Chủ Quyền Quốc Gia Là Gì? Chủ Quyền Lãnh Thổ Quốc Gia Là Gì?

Mục lục bài viết

  • 1 1. Chủ quyền quốc gia là gì?
  • 2 2. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? 
  • 3 3. Chủ quyền quốc gia bao gồm những yếu tố nào?
  • 4 4. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia:
  • 5 5. Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia:

1. Chủ quyền quốc gia là gì?

Một cá nhân có thể sẵn sàng muốn từ bỏ tự do của mình, nhưng nếu cố gắng này sẽ làm tổn hại đến cuộc sống và tự do của một quốc gia, nếu cuộc sống của một quốc gia đầy sự vĩ đại và danh dự sẽ tàn lụi vì điều này và nếu con cháu của quốc gia đó sẽ biến mất vì điều này, những nỗ lực như vậy không bao giờ có thể hợp lý và chấp nhận được. Hơn nữa, một hành động như vậy không bao giờ có thể được dung thứ nhân danh tự do.

Chắc chắn rằng chúng ta sẽ bảo vệ và bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình trong tâm trạng ghen tị và cảnh giác cao nhất và bằng tất cả khả năng của mình vì sự sống vĩnh cửu của đất nước chúng ta, sự vững mạnh của đất nước chúng ta, cuộc sống ấm no và hạnh phúc của dân tộc chúng ta như cũng như vì cuộc sống của chúng ta, niềm tự hào, danh dự và tương lai cũng như tất cả các khái niệm thiêng liêng của chúng ta và cuối cùng là tất cả những gì chúng ta sở hữu.

Quyền làm chủ đối với quốc gia hay còn được gọi là chủ quyền quốc gia, là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời khỏi quốc gia.

Các quyền cơ bản là quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ, quyền tự quyết định những công việc của quốc gia, quyền độc lập trong quan hệ đối ngoại là các nội dung được biết đến trong chủ quyền quốc gia.

– Chủ quyền quốc gia gồm hai nội dung: Quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế và quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình.

– Vùng đất quốc gia là phần mặt đất và lòng đất của đất liền, của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia; bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thủy, lãnh hải.

+ Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở những điểm khác nhau nhưng các vùng đất đó điều thuộc lãnh thổ thống nhất của quốc gia hoặc cũng có thể chỉ bảo gồm các đảo, quần đảo ở ngoài biển hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương có vùng đất quốc gia vừa là đất liền, vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú – Hà Giang đến mũi Cà Mau, các đảo Phú Quốc, Cái Lân … và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

+ Việt Nam có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam với bờ biển dài 3.260km. Từ Móng Cái đến Hà Tiên. Phần biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn bao bọc.

Ý chí dân tộc và quyết tâm dân tộc không chỉ bao gồm ý tưởng của một cá nhân mà là tổng hợp ý chí của tất cả các cá nhân của dân tộc.

Chủ quyền thuộc về quốc gia vô điều kiện.

Quyền lực không bị phân chia và thuộc về quốc gia.

Chủ quyền quốc gia là thứ ánh sáng có thể khiến xiềng xích tan ra, vương miện và ngai vàng cháy sáng và biến mất trước nó. Các thể chế được thành lập dựa trên chế độ nô lệ của các quốc gia nhất định sẽ bị phá bỏ ở khắp mọi nơi.

Một quốc gia không thể tránh khỏi việc trở thành món đồ chơi của người khác trừ khi quốc gia đó tham gia vào hiện tại và các quyền của mình bằng tất cả sức mạnh trí tuệ và vật chất của mình. Cuộc sống quốc gia của chúng ta, lịch sử của chúng ta và phong cách hành chính gần đây của chúng ta là bằng chứng tuyệt vời về điều này. Đây là lý do tại sao quyền lực quốc gia và quyết tâm quốc gia đã được chấp nhận là thống trị trong hành chính. Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới chỉ công nhận một chủ quyền duy nhất: Chủ quyền Quốc gia.

Các hệ tư tưởng vĩ đại của các quốc gia quan trọng trên thế giới đạt được chủ quyền để tránh nô lệ luôn là kẻ thù khốc liệt của những người phụ thuộc vào các thể chế lỗi thời và những người đang tìm kiếm giải pháp trong chính quyền thối nát.

2. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? 

“Nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ là một phần quan trọng của trật tự luật pháp quốc tế và được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt là trong Điều 2, khoản 4” (cấm sử dụng vũ lực), cũng như như trong các văn bản quan trọng khác, bao gồm cả những văn bản về quyền tự quyết. Khái niệm này bao gồm quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ của Quốc gia, bao gồm lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát và chiếm hữu hiệu quả của một Quốc gia. Tòa án Quốc tế đã cho rằng “phạm vi của nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ chỉ giới hạn trong phạm vi quan hệ giữa các Quốc gia”.

