Cảm Nhận Bài Thơ Tây Tiến Học Sinh Giỏi Nâng Cao - TopLoigiai

Tuyển tập Cảm nhận bài thơ Tây Tiến học sinh giỏi cực hay, chi tiết, đầy đủ nhất dành cho các bạn học sinh giỏi và thầy cô giáo chuyên văn.

Mục lục nội dung Cảm nhận bài thơ Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 1Cảm nhận bài thơ Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 2Cảm nhận bài thơ Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 3

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 1

Cảm nhận về bài thơ Tây tiến – Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong thời kì kháng chiến. Ông có rất nhiều bài thơ miêu tả cuộc sống của những người lính và Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu nhất. Tây Tiến là bài thơ nói về người lính thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao. Tây Tiến nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về những người đồng đội đã một thời gắn bó.

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:

"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".

Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng khôn nguôi. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến ngày xưa dạt dào xúc cảm trở lại làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi".

Sài Khao, Mường Lát là những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong “sương lấp”, trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi". Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu", "thăm thẳm" những "cồn mây heo hút" thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:

"Dốc lên khúc khủyu, dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

"Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Từ những đỉnh cao "ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa.

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".

Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao nỗi xót xa, thương tiếc.

Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người".

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".

Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên sao được hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:

"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".

Phần thứ hai bài "Tây Tiến" nói về tình quân dân thắm thiết:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ,

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".

Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Tình quân dân đã sưởi ấm và tiếp thêm sức mạnh cho những người chiến sĩ

Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng. Chất nhạc, chất thơ, chất họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến trong gian khổ và thử thách.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".

Quang Dũng đã rất thành công khi dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Đoàn binh Tây Tiến phần lớn là những thanh niên thành thị giàu nhiệt huyết và ý chí trả thì cho nước cho dân”

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

"Mắt trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu. Qua đó thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến.

"Rải rác bên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Cái giá của họ phải trả là quá lớn. Tuy nhiên trong thâm tâm họ cũng phần nào xác định trước tư tưởng, bởi vậy, họ khẳng khái, hiên ngang, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Hình ảnh "áo bào thay chiếu" rất bình dị, hai chữ "về đất" rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng.câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:

"Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".

Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta. Trong trận chiến sinh tử ấy, ai còn sống, ai mãi mãi ra đi. Tuy nhiên có một điều chắc chắn rằng quê hương vẫn đời đời ôm ấp hình bóng các anh, những người con dũng cảm của Tổ quốc

Bài thơ thật đẹp, thật thấm thía cảnh sắc và tình người vô cùng. Bút pháp tài hoa của Quang Dũng đã vẽ nên một câu chuyện về những chiến sĩ Tây tiến thật hào hùng, mạnh mẽ, điều đó đáng quý, đáng trân trọng vô cùng.

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 2

Tây Tiến là tác phẩm tiểu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Bài thơ là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về con người và thiên nhiên Tây Bắc ở một thời kì gian khổ mà oai hùng. Tất cả đều được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn, nặng tình với quê hương, đất nước bằng bút pháp tài hoa, độc đáo.

Quang Dũng vốn là đại đội trưởng của đơn vị chiến đấu Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ.

Sông Mã là mạch nguồn của sự sống, chạy suốt theo các chặng hành trình của đoàn quân Tây Tiến; là chứng nhân lịch sử, gắn bó với lính Tây Tiến, chứng kiến niềm vui nỗi buồn, ghi dấu những chiến công, cả những mất mát, hi sinh… “Xa rồi” diễn tả cảm xúc nuối tiếc, lưu luyến, bâng khuâng… Lời gọi tha thiết “Tây Tiến ơi” vang lên biết bao yêu thương, trìu mến, trong lòng nhà thơ, Tây Tiến không chỉ là tên gọi của một đơn vị quân đội mà như một thực thể sinh động, có tri giác, có cảm xúc…

Câu thơ sử dụng rất nhiều âm tiết mở tạo dư âm vang vọng. Lời gọi vọng qua không gian, thời gian dội vào quá khứ, dội vào miền thẳm sâu kí ức. Từ “nhớ” được lặp lại 2 lần để nhấn mạnh khắc sâu nỗi niềm của nhà thơ. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ vô hình, vô định, lơ lửng giữa thinh không, làm cho lòng người day dứt, hoang mang như mất đi điểm tựa… Quang Dũng nhớ về Tây Tiến trước hết là nhớ rừng nhớ núi, nhớ những chặng đường mà đoàn quân đã đi qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. Hai tiếng “chơi vơi” dùng ở đây thật là đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp.

Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá. Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Thông qua cách sử dụng một loại địa danh, gợi cảm giác xa xôi, hoang dã, cách dùng từ bạo khoẻ, cách phối âm để tạo giọng điệu lạ…. Quang Dũng vừa khắc hoạ được sinh động cảnh núi rừng hiểm trở vừa diễn tả được nỗi vất vả, chất tinh nghịch của người lính. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên với nét hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội. Khí hậu miền Tây khắc nghiệt là một trở lực lớn đối với người lính Tây Tiến vốn chủ yếu là những sinh viên Hà Nội. Có những con đường hành quân chìm lấp trong mịt mù sương lạnh: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Địa hình lại vô cùng hiểm trở, cheo leo: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây súng ngửi trời/Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống. Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Hàng loạt địa danh với cái tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch) âm điệu của những cái tên riêng này cũng trúc trắc, gợi ấn tượng về một miền xa lạ, hoang vu…

Từ “dốc” lặp 2 lần như tạo hình một khung cảnh núi non trùng điệp. Các từ láy giàu sức tạo hình (khúc khuỷu: gấp khúc đột ngột, độ gấp hẹp; thăm thẳm: sâu, hẹp, âm u, lạnh lẽo; heo hút: thưa, vắng, lạnh lẽo, âm u). Trên trời, mây nổi thành cồn, tạo hình độ cao của núi, núi vươn đến tận trời mây, mây sà xuống mặt đất. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay.

Súng ngửi trời là một cách nói nhân hóa, rất hiệu quả trong việc tạo hình độ cao của dốc núi: núi cao gần chạm đến mây trời, khoảng cách với bầu trời chỉ trong tầm mũi súng. Cách ngắt nhịp lẻ (4/3) truyền thống của thể thơ bảy chữ ở đây còn đảm nhiệm thêm một chức năng đặc biệt cho thơ: chức năng tạo hình. Những câu thơ như Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm; Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống… mang đậm chất hội họa với những đường nét rắn rỏi, góc cạnh. Ba câu thơ “Dốc lên… ngàn thước xuống” được kết cấu bằng rất nhiều thanh trắc, nhiều phụ âm cuối là âm tắc góp phần khắc họa một thiên nhiêm Tây Bắc trắc trở, hiểm nguy. Câu thơ đọc lên nghe nhọc nhằn như tiếng thở nặng nhọc của người lính trên đường hành quân Tây Tiến (Nguyễn Đăng Mạnh)

Đoàn quân Tây Tiến cất bước, trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt.

Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nối thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, nhiều âm tiết mở diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng, làm dịu đi những đường nét sắc cạnh của bức họa thiên nhiên miền Tây Bắc tổ quốc. Người đọc dường như cũng cảm nhận được cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái của những người lính Tây Tiến – sau một chặng đường vượt núi qua đèo, đứng trên đỉnh núi, tầm mắt trải ra bốn bề, ngắm nhìn những bản làng ẩn hiện trong màn mưa…

Miền không gian Tây Bắc hoang sơ dữ dội được ngắm nhìn bằng con mắt của người nghệ sĩ – chiến sĩ, không vương chút cảm giác chán nản, bi thương mà trái lại là một cảnh tượng đẹp, hùng vĩ, nhiều thử thách. Cảm quan ấy còn cho thấy nghị lực kiên cường, ý chí sắt đá của những người lính trong những cuộc hành quân vệ quốc vĩ đại. Những nhọc nhằn gian khổ không làm khuất lấp đi tâm hồn lãng mạn, đa tình của người lính (hoa về trong đêm hơi, mùa em).

