỷ ban nhân dân các cấp, đại diện cơ quan công an, thanh tra, hải quan,... Dân quân, du kích, thanh niên cờ đỏ, dân phòng hoặc bất kỳ người nào khi được giao nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh cũng được coi là người đại diện chính quyền, vì trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình họ có quyền ra quyết định mang tính bắt buộc đối với người khác.

+ Người thực hiện chức năng tổ chức, quản lý đối với người khác là người giữ chức vụ lãnh đạo trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện,... Những người này có quyền theo dõi, chỉ đạo, tuyển dụng, thuyên chuyển, khen thưởng, đề bạt, kỷ luật,... đối với nhân viên'dưới quyền.

+ Người có chức năng quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo vệ tài sản,... như kế toán trưởng, thủ quỹ, thủ kho, người quản lý vật tư, hàng hoá, nhân viên bán hàng,...

Đối với một số trường hợp, chủ thể của tội phạm quy định trong Chương XXI Bộ luật hình sự không phải là người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng người có chức vụ quyền hạn để xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan hoặc tổ chức như: tội đưa hối lộ; tội làm môi giới hối lộ;...

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Các tội phạm về chức vụ có thể được thực hiện do lỗi cố ý hoặc do lỗi vô ý. Phần lớn các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi cố ý như các tội phạm về tham nhũng. Đối với các tội phạm về chức vụ do lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc để mặc cho hành vi đó xảy ra.

Đối với các tội phạm thực hiện với lỗi vô ý, người phạm tội thấy được hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc không thấy trước được khả năng sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Những người này phạm tội là do tắc trách, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với chức năng, nhiệm vụ của mình nên đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

Từ khóa » Chủ Thể Tội Phạm Về Chức Vụ