TOP 17 Bài Phân Tích đoạn 2 Tây Tiến Siêu Hay

Phân tích đoạn 2 Tây Tiến Quang Dũng gồm 23 mẫu khác nhau cực hay kèm theo 3 gợi ý cách viết rất chi tiết và sơ đồ tư duy. Thông qua bài văn mẫu phân tích khổ 2 Tây Tiến các bạn học sinh có thêm nhiều tư liệu học tập củng cố kiến thức nâng cao kỹ năng cảm thụ đoạn thơ hay.

Người lính Tây Tiến

Phân tích khổ 2 Tây Tiến đã đưa ta vào một khung cảnh cảnh mỹ lệ, duyên dáng, tươi mát của Tây Bắc. Vậy với 23 mẫu phân tích Tây Tiến khổ 2 cực chất mà Download.vn đăng tải dưới đây sẽ giúp các bạn học sinh tham khảo nhanh chóng biết cách viết bài văn hay. Ngoài ra để học tốt môn Văn các bạn xem thêm mở bài Tây Tiến, kết bài Tây Tiến, phân tích đoạn 1 Tây Tiến.

Phân tích đoạn 2 Tây Tiến hay nhất

  • 1. Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến (3 Mẫu)
  • 2. Sơ đồ tư duy Tây Tiến khổ 2
  • 3. Phân tích khổ 2 Tây Tiến hay nhất (2 Mẫu)
  • 4. Tây Tiến phân tích khổ 2 (2 Mẫu)
  • 5. Phân tích đoạn 2 Tây Tiến (6 Mẫu)

1. Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến (3 Mẫu)

I. Mở bài:

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến

- Khổ 2 Tây Tiến thể hiện một thế giới lãng mạn và trữ tình ở vùng Tây Bắc với những kỉ niệm đẹp.

- Trích thơ:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa......Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

II. Thân bài:

* Tổng

- Sơ lược về đoàn quân Tây Tiến

- Đôi nét về tác phẩm Tây Tiến

* Phân tích

- Hai câu thơ đầu:

  • "Doanh trại": nơi sống và làm việc của bộ đội, khô khan, nghiêm khắc
  • Động từ "bừng": ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ
  • "Hội đuốc hoa": mang màu sắc tình yêu (từ chữ Hán có nghĩa là hoa chúc) vừa duyên dáng, vừa rạng rỡ
  • "Kìa em": Ngỡ ngàng, kinh ngạc, trìu mến
  • "Xiêm áo": Trang phục đẹp đẽ, xinh xắn

- Hai câu thơ sau:

  • "Khèn": nhạc cụ mang bản sắc riêng của Tây Bắc
  • "Man điệu": điệu nhạc, điệu múa mang âm hưởng Tây Bắc
  • "E ấp": sự ngại ngùng, thẹn thùng của các thiếu nữ dân tộc
  • "Xây hồn thơ": vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của tâm hồn người chiến sĩ

- Bốn câu thơ tiếp theo

  • Chiều sương": hình ảnh lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài
  • "Ấy": đại từ khiến hình ảnh buổi chiều sương trở nên đặc biệt
  • "Hồn lau": Tả dáng lau qua màn sương, đồng thời đem lại linh hồn cho cây cỏ
  • "Nẻo bến bờ": Nẻo- hướng đi, lối đi. Đi đâu cũng thấy mênh mông, bao la
  • Điệp ngữ: "Có thấy-có nhớ" thể hiện nỗi lưu luyến, nhớ nhung da diết
  • "Dáng người trên độc mộc": Dáng vẻ uyển chuyển, thướt tha với sự làm duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ.
  • "Dòng nước lũ - hoa đong đưa": Hình ảnh tưởng chừng đối lập mà hài hòa nên thơ

→ Bút pháp gợi mà không tả

* Hợp

  • Ngòi bút tài hoa, tinh tế nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng
  • Tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc cùng với các kỉ niệm đẹp.

III. Kết bài:

- Suy nghĩ, tình cảm của em Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến .

Xem thêm dàn ý trong file tải về

2. Sơ đồ tư duy Tây Tiến khổ 2

3. Phân tích khổ 2 Tây Tiến hay nhất (2 Mẫu)

Bài làm mẫu 1

Nhà thơ Văn Long đã từng nhận xét: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”. Thật đúng vậy, hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn tài hoa. Đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài mây trắng. Bài thơ “Tây Tiến” được viết vào cuối năm 1948 khi Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Trong dịp về dự đại hội toàn quân của làng Phù Lưu Chanh thuộc tỉnh Hà Đông cũ, Quang Dũng nhớ đơn vị cũ của mình da diết đã bật lên thành tiếng thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ về cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên miền Tây. Nổi bật được thể hiện qua đoạn trích:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờNhạc về Viên Chăn xây hồn thơNgười đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Đoạn thơ mở ra một thế giới khác của miền Tây tổ quốc. Cảnh núi rừng hoang vu, lạnh lẽo lùi dần để bất ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, nên thơ của cảnh vật và con người nơi đây. Quang Dũng đã bị hấp dẫn trước về đẹp mang màu sắc bí ẩn của cảnh sắc nơi xứ lạ phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một đêm liên hoan lửa trại bập bùng và một buổi chiều sương mơ màng trên sông nước:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Bốn câu thơ trên gợi không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ. Một không gian thơ mộng ngay giữa lòng rừng núi, một đêm liên hoan đã diễn ra trong không khí hân hoan của mọi người. Câu thơ “doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” làm cho cả không gian núi rừng như sáng bừng lên. “Bừng lên” là một động từ diễn tả trạng thái đột ngột, mạnh mẽ của ánh sáng. Đó là sự bừng lên của lửa trại và cũng chính là sự bừng lên của tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói rộn rã. Những bó đuốc ấy được tác giả mỹ lệ hóa thành những ngọn “đuốc hoa”, gợi liên tưởng đến hoa chúc trong ngày hạnh phúc của cặp vợ chồng mới cưới. Ánh sáng của đuốc hoa xua tan đi cái u ám, cái lạnh giá của núi rừng, thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng, tràn ngập niềm vui trong lòng người chiến sĩ trẻ. Trong không khí tưng bừng ấy, các cô gái đã xuất hiện mang đến nhiều bất ngờ mới “kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Nhân vật “em” vừa xuất hiện đã trở thành linh hồn của đêm liên hoan lửa trại. Cuộc hội ngộ bất ngờ giữa chốn núi rừng hoang vu như tưới mát tâm hồn của những người lính. Họ hòa mình vào đêm lễ hội, cùng giao lưu trong tiếng nhạc rộn rã, tưng bừng. Một cảnh tượng rất vui tươi mà cũng rất tình tứ. Cụm từ “nàng e ấp” nói lên vẻ duyên dáng, kín đáo, tình tứ của những người con gái trong đôi mắt đa tình của người chiến sĩ trẻ. Tiếng khèn man điệu kết hợp với câu thơ toàn thanh bằng tạo nên độ dịu dàng, lãng mạn của tâm hồn người lính. Xua tan đi mọi cảm giác mệt mỏi, vất vả thay vào đó là tấm lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những giây phút đẹp đẽ của đêm lửa trại ấy đã để lại bao kỉ niệm đẹp đẽ trong đời lính. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh cũng không thể mờ đi tâm hồn lãng mạn, hào hoa nơi những chàng trai trẻ vốn ra đi từ đất Hà Thành. Bốn câu thơ tiếp theo là khung cảnh chia tay trên miền sông nước miền Tây hoang vắng, tĩnh lặng, đầy thơ mộng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy……………………………....Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Giây phút vui vẻ ấy đã kết thúc, cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc chia tay. Giây phút chia tay ấy đã để lại bao luyến thương trong lòng kẻ ở người đi. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” cách sử dụng từ vô cùng hàm xúc. “Chiều sương ấy” nói lên sự tài hoa của Quang Dũng. Đọc câu thơ ta như lạc vào một buổi chiều sương giăng mờ ảo trên sông nước mênh mang. Vậy người ra đi ở đây là ai? Là những người lính họ phải rời xa mảnh đất miền Tây nơi từng có bao kỉ niệm đẹp. Chữ “ấy” như lạc vào miền ký ức sâu thẳm, vừa thực vừa mộng. Trong buổi chiều sương mờ ảo ấy tưởng như mỗi cảnh vật đều có một linh hồn. Cách nói “hồn lau nẻo bến bờ” gợi cảm giác trong mỗi nhành cây ngọn cỏ là một mảnh hồn thiêng nào đó. Đó là linh hồn tạo vật hay chính nỗi nhớ thương của nhà thơ đã cho những tạo vật ấy có một linh hồn. Cuộc đời người lính gắn liền với hoa lau vùng Tây Bắc, nay phải tạm chia xa. Nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, bâng khuâng. Trên những dòng sông giữa đôi bờ cổ tích ấy hiện lên dáng hình uyển chuyển, mềm mại của một người con gái trên chiếc thuyền độc mộc. Trong khổ thơ này Quang Dũng đã mở đầu hai câu thơ bằng hai cụm từ nghi vấn “có thấy”, “có nhớ”. Nhờ đó câu hỏi tu từ cũng như lời tự vấn da diết khắc khoải. Phải chăng đó là dáng hình kiêu dũng của người lính Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác tiến thẳng về phía trước. Câu thơ cuối “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” sử dụng biện pháp đối. Đối giữa cái dữ dội của dòng nước đang cuộn trào chảy với cái mềm mại của hoa đong đưa. Thiên nhiên như hòa vào cảm xúc của con người. Tạo lên một bức tranh vùng Tây Bắc thật lãng mạn nhưng cũng không kém phần hào hùng.

Khổ thơ đã tái hiện lại kỷ niệm đẹp về một đêm liên hoan lửa trại ấm áp tình quân dân. Đọc xong đoạn thơ, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp. Đó là vẻ đẹp toát lên từ cảnh vật, từ lòng người. Đoạn thơ cũng là minh chứng cho tính lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng. Nếu xem Tây Tiến là một bài hát về người lính thì đoạn thơ là khúc hát mang giai điệu êm đềm. Đoạn thơ như khiến ta được sống lại với những năm tháng cuộc đời kháng chiến chống Pháp tuy gian khổ mà đầy tươi vui.

Đoạn thơ góp phần làm nên sự thành công của bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm thể hiện rõ bút pháp lãng mạn của Quang Dũng trong cách nhìn, cách miêu tả. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ gợi cảm, nhiều chi tiết hình ảnh cây liên tưởng thú vị. Kết hợp với giọng thơ sâu lắng, thơ mộng, trữ tình vẽ lên một bức tranh miền Tây tổ quốc tuyệt đẹp.

Bài thơ Tây Tiến đã cho thấy sự thành công của Quang Dũng trong việc dựng lên bức tượng đài bất tử về hình tượng người lính. Với âm hưởng thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn Quang Dũng đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình. Xen vào đó là hình tượng con người với vẻ đẹp hào hoa, bi tráng. Tây Tiến đã trở thành một dấu ấn thiêng liêng với nhà thơ Quang Dũng và với tất cả chúng ta. Nó đã biến đoàn quân Tây Tiến thành bất tử, sống mãi với thời gian.

Bài làm mẫu 2

Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để thơ bén rễ và sinh sôi." (Puskin) Bắt rễ từ hiện thực đời sống, thơ Quang Dũng đã khắc họa thiên nhiên và con người vùng núi cao Tây Bắc một cách sống động và chân thực nhất. Bên cạnh những dốc cao, vực sâu, những dãy núi cao hiểm trở, hùng vĩ còn là những bản làng với biết bao kỉ niệm tươi đẹp. Và có lẽ, một trong những kỉ niệm không thể quên của người lính là đêm hội liên hoan ấm áp tình quân dân:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."

Chất tài hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến đã được thể hiện rõ nét qua những câu thơ trên. Địa bàn hoạt động của những người lính Tây Tiến rất rộng, hành quân di chuyển thường xuyên nên có thể doanh trại mới chỉ được dựng lên. Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần, đó là sáng bừng lên, không chỉ ánh sáng mà còn là âm thanh, tưng bừng, rộn rã. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả con người và cảnh vật dường như đều bốc men say ngây ngất, ngả nghiêng và rạo rực. Hai chữ "kìa em" và cụm từ "tự bao giờ" thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của bức tranh đêm nay là những cô thiếu nữ vùng cao bất ngờ xuất hiện trong xiêm áo sặc sỡ, độc đáo. Những cô gái ấy vừa e ấp, thẹn thùng, vừa dịu dàng tình tứ trong vũ điệu đậm đà bản sắc văn hóa đã khiến người lính Tây Tiến phải say mê thậm chí cảm phục. Đêm liên hoan thấm đượm tình quân dân ấy cũng từng được nhà thơ Hoàng Trung Thông nhắc đến:

"Các anh về mái ấm nhà vuiTiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ."

Cảm hứng lãng mạn, bay bổng của đoạn thơ thể hiện qua câu thơ cuối. Đêm liên hoan diễn ra trong doanh trại nằm ở biên giới Việt - lào nên âm thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng nhạc vang vọng, bay bổng về tận với Viêng Chăn. Đêm liên hoan ấy đã "xây hồn thơ" cho người lính trẻ, đó là sự bay bổng, phiêu diêu theo tiếng khèn, điệu nhạc.

Bốn câu thơ cuối, Quang Dũng đã tái hiện lại khung cảnh chiều sương Châu Mộc với nỗi nhớ thương da diết:

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,Có thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa."