Thiên nhiên khắc nghiệt đôi khi còn được nhìn bắng con mắt tinh nghịch, táo bạo của những chàng trai Hà Nội: súng ngửi trời, cọp trêu người. Miền Tây Bắc tổ quốc cũng là nơi ghi dấu những mất mát, hi sinh. Nhưng sự hi sinh ấy không chút bi thương mà trái lại rất nhẹ nhàng, thanh thản:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, người lính không bao giờ lùi bước. Các anh vẫn nối chân đồng đội đi tới, kiên nhẫn và bình tâm cho đến khi nào kiệt sức, gục ngã xuồng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Cái chết đối với các anh nhẹ tựa lông hồng. Những chàng trai trẻ quyết chí ra đi cứu nước thì đâu màng đến chuyện sống chết. Cái chế ập đến rất nhanh, đưa các anh về phía bên kia thế giới. Cái chết cướp đi sự sống nhưng không thể nào khuất phục được tinh thần quả cảm của những người lính kiên trung.

Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội. Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người. Không gian, thời gian ấy được đo đếm bằng những hiểm họa đáng sợ.:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

Vẻ hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc đâu chỉ trải rộng, ngập tràn trong không gian mà còn được đo đếm qua thời gian. Thiên nhiên Tây Bắc đâu chỉ có địa hình trắc trở, gian lao mà mỗi thời khắc đều ẩn chứa những mối đe dọa, những hiểm nguy bất ngờ (Chiều chiều…cọp trêu người). Thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” bất chừng, vô định. Trong không gian ấy, biết bao mối hiểm nguy chết người ngày đêm rình rập, sẵn sàng tiêu diệt con người bất cứ lúc nào.

Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này – một miền núi rừng âm u với thú dữ đe dọa con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay.

Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch: “Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.” (Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).

Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.

Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên.

Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.

“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng

Gian nan là nợ anh hùng phải vay.“

Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người.

Sau những hiểm nguy gian khó, vượt qua thử thách khốc liệt nơi rừng sâu núi thẳm, người lính Tây Tiến vẫn cháy bỏng một khát vọng về cuộc sống gian đình yên bình, đầm ấm:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Cơm lên khói, thơm nếp xôi: gợi cảnh tượng thân thương, ấm cúng của gia đình. Đoạn thơ đầu mở ra bằng nỗi nhớ và kết lại cũng bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ như cuộn xoáy, đong đầy trong hồn người nay đã rời xa. Hai câu cuối của đoạn thơ này đem đến cảm giác yên bình, thanh thản, thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên.

Bắt nhịp từ những lần nghỉ chân bên bản ấm áp tình quân dân, người lính nghĩa về những kỉ niệm đẹp trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây Bắc:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ.

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Cảnh đêm liên hoan là một thế giới mĩ lệ, tràn đầy nhạc và thơ, đường nét và sắc màu. Cách chơi chữ rất nghịch ngợm: “hội đuốc hoa” (đuốc hoa = hoa chúc) mở ra không gian rực rỡ, ngập tràn ánh sáng. Ánh sáng đột ngột bừng lên chói lòa soi sáng vùng rừng thẳm. Không gian đâu chỉ có ánh sáng rực rỡ mà còn có tiếng khèn rộn ràng và những vũ điệu mê say, ngây ngất. Giữa khung cảnh lung linh, mộng mị con người e ấp, tình tứ; thiên nhiên thơ mộng, tươi mát (khác xa sự hiểm trở, dữ dội ở đoạn đầu). Đây chính là vẻ đẹp của phương xa, xứ lạ có sức lôi cuốn mạnh mẽ những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên.

Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui.

Hai tiếng “kìa em” vừa ngỡ ngàng vừa mê say, vui sướng trước vẻ đẹp của những nàng thôn nữ yêu kiều. Tiếng gọi làm cho cảnh tượng như sống động trước mắt. Trong thời khắc ấy, những người lính đã hóa thành những người lữ khách đa tình. Lính Tây Tiến còn là những chàng trai mang tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, hào hoa. Nhập cuộc, hòa mình say sưa theo êm điệu dìu dặt, lính Tây Tiến đưa hồn đến với những mộng ước ngọt ngào:Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến tranh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến. Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời.

Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Ở đây, Quang Dũng đặc tả hình ảnh, dáng vẻ của người lính: “không mọc tóc”. Hình ảnh chân thực, gây ấn tượng mạnh mẽ. Cách nói cứng cỏi, ngang tàng, thể hiện tư thế chủ động. Câu thơ nghe ung dung, hào sảng, đậm chất lính. Đây là hậu quả của những trận sốt rét rừng hầu như người lính nào cũng phải trải qua, trong hồi ức của lính Tây Tiến, đoàn quân “đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều” (Trần Lê Văn). Rừng thiêng nước độc, thuốc men thiếu thốn, lính Tây Tiến đa phần da xanh, tóc rụng (như Tố Hữu từng miêu tả: Giọt giọt mồ hôi rơi / Trên má anh vàng nghệ hay trong Đồng chí, Chính Hữu viết: Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh / Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi).

Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợt nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,

Đâu còn tươi nữa những ngày qua.”

Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm.

Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ.

Cách so sánh lạ không chỉ thể hiện sinh động, chân thực hình ảnh lính Tây Tiến mà còn bộc nét hóm hỉnh và lạc quan trong tâm hồn nhà thơ. Lính Tây Tiến ốm mà không yếu. Hai nét phác thảo đặc tả chân dung lính Tây Tiến (không mọc tóc, xanh màu lá) đã tỏ rõ khí phách hào hùng đồng thời là đòn bẩy cho việc khắc họa thế giới nội tâm đa dạng mà thống nhất. Câu thơ biểu hiện sức mạnh và vẻ đẹp nội tâm, khí phách ngang tàng, mạnh mẽ, oai hùng, sự phẫn nộ, sôi sục của của người lính luôn hướng về nhiệm vụ.

Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm lí phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

Những mơ mộng tình yêu, niềm khát vọng hạnh phúc được biểu đạt bằng kiểu tư duy và ngôn ngữ của người trí thức trẻ. Đó chính là động lực đưa người lính vượt qua gian khổ, hi sinh – sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt qua bom đạn trở về. Ở đầy, tâm hồn người lính có sự thống nhất, hòa quyện giữa tình yêu tổ quốc và tình yêu cá nhân. Sự hòa quyện đó làm nên chất lãng mạn, men say lí tưởng cho bài thơ, làm cho hình ảnh người lính trở nên chân thực hơn, người hơn, đời hơn. Lính Tây Tiến, họ không phải là những cỗ máy giết người mà là những người chiến sĩ trong tim cháy bỏng niềm khát khao tự do, khát vọng hạnh phúc và sẵn sàng tranh đấu, hi sinh cho tương lai của dân tộc, cho hạnh phúc của chính mình.

Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”

Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Nhiều từ ngữ Hán Việt (biên cương, viễn xứ, độc hành) gợi không khí trang trọng, thiêng liêng khi nói về sự hi sinh của người lính. Áo bào là cách nói để làm sang, trang trọng hóa sự hi sinh, người lính trở thành người anh hùng trận mạc. Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cách nói giảm: “về đất giúp tránh đi sự mất mát, bi thương; thể hiện sự ra đi thanh thản, vô tư sau khi đã tận hiến tuổi xuân, sau khi làm tròn nghĩa vụ; ghi tạc sự hi sinh thầm lặng, vô danh mà lớn lao, đáng kính phục. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” khẳng định hiện thực chỉ là cái nền cho lí tưởng thăng hoa. Chiến tranh khốc liệt cũng không dập tắt được khát vọng dâng hiến, xả thân, không thể làm lung lay tinh thần “nhất khứ bất phục phản” của người tráng sĩ. Thủ pháp đối lập ở đây có tác dụng như một chiếc đòn bẩy, yếu tố trước là điểm tựa làm bật lên yếu tố sau. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng.

Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Dòng sông thiêng liêng tiễn đưa các anh ra đi chiến đấu lại đón các anh trở về:

Nhà thơ đã khắc họa thế giới tâm hồn người lính vừa có khí phách hào hùng của người tráng sĩ, vừa có chất lãng mạn, bay bổng của người nghệ sĩ. Nói về cái chết, sự mất mát, hi sinh; miêu tả những nấm mồ lãnh lẽo nơi đất khách quê người mà không mang cảm giác ủy mị, bi thương mà rất nhẹ nhàng, thanh thản… Cảm hứng bi tráng còn đến từ sự hòa điệu giữa thiên nhiên và con người: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Thanh âm dữ dội, chất chứa đau thương của đại tự nhiên thét lên “khúc độc hành”, khúc ca bi tráng tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ

Bốn câu thơ cuối là cảm xúc của nhà thơ khi đã rời xa đơn vị:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

“Thăm thẳm” không chỉ diễn tả khoảng cách về không gian mà còn nói đến khoảng cách thời gian. “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” tuy vẫn rời xa nhưng sự gắn bó tâm hồn với Tây Tiến là vĩnh viễn. Câu thơ gợi nhớ thơ Chế Lan Viên (Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn). Một lần nữa, nhà thơ tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.

Bốn câu thơ như một lời khẳng định khảng khái, dứt khoát, một lời thề son sắt thủy chung với Tây Tiến, đồng thời khắc họa hình ảnh người lính với tâm hồn đa cảm. Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.

Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy. Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng mãi mãi là một khúc tráng ca hào hùng gợi nhớ về một thời kì chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng hào hùng, oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lực, bảo vệ tổ quốc.

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 3

Chiến tranh để lại những dấu tích đau thương và cay đắng của cả một dân tộc, nhưng nó cũng là bằng chứng cho sứ mệnh đã được gọi tên, cho những người lính đã hóa hồn thiêng để thành bất tử. Hình ảnh người lính trong năm tháng chiến tranh qua đi đã trở thành tượng đài bất diệt, là nhân vật của những tuyệt tác thi ca. Và bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã trở thành một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp viết về người lính. Nó đã khắc nên hình tượng bất hủ về người lính Tây Tiến vừa hào hùng bi tráng, vừa mạnh mẽ can trường, vừa lãng mạn tài hoa.

Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm 1948 khi Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, cũng vì thế mà tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng đã viết bài thơ Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến. Tác phẩm được in trong tập “Mây đầu ô” (1986)

Rời xa nơi gắn bó chiến đấu, Quang Dũng để lại một nỗi nhớ thiết tha trải dọc con đường hành quân, cũng vì thế mà nỗi nhớ lại da diết và trở thành cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Ngay từ đầu bài thơ, nỗi nhớ vọng lên trong sự khắc khoải không nguôi.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Câu thơ là tiếng gọi âm vang đầy hoài niệm, như muốn níu kéo quá khứ đã qua đi không thể trở lại và giờ chỉ tồn tại trong ký ức. Sông Mã là con sông nơi gắn bó quãng thời gian Quang Dũng còn hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến, nó chứng kiến biết bao cuộc chiến tàn khốc, những ngày đóng quân anh em xum vầy. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”, từ "xa rồi" như nhịp sóng lòng dấy lên, bật ra tiếng gọi nhớ nhung “Tây Tiến ơi”. Chỉ có những thứ đã ăn sâu vào tâm thức, trở thành nỗi đau đáu khôn nguôi mới có thể thốt ra tiếng gọi êm ái như vậy. Nỗi nhớ “chơi vơi” giữa rừng núi dường như lan tỏa khắp không gian và thời gian, nhớ về những ngọn núi, rừng cây mà binh đoàn Tây Tiến đã đi qua. Nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp bủa vây không gian tạo nên chiều sâu, khiến lòng người hồi tưởng cũng trở nên nặng trĩu.