Khái niệm toàn vẹn lãnh thổ, nếu không phải là thuật ngữ này, cũng đã cũ như Quốc gia có chủ quyền. Đó là một trong những quyền vốn có về chủ quyền và độc lập. Tầm quan trọng hàng đầu của nó nằm trong lĩnh vực luật quốc tế về sử dụng vũ lực. Cho đến khi có sự phát triển của luật cấm sử dụng vũ lực chung vào nửa đầu Thế kỷ XX, sự toàn vẹn lãnh thổ của các Quốc gia chỉ được luật pháp quốc tế bảo vệ một cách không hoàn hảo.

Nhiều cách sử dụng vũ lực theo kiểu ‘hòa bình’ khác nhau phải tuân theo những giới hạn do luật pháp quốc tế áp đặt và Hiệp ước của Hội quốc liên áp đặt những hạn chế về thủ tục. Nhưng chỉ với Hiệp ước Kellogg-Briand năm 1928, các quốc gia mới từ bỏ chiến tranh như một công cụ của chính sách quốc gia. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã ban hành quy định nghiêm cấm chung về việc sử dụng vũ lực trừ trường hợp được Hội đồng Bảo an cho phép, tùy thuộc vào quyền tự vệ vốn có.

Trong phạm vi lãnh thổ của mình thì quốc gia đó có quyền tối hay còn được xác định là chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Một quốc gia sẽ có các quyền tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình và đây được biết đến là chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Quốc gia có quyền tối cao về lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Quốc gia đó có quyền quyết định về vấn đề chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội của quốc gia mình. Đồng thời thì các quốc gia khác cũng như các tổ chức quốc tế không có quyền can thiệp. Việc tuân thủ pháp luật của quốc gia nêu trong Điều ước quốc gia đã ký kết không có quy định khác sẽ được thực hiện với mọi tổ chức, cá nhân cư trú trên lãnh thổ của quốc gia đó

Bên cạnh đó, quốc gia có quyền thực hiện những cải cách kinh tế, xã hội phù hợp với đặc điểm quốc gia, quyền tự do trong việc lựa chọn phương hướng phát triển đất nước. Đối với những quyết định này thì các quốc gia khác và các tổ chức khác không có quyền can thiệt hay xâm phạm đến quyền tự do của quốc gia khác và còn phải có nghĩa vụ tôn trọng sự lựa chọn đó.

Đối với từng vùng lãnh thổ quốc gia thì chế độ pháp lí sẽ được quốc gia này tự quy định. Mỗi quốc gia được xác lập lãnh thổ trên quy chế pháp lý về lãnh thổ quốc gia do quốc gia tự xác định, phù hợp với luật quốc tế rất rõ ràng và riêng biệt.

Đối với tất cả tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ của mình thì quốc gia có quyền sở hữu hoàn toàn mà không có nghĩa vụ chia sẻ cho nước nào khác.

Đối với mọi công dân, tổ chức, kể cả cá nhân, tồ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ quốc gia thì quốc gia thực hiện quyền tài phán (quyền xét xử) trừ những trường hợp quốc gia, hoặc điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên có quy định khác.

Đối với các hoạt động của công ty đa quốc gia, sở hữu cả người nước ngoài cũng như hoạt động của các tổ chức tương tự, kể cả trường hợp quốc hữu hóa, tịch thu, trưng thu tài sản của tổ chức, cá nhân nước ngoài có bồi thường hoặc không bồi thường thì quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp, có quyền điều chỉnh, kiểm soát các hoạt động này.

Theo những nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế thì quốc gia có quyền và nghĩa vụ bảo vệ, cải tạo lãnh thổ quốc gia. Đồng thời quốc gia còn có quyền định sử dụng thay đổi lãnh thổ phù hợp với pháp luật và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó.

3. Chủ quyền quốc gia bao gồm những yếu tố nào?

Một quốc gia được xem là có chủ quyền quốc gia khi đáp ứng bốn yếu tố sau đây:

–   Thứ nhất, có lãnh thổ xác định: đây là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành quốc gia. Không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được xác định là một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là ranh giới để xác định chủ quyền quốc gia đối với dân cư của mình. Vấn đề kích thước lãnh thổ rộng hay hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia.

–    Thứ hai, có cộng đồng dân cư ổn định: Theo nghĩa rộng, dân cư của một quốc gia là tất cả những người sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia nhất định và tuân theo pháp luật của nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng để chỉ tất cả những người có quốc tịch của quốc gia đó.Mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa nhà nước với cộng đồng dân cư của quốc gia chủ yếu thông qua chế định quốc tịch.

–   Thứ ba, có chính phủ với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập, không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác.

Chính phủ là yếu tố cần phải có để điều hành xã hội, có chủ quyền được nhân dân tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền và quyền lực trong việc thực hiện các quan hệ đối nội, đối ngoại, nghĩa là có thực quyền điều hành quốc gia trong lập pháp, hành pháp và tư pháp quyết định vận mệnh chính trị của dân tộc, tự do lựa chọn hình thức, thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội cho đất nước mình, chính phủ đó phải nắm được quyền lực đối ngoại nghĩa là nắm quyền đại diện quốc gia tham gia vào các quan hệ quốc tế.