Bốn câu thơ là nỗi nhớ sâu đậm của người lính Tây Tiến về bức tranh thiên nhiên miền Tây . Câu thơ gợi lên cả không gian và thời gian. Đó là một chiều sương bảng lảng tại Châu Mộc. KHông phải sương che, sương lấp mà sương giăng mắc khắp muôn nơi làm bức tranh cảnh vật có phần mờ nhòe, nhạt nhòa. Sự mờ nhòe, nhạt nhòa ấy không chỉ bởi màn sương hiện thực mà còn là màn sương của ký ức, hoài niệm. Nhưng cũng chính vì thế, cảnh vật trở nên mềm mại, có hồn hơn, hư ảo như bức tranh thủy mặc.

Cảnh sông nước mênh mang với bến bờ cỏ lau hoang dại đượm màu cổ tích gợi nên một không gian rộng lớn, hiu hắt. Hình ảnh hoa cỏ lau là nét đặc trưng của thiên nhiên núi rừng. Cái hay của đoạn thơ là khắc họa cảnh lẫn hồn thiên nhiên. Bông lau dại không còn vô tri vô giác nữa mà dường như cũng có linh hồn, góp phần giúp bức tranh thiên nhiên càng sinh động, chân thực hơn. Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng là hồn lau li biệt, có phảng phất chút buồn và đầy nỗi nhớ nhung, lưu luyến, bịn rịn. Trong thơ ca, lau cũng thường mang ý niệm của nỗi buồn thương, xa vắng, mênh mông.

"Người đi phơ phất hồn lau gióThổi trắng chân trời như gió pha."

Bút pháp chấm phá tinh tế khiến không gian sông nước rộng lớn, cảnh thì thưa thớt, thấp thoáng, cỏ cây thì như có hồn. Điệp ngữ "có thấy", "có nhớ" luyến láy như xoáy sâu vào lòng người, gợi thương gợi nhớ những kỉ niệm xưa cũ. Câu thơ "có nhớ dáng người trên độc mộc" làm bức tranh hoang sơ trở nên bớt hiu quạnh khi có sự xuất hiện của con người. Dáng người trên độc mộc vừa mềm mại, uyển chuyển vừa vững chãi đưa con thuyền theo dòng nước lũ. Và đây cũng có thể hiểu rằng, dáng người ấy chính là các cô lái đò đang chèo đò chở các chiến sĩ qua sông trên chặng đường hành quân.

4. Tây Tiến phân tích khổ 2 (2 Mẫu)

Bài làm mẫu 1

Nếu ở khổ một, nhà thơ đã khắc họa những hình ảnh dữ dội của núi rừng Tây Bắc thì ở đoạn thơ thứ hai này, Quang Dũng đã đưa ta vào một khung cảnh khác: cảnh mỹ lệ, duyên dáng, tươi mát của Tây Bắc. Cảm hứng lãng mạn được chia thành hai phần rõ rệt, hướng đến hình ảnh người lính trong đêm liên hoan doanh trại và vẻ đẹp Tây Bắc một chiều sương. Những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc đã được thay bằng những nét mềm mại, tinh tế, tài hoa.

Trải qua những giây phút hành quân gian khổ, những người lính còn có những giờ khắc giao lưu văn nghệ với đồng bào Tây Bắc. Gọi là “doanh trại” bởi Quang Dũng nhìn theo cảm hứng lãng mạn, có lẽ hiện thực là một đêm văn nghệ giản dị mà ấm áp trên chặng hành quân dặm dài gian khổ. Không khí liên hoan tràn ngập cả âm thanh, ánh sáng, dáng điệu con người:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”

Đảo ngữ “bừng lên hội đuốc hoa” kết hợp với động từ “bừng” tạo ấn- tượng về một thứ ánh sáng bất ngờ, tựa như có hàng ngàn ngọn đuốc đột ngột thắp lên cháy, sáng cả núi rùng trong đêm. Đôi mắt lãng mạn, tình tứ của Quang Dũng đã ví những ngọn đuốc đó như “đuốc hoa”- ngọn đuốc cháy trong đêm tâm hồn - ngầm chỉ một sự kết duyên gặp gỡ giữa những người lính Tây Tiến trẻ trung hào hoa với nhân dân Tây Bắc. Trên cái nền ánh lửa lung linh ấy, nổi bật là dáng hình của những bóng hồng miền sơn cước: “Kìa em xiêm áo tự bao giờ/ Khèn lên man điệu nàng e ấp”. Chỉ từ “kìa” như mở ra trước mắt người đọc dáng hình uyển chuyển, dịu dàng theo điệu khèn của những thiếu nữ Tây Bắc, và cũng không giấu nổi sự ngạc nhiên, ánh nhìn tình tứ của những người lính trẻ trước vẻ đẹp xứ người. Cái dáng điệu “e ấp” được soi chiếu qua đôi mắt hào hoa của những con người lần đầu đặt chân đến Tây Bắc gợi một vẻ đẹp kín đáo, một sự phát hiện trước những nét đẹp văn hóa Tây Bắc. Thêm vào đó là những “man điệu” - những điệu múa, điệu nhạc lạ như chất xúc tác gợi cái tình tứ, say mê thưởng thức. Cái chất hào hoa, lãng mạn, đa tình này dường như là “đặc sản” của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp, khi họ đa phần là thanh niên học sinh trí thức, xếp bút nghiên cầm súng lên đường theo tiếng gọi của quê hương. Câu thơ thứ tư chủ yếu là thanh bằng, tạo cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng trong tâm hồn của người lính: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Âm nhạc cất lên hòa điệu với tâm hồn thơ mộng, gọi về cái mộng mơ, đưa tâm hồn phiêu du vượt qua giới hạn của không gian, của biên giới, để xây đắp hồn thơ - mơ đến Viên Chăn - mơ đến ngày chiến thắng. Hình ảnh thơ mỹ lệ nhưng không hề thoát ly cuộc sống, trái lại có tác dụng nâng đỡ tầm hồn con người, khích lệ tinh thần những người lính và mở ra khát vọng hòa bình cho đất nước.