Nỗi nhớ ấy đã được cụ thể hóa bằng những địa điểm, trải nghiệm đầy nguy hiểm cũng đầy mơ mộng trên các vùng đất binh đoàn đã đi qua

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Binh đoàn Tây Tiến đi đến đâu, nơi đó trở thành nỗi nhớ in sâu vào tâm trí. “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông”. Những cái tên gợi lên đầy trìu mến, trân trọng, nỗi nhớ trải dài khắp chốn. Mỗi địa danh đều gắn liền với những ký ức khó phai. Sương lạnh bủa vây khắp chốn Sài Khao, che lấp binh đoàn khỏi kẻ địch truy lùng. Hoa trong đêm hơi nơi Mường Lát, trông từ xa xa, màn mưa giăng mắc những mái nhà trên Pha Luông… Tất cả đều mang nét thi vị, mềm mại, đa tình và lãng mạn qua cái nhìn của một người lính vốn gan góc can trường. Nhưng cuộc hành quân còn phải vượt qua biết bao nhiêu chông gai. Với những từ láy sử dụng thanh trắc, âm điệu mạnh mẽ “Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút”, sự biến đổi liên tục về độ cao “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” khắc họa con đường của người lính với biết bao gian truân, khó khăn. Những lối đi gập ghềnh, trèo đèo lội suối, những vực sâu hun hút không thể xảy chân… Tất cả những gian lao ấy đều không làm chùn chân người lính Tây Tiến, họ vẫn vững tin tiến về phía trước trong công cuộc kháng chiến trường kỳ. Quang Dũng còn viết một câu thơ đầy dí dỏm nhưng cũng đẹp đẽ vô cùng “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, câu thơ như là tiếng cười hóm hỉnh của những người lính không quản đường hành quân khó khăn. Ngoài chiến trường kia nguy hiểm, chết chóc đến đâu cũng không làm mất đi tinh thần lạc quan của các anh.

Đường đi trở ngại là một chuyện, người lính Tây Tiến còn phải đối mặt với thiên nhiên gai góc, chốn “rừng thiêng nước độc”.

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Thiên nhiên núi rừng như một con thú khổng lồ và nguy hiểm, chốn reo rắc những khiếp sợ không lường. “Thác” chảy xối xả, dữ dội trong khu rừng im vắng, động từ mạnh “gầm thét” như thêm phần ồn ã và đáng sợ của chốn rừng thiêng. Không chỉ vậy, “cọp” là một giống loài ăn thịt, động từ “trêu” như khẳng định sự nguy hiểm đang rình rập không lường, lúc nào cũng chực chờ đe dọa đến tính mạng người lính.

Thế nhưng dù nguy hiểm lúc nào cũng bủa vây xung quanh nhưng đối với cái chết người lính Tây Tiến lại có cái nhìn nhẹ tênh không sốt sắng

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Quang Dũng đã vô cùng tinh tế khi sử dụng các từ nói giảm nói tránh “Không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Những người lính Tây Tiện phải chịu đựng biết bao gian khổ khó khăn và cái chết đến với các anh chỉ nhẹ tựa lông hồng. Như một cuộc dừng chân không có ngày đứng dậy, câu thơ mang một giọng điệu xót xa, đau thương nhưng vẫn giữ tinh thần lạc quan của người lính, cái chết chỉ là bước chân nghỉ của các anh, là cái quên đời đầy phóng khoáng. Hai câu thơ là cái đẹp hoàn mỹ nhất được Quang Dũng khắc họa khi viết Tây Tiến.

Kết lại nỗi nhớ về sông Mã, về nơi hành quân của binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã viết hai câu thơ vô cùng đa tình

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Những ngày hành quân mệt nhọc quây quần bên bếp lửa thổi cơm, hình ảnh khói nghi ngút bay đã hằn sâu trong tâm trí người lính. Từ “nhớ” lại lần nữa được lặp lại, “nhớ ôi”, cái nhớ miên man, chìm đắm không dứt, cái nhớ khao khát được trở về với quá khứ. Và thứ gắn liền với tâm trí của vùng đất Mai Châu là hương “thơm nếp xôi”, thức quà giản dị mà ấm cúng. Những chi tiết, hình ảnh được Quang Dũng chọn lọc đều rất tiêu biểu và hấp dẫn.