Bốn câu thơ đầu giúp ta cảm nhận được cái tưng bừng, nhộn nhịp trong đêm liên hoan ấm tình quân dân. Bốn câu thơ sau lại tiếp tục mạch cảm xúc của toàn bài thơ, ấy là nỗi nhớ về những khoảng không gian sông nước đầy chất thơ của Tây Bắc:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Tây Bắc đẹp - thơ mộng - trữ tình với mênh mang sông nước, lãng đãng sương giăng, với hai bên bờ là bạt ngàn lau, và đâu đó thấp thoáng bóng người, bóng hoa. Không gian và thời gian được mở ra qua cụm từ “Chiều sương”: trong khoảnh khắc cuối ngày, khắp đất trời chìm trong màn sương bồng bềnh, lãng đãng rất đặc trưng cho núi rừng Tây Bắc. Ý niệm thời gian cũng bị xóa nhòa qua từ “ấy”, nó gợi nhiều kỉ niệm, có thể trên con đường hành quân tác giả đã khắc in vào tâm trí mình một khung cảnh vừa thực, vừa ảo và giờ đây nhớ lại, kỉ niệm mơ hồ lại có sức ám ảnh lòng người. Đi trong chiều sương, những tâm hồn trẻ trung ấy đã thấy “hồn lau nẻo bến bờ”. Đó là bạt ngàn lau xám phất phơ hai bên bờ sông hoang vắng, như lay động một nỗi niềm. Cái màu trắng tinh khiết trải dài ấy gợi lên nét đẹp nguyên sơ như chưa từng có dấu chân người. Nhớ về Tây Bắc là người ta hay nhớ về những cánh đồng lau bạt ngàn trắng như thế, cái hồn của lau kéo theo cái hồn người là như vậy!

Nhớ về Tây Bắc còn là nhớ cái “dáng người trên độc mộc”- gợi vẻ đẹp khỏe khoắn của những chàng trai, những cô gái, những người dân Tây Bắc trên con thuyền độc mộc lao trên sóng nước. Cảm hứng ngợi ca những con người ấy ta cũng gặp trong hình ảnh ông lái đò Mai Châu trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Đặc biệt là hình ảnh những bông hoa rừng “đong đưa” trôi theo dòng nước lũ. Trong cái khắc nghiệt dữ dội vẫn luôn có vẻ đẹp của sự mềm mại, mong manh. Điểm nhìn lãng mạn giúp Quang Dũng có được những phát hiện rất nên thơ như thế.

Trong đoạn thơ này, ta thấy vang lên điệp khúc của những câu hỏi tu từ: “có thấy... có nhớ…”. Đó là sự gợi thức trong tâm hồn mình, là sự nhắc nhở mỗi chàng trai ra đi từ 36 phố phường hãy nhớ về Tây Bắc, về Tây Tiến như những hồi ức hào hùng một đi không trở lại.

Tóm lại, tám câu thơ như 1 bức tranh thanh sơ với chỉ vài nét chấm phá tinh tế, mềm mại mà thu được cái hồn của cảnh và người Tây Bắc. Cũng qua những hình ảnh thơ đặc sắc ấy, chúng ta còn cảm nhận được vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến - những chàng trai lãng mạn, đa tình, hào hoa.

Bài làm mẫu 2

Ra đời năm 1948, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bộ “ngũ tư bất tử” trong thơ ca thời kháng chiến chống Pháp. Nỗi nhớ về cảnh và người nơi núi rừng Tây Bắc, nhớ về những người đồng đội từng vào sinh ra tử đã trở thành mạch nguồn cảm hứng để Quang Dũng cho ra đời thi phẩm Tây Tiến gây xúc động lòng người. Bài thơ là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Men theo nỗi nhớ thương ấy, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên miền Tây rất đỗi thơ mộng, con người miền Tây khỏe khoắn, kiên cường đã được khắc họa thật đậm nét qua những vần thơ giàu sức gợi cảm:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,Kìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông có thể viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, trong đó ông đặc biệt thành công trong lĩnh vực sáng tác thơ văn. Với hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng Quang Dũng đã mang đến cho thơ văn kháng chiến một màu sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là trong hình tượng người lính: vừa kiên cường dũng cảm vừa hào hoa phong nhã. Có thể thấy rõ những nét mới mẻ này qua bài thơ được coi là kiệt tác thơ văn của Quang Dũng – Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng chia tay với đồng đội, binh đoàn Tây Tiến để chuyển đến đơn vị công tác mới. Qua bài thơ, Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình cảm gắn bó với những người đồng đội và vùng đất Tây Bắc mà còn dựng lên đầy sống động chân dung những người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng, ngoan cường vừa tài hoa lãng mạn.

Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch: “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng – Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm” nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng cao cả: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nưa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pathết Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một đơn vị khác và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu. Bài thơ mới ra đời nó có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ, đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.

Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống đậm chất Đường thi: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.

Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản làng xứ lạ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,Kìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Khung cảnh của đêm liên hoan lửa trại được nhà thơ gọi theo cách riêng của mình là hội đuốc hoa thật tưng bừng, náo nhiệt và rộn rã. Không còn cái khúc khuỷu, thăm thẳm của đèo cao, vực sâu, không còn cái oai linh gầm thét của rừng thiêng xứ lạ nữa. Bừng lên là bừng tỉnh, bừng sáng, tưng bừng. “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát ra đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Từ “bừng” làm sống dậy cả một đêm liên hoan văn nghệ, làm bừng sáng và rộn ràng cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó là nhãn tự, là chữ có thần.

Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây nên cần phải có lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem và những chàng lính trẻ cầm trên tay bó đuốc là những thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng là lúc ánh sáng của lửa đuốc bừng lên soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong con mắt thơ tài hoa của Quang Dũng đó là đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, đắm say, lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc táo bạo và khó phai mờ. Ánh sáng bừng lên cũng là lúc những sắc màu lung linh tỏa rạng của những xiêm áo thổ cẩm:

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Và còn bừng lên cả âm thanh của tiếng khèn “man điệu”: Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những điệu nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ như chốn núi rừng có sức mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.

Trong khoảnh khắc ngập tràn âm thanh và ánh sáng ấy, tâm hồn người lính cũng rộn rã, tưng bừng. Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi điểm nhìn. Nhân vật “em” đã có những cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái dân tộc miền núi rừng Tây Bắc, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ kháng chiến và những anh chàng lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong các đoàn văn công về phục vụ văn nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng có thể chính là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.

Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước sắc màu lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm bổng, trước những điệu múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng trai Hà Thành sẽ bị hút hồn vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng là những phút giây lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng không, có lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng của mình:

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian và không gian hiện tại, chơi vơi sang tận thủ đô Viêng Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu hỏi vì sao? Thủ đô là trung tâm đầu não của một quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập. Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi thủ đô cũng là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra tại Viêng Chăn của Lào ắt sẽ là đêm liên hoan vui niềm vui trọn vẹn, niềm vui trong chiến thắng. Có thể thấy, trong lúc mộng mơ nhất, người lính Tây Tiến vẫn không quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng một khát khao quét sạch bóng quân thù ra khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng chân chính, đúng đắn.

Sau những vần thơ rực rỡ sắc màu, lung linh ánh sáng và chan chứa niềm vui về đêm liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, Quang Dũng tiếp tục đưa người đọc về với cảnh Sông nước miền Tây mênh mang, huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi là ai? Phải chăng đó là những chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến trên đường trường hành quân đã đi qua mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. Và giờ đây khi ngồi nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng đã nhớ đến khoảnh khắc đầy ắp những kỉ niệm cùng đồng đội thân yêu, nhớ từng khuôn mặt, từng bóng hình thân quen. Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời gian “chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó là thời gian nào nhưng Quang Dũng chắc còn nhớ như in đó là một buổi hành quân trong chiều sương mù giăng mắc, bao phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật tài hoa.

Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn núi rừng Tây Bắc. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước, bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. Những cây lau không còn vô tri vô giác mà ẩn chứa linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến bờ. Những bông lau nở trắng khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều, nó không chỉ mang hồn cốt của mảnh đất miền Tây mà còn kí thác anh linh của những người đã ngã xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của bà Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ kính qua linh hồn cây cỏ:

Lối xe ngựa cũ hồn thu thảoNền cũ lâu đài bóng tịch dương

Và nay Quang Dũng nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.

Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như những con sông nơi đồng bằng mà nó cuộn xoáy và càng dữ dội hơn khi mùa nước lũ tràn về. Bên bờ sông có những bông hoa dại nở, khi nước lũ tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa rừng. Dòng nước vì yêu hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng vì hoa yêu đất nên hoa vấn vương ở lại. Kết quả là bông hoa cứ đong đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng dằng nửa ở, nửa đi nhưng vấn vương không nỡ nên cứ làm mình làm mẩy, làm duyên làm dáng trên dòng sông. Tình cây- tình đất, bông hoa – dòng nước đang cố giao hòa giao cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên, đất trời.

Và có lẽ, hình ảnh trung tâm, điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh con người chèo thuyền độc mộc trên dòng nước lũ. Con thuyền độc mộc là một loại thuyền chỉ xuất hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi rừng. Nó không giống như thuyền thắt đuôi én, thuyền nan ở những con sông vùng đồng bằng. Con thuyền được làm từ thân một cây gỗ lớn, được đục và khoét thân nên thuyền rất chắc chắn. Dáng người chèo thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó là ai, người con gái hay con trai? Có lẽ người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thể là những cô thiếu nữ chèo thuyền đưa các chiến sĩ qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn ngẩn ngơ, còn làm thơ, còn vấn vương mãi trong tim bóng hình uyển chuyển, mềm mại ấy và rồi bỗng nhiên nó trở thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào neo đậu mãi trong tim những chàng trai trẻ.

Người đọc cảm nhận được sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người lao động bình dị. Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, làm dáng, đong đưa trên dòng nước lũ thì con người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở hoa trên dòng sông. Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say. Ở đây cảnh như làm duyên với người. Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Có thể nói, thành công của đoạn thơ chính là sự hòa quyện giữa chất họa, chất nhạc và chất thơ làm thành một. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.

Tám câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc. Nó như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tinh tế, mềm mại, sâu lắng. Từ đó, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới của cái đẹp, một thế giới của cõi mơ đầy ánh sáng, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc và cả vũ đạo. Tám câu thơ, hai khung cảnh nhưng chung một xúc cảm say đắm, mơ mộng. Phải là một tâm hồn thật tinh tế, nhạy cảm, Quang Dũng mới có thể chắp bút viết nên những vần thơ hay đến thế! Với những thành công về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật biểu hiện, “Tây Tiến” xứng đáng ở vị trí là một trong những tác phẩm hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp , đưa tên tuổi nhà thơ Quang Dũng sống mãi cùng bạn đọc muôn thế hệ.

5. Phân tích đoạn 2 Tây Tiến (6 Mẫu)

Bài làm mẫu 1

Với hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa, Quang Dũng đã cho ra đời tác phẩm Tây Tiến năm 1948. Là một nghệ sĩ đa tài, bài thơ Tây Tiến được ông phát huy khả năng hội họa, soạn nhạc, điện ảnh. Vì thế mà bài thơ có sức cuốn hút vô cùng mạnh mẽ đối với người đọc. Phải chia tay binh đoàn Tây Tiến do nhiệm vụ công tác, Quang Dũng nhớ lại những kỷ niệm về binh đoàn tại nơi dừng chân là miền Tây ở đoạn thơ thứ hai:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…………Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Hoạt động cùng binh đoàn gần hai năm, cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác; vì thế cảm xúc chủ đạo toàn bài thơ là nỗi nhớ da diết. Ông nhớ về chốn dừng chân tại miền Tây với những kỷ niệm ngọt ngào thắm thiết ân tình. Tại “doanh trại” nơi đóng quân của binh đoàn đang diễn ra hội đuốc hoa.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Với động từ “bừng lên”, tác giả nhấn mạnh ánh sáng đột ngột xuất hiện trong không gian đêm hội. Đó là ánh sáng của những ngọn đuốc bập bùng trong không khí rộn ràng. Đó cũng có thể là ánh sáng kì diệu hân hoan trong ánh mắt, trong tâm hồn của những người lính Tây Tiến; là thứ ánh sáng rực rỡ, tình tứ, mang đầy yêu thương, ấm áp tình dân quân.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Như một tiếng reo vui ngỡ ngàng, trìu mến khi các cô gái vùng cao xuất hiện trong trang phục truyền thống của dân tộc mình. Những cô gái ấy càng đẹp hơn khi tiếng khèn, điệu múa được bắt đầu. Những điệu nhạc lạ của tiếng khèn man điệu uyển chuyển mê hoặc lòng người đến lạ lùng. Họ hòa cùng không khí đêm hội và thu hút bởi vẻ đẹp nữ tính, thẹn thùng e ấp. Để rồi Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ, cùng không khí âm nhạc, những điệu múa uyển chuyển, thứ ánh sáng kì diệu, những chàng trai Hà Nội thả hồn phiêu du hướng về Viên Chăn với niềm thương mến và tinh thần đầy trách nhiệm.

Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến phút chia tay; buổi chia tay trên sông nước miền Tây chiều ấy là kỷ niệm đầy luyến lưu. Ta thấy hiện ra không gian bảng lảng đầy khói sương đặc trưng của miền Tây Bắc mang lại cảm giác buồn da diết.

Có thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộc

Sử dụng phép điệp với cấu trúc câu hỏi tu từ “có thấy”, “có nhớ”, Quang Dũng như luyến láy, khắc chạm vào lòng người nỗi nhớ về thiên nhiên (hồn lau) và con người (dáng người). Với biện pháp nhân hóa, cây lau được tạo bởi muôn hạt nhỏ li ti nên chỉ chút gió nhẹ cũng làm bờ lau mềm mại cùng xao động. Lau che kín mọi lối đi: nẻo bến bờ. Cái tinh khôi của lau, cái trắng mờ ảo của sương bồng bềnh khiến rừng núi, sông nước miền Tây vừa hoang dại vừa hư ảo, nên thơ, pha chút yếu tố tâm linh. Hình ảnh con người cũng không thể thiếu trong khung cảnh đầy thơ mộng này;

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Đó có thể là dáng những cô gái Thái, Mèo uyển chuyển mềm mại cầm lái đưa thuyền chở các chiến sĩ vượt sông. Đó cũng có thể là hình ảnh những chiến sĩ rắn rỏi, kiêu dũng vượt thác, vượt mọi hiểm nguy của địa hình. Quang Dũng sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và phép đối lập trong câu thơ cuối của khổ hai như lời tạm biệt. Ông vẽ lên một thiên nhiên dữ dội vùng thác nhưng trên đó lại có những bông hoa nhẹ nhàng “đong đưa” tình tứ quyến luyến như cái vẫy tay từ biệt cô gái sơn nữ miền Tây với người lính chiến trường.

Ngòi bút của Quang Dũng không chỉ miêu tả mà còn gợi, cảnh vật như có hồn thiêng của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích giống như nét vẽ hư ảo trên bức tranh sông nước miền Tây. Bức tranh ấy mang đậm dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tình tứ lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến gắn bó với mảnh đất nơi đây.

Bằng ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa, Quang Dũng đã để lại dấu ấn đẹp về thơ ca kháng chiến mà thành công là sự hòa hợp kì diệu giữa thiên nhiên và con người miền Tây ở khổ thơ thứ hai của bài thơ. Cái đẹp mĩ lệ, thơ mộng đầy chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng của từng nét vẽ. Nét bút của Quang Dũng đã tạo nên một thế giới của cái đẹp, cái ân tình yêu thương, ấm áp giữa quân và dân vùng Tây Bắc.

Bài làm mẫu 2

Bài thơ này ông sáng tác vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh. Tác giả lấy cảm hứng sau sự kiện ông rời đơn vị cũ. Vì nhớ đồng đội, nhớ những kỷ niệm vào sinh ra tử, nhớ những chặng đường hành quân cùng nhau, Quang Dũng đã bất giác gửi gắm qua “Tây Tiến”. Cảm xúc riêng của nhà thơ nhưng cũng chính là xúc cảm chung của một thế hệ trẻ anh hùng:

Đoạn 2 đầy đủ như sau:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,Kìa em xiêm áo tự bao giờ.Khèn lên man điệu nàng e ấp,Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?Có nhớ dáng người trên độc mộc,Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

Tây Tiến thực chất là tên của đoàn quân mà Quang Dũng tham gia, được thành lập năm 1947. Quân đoàn này có nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Tây Bắc với đa số là thanh niên tri thức ra đi từ Hà Nội. Toàn bộ tác phẩm được thể hiện với bút pháp lãng mạn kết hợp hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu sáng tạo, sinh động đã bộc lộ sự nhớ nhung da diết của Quang Dũng về đồng đội, về sự mĩ lệ, hùng vĩ của núi rừng. Dường như, mọi kết tinh của hồn thơ Quang Dũng đã được lắng đọng lại trong tám câu thơ phác họa cảnh liên hoan ban đêm cùng gái bản và nét mộng mơ, độc mộc trên những con sông miền Tây. Quả thực, dấu ấn âm nhạc và hội họa được tác giả khắc họa nổi bật qua các kỷ niệm đẹp và buổi phân li.

Đoạn 2 Tây Tiến, người đọc như đang được tham gia vào đêm liên hoan thấm đượm tình quân và dân nơi sông nước miền Tây thơ mộng.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu, nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Bên cạnh những gian khổ nơi rừng thiêng nước độc, trong ký ức của nhà thơ Quang Dũng còn có cả thứ ánh sáng hội hè của những đêm cùng nhân dân vui chơi liên hoan. Nhà thơ khéo léo dùng tư “bừng lên” kết hợp với hình ảnh sinh động “đuốc hoa” đã làm nổi bật lên không khí tưng bừng, sôi nổi của đêm lửa trại. Cả doanh trại khi ấy bỗng bừng sáng lên, lấp lánh như ánh pháo hoa lúc hòa bình. Đó cũng là lúc lời ca tiếng hát của dân bản cũng như các chiến sĩ reo vàng và hòa làm một. Câu hỏi cảm thán “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thốt lên bộc lộ sự bất ngỡ, ngạc nhiên đến vui sướng của những chiến sĩ đoàn quân Tây Tiến.

Đã thật lâu lắm rồi, từ khi xa Hà Nội chiến đấu, đoàn lính Tây Tiến mới lại thấy các cô gái tươi trẻ. Mà hôm nay các cô còn lộng lẫy xiêm y truyền thống mang hình bóng của núi rừng nên các anh càng thích thú. Dường như, qua đây tác giả muốn khẳng định, các cô gái Tây Bắc ấy chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội. Sự e thẹn, mềm mại tình tứ, duyên dáng hiện rõ qua nét mặt, nụ cười và điệu múa của các cô.

Nhưng tất cả cái sự e ấp ấy lại hút hồn hút vía các chàng trai đến từ miền đồng bằng. Không dừng lại ở đó, tác giả còn mang vào đêm hội tiếng khèn réo rắt, rạo rực, khiến cảnh vật lẫn con người như bốc men say. Thiên nhiên, con người hòa quyện vào nhau như muốn “xây hồn thơ” trong trẻo, lãng mạn. Không khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men say, trở nên phong phú, sinh động như muốn “xây hồn thơ” lãng mạn. Có thể nói, 4 câu thơ như phần nào thể hiện sự tinh tế, hồn hoa. Đó cũng chính là tâm hồn hào hoa, tinh tế của nhà thơ Quang Dũng.

Nếu 4 câu thơ trước, tác giả vẽ nên bức tranh ban đêm ở miền núi rừng Tây Bắc sôi động trong ánh lửa trại bập bùng thì 4 câu thơ sau lại đưa người đọc đến bức tranh về dòng sông miền sơn cước. Bức tranh ấy gợi lên một xúc cảm thật mờ ảo, mênh mang:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Khi phân tích đoạn 2 Tây Tiến này, các bạn không khó nhận ra ngòi bút của nhà thơ không phải tả chi tiết mà chỉ gợi mở. Tác giả sử dụng một loạt những hình ảnh mờ ảo như “ chiều sương ấy”, “hồn lau”, “ nẻo bến bờ”, “ hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi cảm thán không cần lời đáp như “ có thấy”, “ có nhớ”…. Điều đó đã vẽ ra trước mắt độc giả một khung cảnh miền Tây thật nên thơ và ảo mộng. Những màn sương của thiên nhiên đang giăng mắc khắp nẻo không gian, hai bến bờ mang dáng vẻ hoang dại, lặng lẽ. Thế rồi, khi người chiến sĩ đang đắm mình trong cảnh đẹp đó thì trên sông bỗng xuất hiện dáng người uyển chuyển, nhẹ nhàng của cô gái Thái. Cô gái đang chèo thuyền độc mộc. Cảnh tượng ấy sao giống như những bông hoa của núi rừng đang làm duyên làm dáng trên dòng nước. Con người và cảnh vật hòa hợp vào nhau, tạo nên sự thiêng liêng của tạo hóa, khiến núi rừng miền Tây đậm chất huyền thoại và cổ tích.