Trong nỗi nhớ miên man, Quang Dũng nhớ đến những ngày tháng vui vẻ ca hát, khi mà những người lính quây quần bên doanh trại nhìn các cô gái Thái, Mường múa hát.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Cả khổ thơ là sắc màu rực rỡ của của đêm hội trại “hội đuốc hoa”, nhưng bó đuốc phừng phừng lửa sống, như hoa nở trong đêm. Những cô gái Thái dịu dàng, e ấp khoác lên mình váy áo người dân tộc nhảy múa trong tiếng khèn êm dịu. Thời khắc như dừng lại ở khung cảnh bừng bừng sức sống ấy để nhà thơ lần nữa được cảm nhận không khí sôi động ấm ấp của đêm hội khi còn ở binh đoàn Tây Tiến.

Nét đẹp của đêm hội khép lại, có lẽ đó là đêm hội của cuộc tiễn đưa nên mới khắc ghi ấn tượng đậm sâu như vậy trong lòng Quang Dũng. Nỗi nhớ trở về, dường như dài và sâu hơn, lãng mạn và khắc khoải hơn.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Những chiều sương khói trên cao nguyên Mộc Châu, ở đây màn sương lại lần nữa xuất hiện trong ký ức của tác giả. Dường như lớp sương giăng mờ ảo về những vùng đất lãng mạn đã mãi mê đắm người lính Tây Tiến. Điệp từ “có thấy”, “có nhớ” tạo nên lớp sóng tầng thương nhớ diết da. “Hồn lau nẻo bến bờ, dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh về con người và thiên nhiên vẫn lãng mạn qua con mắt đa tình của người lính Tây Tiến. Sự vật tưởng chừng khoác lên mình cái hồn của non nước, nhớ người, nhớ cảnh, sinh tình. Người trên độc mộc trôi trên dòng nước lũ, nó chông chênh và khó khăn thế nào để có thể điều khiển được con thuyền. Thế nhưng bông hoa đong đưa trong cái hình ảnh mãnh liệt ấy làm nên nét thơ đầy bay bổng và phiêu bồng đưa người vào một cõi đẹp mơ hồ. Trong thơ như vẽ tranh, nét cảnh nhu tình và tuyệt diệu. Quang Dũng như hóa thân thành một nhà họa sĩ tài ba, biến những năm tháng khốc liệt thành câu chuyện ghi lại non nước hữu tình, con người đẹp đẽ.

Khép lại những lãng mạn đa tình trong cảnh nhớ mênh mông, Quang Dũng xây nên một tượng đài bất tử với cái ngông, kiêu hùng và bi tráng nhưng không kém sự trầm lắng, thi vị, hào hoa, tài tử của người lính Tây Tiến.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Khổ thơ là cái thật trần trụi và khốc liệt nhất lột tả những vất vả, gian lao mà người lính Tây Tiến đã trải qua. Những cơn sốt rét rừng khiến người lính trở nên tiều tụy, gầy mòn, tóc rụng hết. Nhưng Quang Dũng lại dùng từ “không” chắc nịch với ý khẳng định một phong cách riêng của người lính. Họ cắt tóc vì không muốn nhìn tóc rụng đi từng ngày và cũng muốn thấu hiểu bệnh tật của đồng đội. Cơn sốt rét rừng khiến người lính da mặt tái xanh trông rất đáng sợ và nhà thơ đã lấy hình ảnh đó để làm nên cái oai của người lính Tây Tiến “dữ oai hùm”. Nếu phía trước người lính phải chịu sự sợ hãi trước cảnh cọp dọa trêu ngươi thì bây giờ lại mang phong thái của chúa sơn lâm. Bên cạnh đó, hình ảnh “mắt trừng” cho ta liên tưởng đến một sức mạnh phi thường, oai hùng của người lính trước quân thù. Và các anh luôn mang trong mình trái tim, một giấc mộng công thành danh toại, báo ơn Tổ quốc. Nhưng những người lính Tây Tiến vẫn nhớ về một tà áo đẹp thướt tha, đường xưa phố cũ nơi Hà Nội hoa lệ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, nơi các anh đang hướng về và cố gắng chiến đấu để giữ gìn và bảo vệ.