Qua những nét vẽ hư ảo của nhà thơ Quang Dũng, người độc có cảm tưởng như đang ngắm nhìn một bức tranh sở thủy hữu tình. Bảo quanh bức tranh là cảnh núi rừng trùng điệp, giữa bức tranh là cảnh sông nước đan xen với cảnh liên hoan tình quân dân rộn ràng. Nếu không có một tâm hồn lãng mạn, một trái tim nhạy cảm biết yêu thương, một trí tuệ tài hoa, tinh tế, thì tác giả khó lòng tạo nên một tác phẩm đặc sắc như vật. Ngôn từ của ông có thể ghi dấu ấn trong lòng người đọc, bởi đó chính là cảm xúc, là sự rung động thật sử của tác giả. Đó là tình cảm chân thật, xuất phát từ trái tim trước vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây cũng như nỗi nhớ đồng đội. Đi chiến trận, cuộc sống luôn treo đầu ngọn súng, việc tâm hồn được vui tươi, được có giây phút bình yên thấm đượm tình người như thế thật đáng quý. Có lẽ vì mỗi giây phút như vậy đều hiếm hoi nên nhà thơ mới xúc động đến thế, mới khéo léo vẽ nên bức tranh bằng lời như vậy!

Như vậy, tám câu thơ ở đoạn hai hoàn toàn không mang tới sự hy sinh chết chóc. Nó hoàn toàn là bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây đầy kiều diễm và xinh đẹp. Chất họa, chất nhạc, sự mộng mơ của hồn người hòa hợp vào nhau tạo nên một tác phẩm thật hoàn hảo. Từng nét vẽ tranh bằng con chữ của nhà thơ thật uyển chuyển và độc đáo. Đó cũng chính là sự lãng mạn và tài hoa trong tâm hồn nhà thơ xứ Đoài này.

Bài làm mẫu 3

Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có thể nói là một trong những bài thơ thành công nhất về đề tài người lính. Toàn bài đã in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, nhà thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, tráng lệ. Bài thơ này giống như miền kí ức của tác giả về binh đoàn Tây Tiến. Không chỉ có những ngày tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà trong miền ký ức của nhà thơ còn có cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng bừng và cảnh sắc buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều đó đã được Quang Dũng tái hiện thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.

Bốn câu thơ đầu tiên như một ra thế giới khác biệt nơi miền Tây:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu, nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Hình ảnh “đuốc hoa” được hiểu là cây nến thắp lên trong phòng tối đêm tân hôn, nhưng ở trong câu thơ đầu, “đuốc hoa” ấy lại mang nghĩa là ánh sáng của đêm liên hoan. Dù hiểu theo nét nghĩa nào, nó vẫn tạo ra không khí ấm cúng, gợi lên niềm vui, niềm hạnh phúc của những chiến sĩ. Từ “bừng” ở đây vừa là ánh sáng của đuốc hoa, ánh sáng của lửa trại, vừa là màn cất giọng của những tiếng khen, tiếng hát, tiếng cười nói rộn rã của mọi người. Từ “bừng” ấy ta đã từng bắt gặp trong thơ của Tố Hữu, khi người thanh niên trẻ đã giác ngộ lí tưởng Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Điểm chung của sự “bừng” của Quang Dũng và Tố Hữu là trước nó mang một màu u tối, và sau nó là ánh sáng ngập tràn. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng đang kể lại trong bốn câu thơ này giống như một đám cưới tập thể. Từ “kìa em” ở câu thơ thứ hai thể hiện được sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của những chàng lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của những cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy, kiêu sa cùng dáng vẻ “e ấp” đậm chất thiếu nữ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp tỏa sáng của cô gái bằng cả niềm yêu, sự say đắm đến cảm phục từ vóc dáng cho đến trang phục. Chính trang phục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ phải thán phục đến ngạc nhiên. Hình ảnh “em” trở thành hạt nhân của cả bức tranh đêm hội với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Có thể nói, bốn câu thơ đầu của khổ hai đã xua tan đi cảm giác mỏi mệt, đẩy lùi những vất vả, gian khó của những người chiến sĩ. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về Viên Chăn xây hồn thơ. Từ đó, người đọc cảm nhận được rằng dù trong những phút giây vui vẻ, những người chiến sĩ vẫn hướng về lí tưởng cách mạng cao cả.

Nếu ở bốn câu thơ trước là khung cảnh đêm đuốc hoa, thì ở bốn câu thơ sau là khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc trong buổi chiều sương:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó thấy dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc được hiện ra theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dội, khốc liệt của thác dữ bị đẩy lùi đi, thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh “chiều sương” đã cho người đọc thấy được nét đặc trưng vốn có ở nơi đây.“Chiều sương ấy” dường như là một điều gì đó mơ hồ, không thực, nhưng nó lại gợi lên màu sắc bảng lảng, mờ ảo mà mang đậm nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa cho hình ảnh “chiều sương”, nó thật đặc biệt đến nỗi trở thành kỉ niệm khiến lòng người bâng khuâng.

Đoạn thơ này mang đậm màu sắc của hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, kết hợp với cái mờ ảo của sương khói đã tạo nên một miền cổ tích riêng biệt. Có lẽ, chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này.Chỉ với một vài nét chấm phá, nhà thơ đã làm cho cái hồn của cảnh vật và con người được hiện lên một cách sinh động và cuốn hút. Hình ảnh cây lau trong câu thơ thứ ba dường như không còn chỉ là cây lau vô tri vô giác nữa, mà nó có linh hồn của riêng mình – “hồn lau”. “Hồn lau” gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng, vừa có chút gì đó ma mị của bức tranh thiên nhiên.

Giữa không gian thiên nhiên nên thơ của vùng núi rừng Tây Bắc, hình ảnh con người hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người ấy có thể là hình ảnh uyển chuyển, mềm mại của những cô gái bản địa đưa các chiến sĩ vượt sông, cũng có thể là hình ảnh của những người lính Tây Tiến chèo chống con thuyền để vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy để lại cho nhà thơ những ấn tượng khó phai nhòa.

Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm ở câu thơ cuối:

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Cánh hoa rừng như đang quyến luyến con người, nó như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn họ vượt sông đi đánh giặc.Đoạn thơ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà thành công nhất là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các yếu tố nghệ thuật.

Có thể nói, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà đậm chất lãng mạn, hào hoa, Quang Dũng đã tái hiện lại khung cảnh, con người trong đêm liên hoan nơi doanh trại và cả khung cảnh chiều sương nơi rừng núi Tây Bắc. Với từng nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, nhà thơ đã vẽ nên một thế giới của cái đẹp. Đây cũng là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong cả bài thơ.

Bài làm mẫu 4

"Thơ làm cho tất cả những gì tốt đẹp trở thành bất tử". (Shefley) Và Quang Dũng đã làm sống lại những gì đẹp đẽ nhất, những kí ức khó quên nhất trong cuộc đời người lính. Đó không chỉ là những giây phút hành quân nơi núi cao vực sâu dốc thẳm mà còn là những khoảnh khắc bình yên. Đêm hội liên hoan tại một bản làng trên vùng núi cao Tây Bắc là một hành trang tinh thần không thể thiếu trong cuộc đời người lính.

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa"

Doanh trại không chỉ là không gian của hiện thực mà còn là không gian của tâm tưởng, của hoài niệm và nỗi nhớ. Nơi đó đang bừng lên bởi những ngọn lửa bập bùng mà tác giả liên tưởng đến đuốc hoa. Những bông hoa lửa như thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn, đẩy lùi bóng tối, xua tan sự lạnh lẽo, làm bừng sáng cả không gian. Hai từ "bừng lên" không chỉ là bừng lên của ngọn đuốc mà còn là "bừng lên" của kỉ niệm, của hồi ức như một tiếng reo vui biết bao hồ hởi, say mê. Không còn những chặng đường hành quân vất vả, cũng không còn những bước chân nhọc nhằn ra trận mà chỉ còn lại không khí rộn ràng sôi nổi. Người lính như quên hết những mệt mỏi hiểm nguy để đắm hồn mình vào đêm hội liên hoan ấy.

Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoan là sự hiện diện của những cô thiếu nữ vùng sơn cước:

"Kìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."

Trong ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc lung linh kì ảo, trong tiếng khèn tiếng nhạc du dương, những cô thiếu nữ vùng cao xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, quyến rũ, e ấp, duyên dáng và tình tứ khiến những chàng lính không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. "Kìa em" là tiếng reo với bao bất ngờ vui sướng và có cả sự thán phục ngợi khen. Với những bộ trang phục thật đẹp và lạ mắt, với những vũ điệu đậm sắc màu dân tộc và cả nét e ấp e thẹn, những cô gái sơn cước đã khiến bao chàng trai Tây Tiến như bị hút hồn, ngây ngất.

Cảnh vật và con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc, trong những vũ điệu ngọt ngào say đắm, vừa có chút gì đó hoang dại bí ẩn mê hoặc lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng đạn bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, những "hồn thơ" hòa mình trong điệu nhảy điệu múa đến say lòng người.

Sau những hoài niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân là những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ miên man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờ"

Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng mắc một màn sương mênh mang, mờ ảo và nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo. Ở đây không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là sương giăng, ta như cảm nhận được cái thực và cái mộng của khí trời Tây Bắc bảng lảng sương khói hiện ra như một miền cổ tích.

Hai bên bờ sông là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang sơ tĩnh lặng. Những bông lau chập chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong những bông lau phất phơ, huyền ảo. Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ đến dòng sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân "dòng sông như chảy từ tiền cổ", "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa."

Sông nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực mà còn rất đỗi thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp của con người hòa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.

"Có nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa."

Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc xuất hiện trên chiếc thuyền độc mộc với vẻ đẹp vừa mềm mại uyển chuyển, duyên dáng lại vừa vững chãi đưa con thuyền xuôi dòng. Hình ảnh người con gái trở thành trung tâm hội tụ linh hồn của bức tranh sông nước miền Tây. Không phải ngẫu nhiên khi Quang Dũng đặt hình ảnh người thiếu nữ bên cạnh "hoa đong đưa". "Đong đưa" chứ không phải là "đung đưa". Nếu "đung đưa" chỉ là sự chuyển động vật lý thì "đong đưa" còn đem đến tâm trạng, linh hồn cho cảnh vật. Những bông hoa rừng trở thành những sinh thể có hồn. Hoa cũng như con người đang soi mình trong gương nước chòng chành, cũng biết làm duyên làm dáng. Hóa ra con người Tây Bắc, bóng dáng của người thiếu nữ trên chiếc thuyền độc mộc cũng đẹp như những bông hoa rừng trong chiều sương mờ ảo.

Bài làm mẫu 5

Quang Dũng vốn là lính của đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để giải phóng và bảo vệ miền biên cương phía Tây Tổ quốc. Sau đó Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Năm 1948, một lần ngồi ở làng Phù Lưu Chanh (một địa danh cũ thuộc tỉnh Hà Đông), nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến, tác giả cảm xúc viết lên bài thơ tuyệt bút – Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ là bài thơ hay nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung mà còn là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng được thể hiện qua thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính là hai nét đặc sắc trong cảm hứng và bút pháp nghệ thuật của Tây Tiến. Đoạn thơ sau viết về những kỉ niệm tình quân dân đầy thi vị và vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Tây Bắc bằng những nét vẽ tinh tế mềm mại:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơNgười đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó là sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn rã của tiếng khèn, tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn là một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.

Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4 câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.

Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo thật chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng mơ của người lính. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờ

Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:

Ai đi biên giới cho lòng ta theo vớiThăm ngàn lau chỉ trắng có một mìnhBạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi Suốt một đời cùng với gió giao tranh

(Lau biên giới)

Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:

Trường vắng mưa mờ buông dốc xaDày leo nửa mái sắc rêu nhoàNgười xa phơ phất hồn lau gió Thổi trắng chân đồi như khói pha

(Hoa lau trường cũ)

Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:

Có nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn” của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.

Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này lên, người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổ vào những nốt nhạc tinh tế mà nhạc điều đó còn được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất có lí khi Xuân Diệu nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.

Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.

Bài làm mẫu 6

Tây Tiến là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến “Áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Nhớ — Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, bên bờ sông Đáy thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc — Sáo diều khuya khoắt thổi đèn trăng’’ (Đôi mắt người Sơn Tây - 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu ở thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang sầm Nưa, trên dải biên cương Việt — Lào. Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ Tây Tiến nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! - Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...”.

Bài thơ gồm có bốn phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ... Đoạn thơ trên đây gồm có 16 câu thơ, là phần hai và phần ba của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh đầy tự hào về đồng đội thân yêu.

Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng, của Mai Châu.. và hương của tình thương mến.

Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Quang Dũng đã có một sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa - đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em", của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là ki niệm đẹp một thời chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu” đã "xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách, như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.

Xa Tây Tiến mới có bao ngày, thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”, nhớ “Châu Mộc chiều sương ấy". Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhất, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”... rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những kỉ niệm trở về... Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác, bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.

Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.

Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì Tây Tiến đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. Tây Tiến đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính - anh bộ đội Cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

..............

Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích khổ 2 Tây Tiến

Từ khóa » Cảm Nhận đoạn 2 Tây Tiến Học Sinh Giỏi