Đối với các anh, thanh xuân và tình yêu đã giành trọn cho Tổ quốc, dâng hiến và hy sinh không nghĩ đến bản thân, sự ra đi của các anh được Quang Dũng khắc họa tuy xót xa nhưng lại như tiếp lửa cho các cuộc hành quân dài vô cùng mong tới ngày chiến thắng để tìm lại đồng đội.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hàng trăm ngàn những chiến sĩ đã hy sinh trên con đường giải phóng dân tộc, trở về với đất mẹ bao dung. Nhưng nỗi xót xa là “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, các anh mất đi, thân xác nằm lại nơi đất khách quê người, lác đác từng chỗ không thể quy tập về với nhau. Trên con đường hành quân, các anh mất nơi nào chôn nơi ấy. Sự hy sinh của những người lính Tây Tiến đã gửi lại cả xuân xanh nơi chiến trường, có người chưa kịp báo tin về với gia đình, có người chưa kịp lấy vợ sinh con. Các anh trẻ lắm, nhưng không ngại gác lại những giấc mơ cá nhân mà hướng đến chiến trường khi tổ quốc lâm nguy. Trên đường đi có gì đâu, mỗi bộ quân phục chỉnh tề mặc khi chiến đấu lẫn khi tử trận. Quang Dũng sử dụng một từ cường điệu hóa “áo bào”. Chỉ có những vị tướng tài ba mới xứng đáng khoác lên áo bào, nhưng những người lính đã hy sinh vì độc lập dân tộc các anh đều đang khoác nó trên người. Thời chiến tranh đi hành quân khắp nơi, lấy đâu ra manh chiếu mà đắp. Áo bào ấy chính là lời an ủi trong ý thơ, rằng các anh đã nằm về đất mẹ trong vinh quang, nên chính quân trang các anh khoác lên là thứ tiễn đưa quý báu nhất. Và “Sông Mã” gầm lên, xuất hiện đầu và cuối bài thơ như minh chứng cho chặng đường những người lính Tây Tiến đã đi, như tiếng gầm tế vong linh và tiễn đưa các anh về với đất mẹ. Từng ý thơ mà Quang Dũng xây dựng đều toát lên một sự bi tráng và hào hùng khôn tả.

Kết lại bài thơ, âm vang về nỗi nhớ như một bản lề khép lại quá khứ trong sự luyến tiếc và mong ước quay trở về

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Từ biệt Tây Tiến, đoàn binh Tây Tiến, không biết bao giờ có ngày gặp lại. Đường xa cách biệt, khó lòng đoàn tụ. Dường như không gian và thời gian ở khổ cuối đã bị chia cắt, một nửa muốn về quá khứ, một nửa đành phải giã từ. Quang Dũng để lại những dòng da diết nhất “Hồn về Sầm Nữa chảng về xuôi.”. Mùa xuân ấy, người lính Tây Tiến đã để lại những nhiệt huyết cháy bỏng, sự dũng cảm, hào hùng, để lại những ký ức khó phai mờ trong tâm tưởng mỗi người. Họ lưu giữ điều đẹp nhất ở nơi ấy, như một tấm hồn phiêu linh với đại ngàn, lưu luyến không quên.

Khép lại bài thơ, âm hưởng bi tráng, hào hùng và lãng mạn đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Quang Dũng quả thực đã vô cùng thành công về đề tài viết về người lính khi sáng tác xong bài thơ Tây Tiến. Dư âm nỗi nhớ vẫn loang loang đâu đây, là tiếng gọi trìu mến của quá khứ, về một thời Tây Tiến oanh liệt.

Từ khóa » Cảm Nhận đoạn 2 Tây Tiến Học Sinh Giỏi