–   Thứ tư, có khả năng độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế: “khả năng” này có được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại của mình. Quốc gia phải có khả năng thiết lập và thực hiện các quan hệ đối ngoại trong cả mặt thể hiện vai trò một chủ thể luật quốc tế, có khả năng về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội để có thể thực hiện quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia mà các quốc gia khác không có quyền can thiệp, đồng thời quốc gia ấy phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế khi tham gia vào các quan hệ quốc tế.

4. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia:

Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là thực hiện tổng thể các giải pháp, biện pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh nhằm thiết lập và bảo đảm quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội thuỷ, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của quốc gia. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền nhà nước đối với lãnh thổ quốc gia. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam là yêu cầu tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung của việc xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam gồm:

– Xây dựng, phát triển mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh của đất nước.

– Xác lập và bảo vệ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Việt Nam trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong phạm vi lãnh thổ của mình.

– Bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội thuỷ, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của Việt Nam; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại, vi phạm chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam.

– Bảo vệ sự thống nhất lãnh thổ của đất nước, thống nhất về quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đấu tranh làm thất bại mọi hành động chia cắt lãnh thổ Việt Nam; mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch cả bên trong lẫn bên ngoài hòng phá hoại quyền lực tối cao của Việt Nam.

Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia gắn bó chặt chẽ và đặt trong tổng thể chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Làm tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là trực tiếp góp phần xây dựng và bảo vệ  Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

5. Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia:

Thứ nhất, biên giới quốc gia

Luật biên giới quốc gia của Việt Nam năm 2003 xác định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt phẳng thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Biên giới quốc gia của Việt Nam được xác định bằng hệ thống các mốc quốc giới trên thực địa, được đánh dấu bằng các toạ độ trên hải đồ và thể hiện bằng mặt phẳng thẳng đứng theo lãnh thổ Việt Nam. Biên giới quốc gia Việt Nam bao gồm biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không, trong lòng đất.

Biên giới quốc gia trên đất liền là phân định lãnh thổ trên bề mặt đất liền của vùng đất quốc gia. Trong thực tế, biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập dựa vào các yếu tố địa hình (núi, sông, suối, hồ nước, thung lũng…); thiên văn (theo kinh tuyến, vĩ tuyến); hình học (đường lối liền các điểm quy ước). Biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên giới giữa các quốc gia liên quan. Việt Nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía Tây, phía Đông giáp Biển Đông.

Biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam, được xác định theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.

Biên giới quốc gia trong lòng đất là phân định lãnh thổ quốc gia trong lòng đất phía dưới vùng đất quốc gia, nội thuỷ và lãnh hải, được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất. Độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất được xác định bằng độ sâu mà kĩ thuật khoan có thể thực hiện. Đến nay, chưa có quốc gia nào quy định độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất.

Khu vực biên giới là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có quy chế, quy định đặc biệt do Chính phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới. Khu vực biên giới Việt Nam bao gồm: khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia Việt Nam trên đất liền; khu vực biên giới quốc gia Việt Nam trên biển được tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo; khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo biên giới quốc gia có chiều rộng mười kilômét tính từ biên giới Việt Nam trở vào.

Thứ hai, nội dung xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia

Luật biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 xác định: “Xây dựng, quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Nhà nước và nhân dân thực hiện kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại”. Xây dựng, bảo vệ bao gồm các nội dung sau:

– Ưu tiên đầu tư xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; có chính sách ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khu vực biên giới định cư ổn định, phát triển và sinh sống lâu dài ở khu vực biên giới; điều chỉnh dân cư theo yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và củng cố quốc phòng – an ninh khu vực biên giới.

– Tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại các cấp trên khu vực biên giới; phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác nhiều mặt nhằm xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng.

– Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp của Nhà nước chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.

– Bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường. Sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh ngăn chặn mọi hành động xâm phạm tài nguyên, đặc biệt là xâm phạm tài nguyên trong lòng đất, trên biển, trên không, thềm lục địa của Việt Nam. Ngăn chặn, đấu tranh với mọi hành động phá hoại, huỷ hoại, gây ô nhiễm môi sinh, môi trường khu vực biên giới, bảo đảm cho người Việt Nam, nhân dân khu vực biên giới có môi trường sinh sống bền vững, ổn định và phát triển lâu dài.

– Bảo vệ lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới. Thực thi quyền lực chính trị tối cao (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên khu vực biên giới ; chống lại mọi hành động xâm phạm về lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước trên khu vực biên giới. Bảo đảm mọi lợi ích của người Việt Nam phải được thực hiện ở khu vực biên giới theo luật pháp Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam kí kết với các nước hữu quan.

– Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Đập tan mọi âm mưu và hành động gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới quốc gia. Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành động chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại sự ổn định, phát triển khu vực biên giới.

– Phối hợp với các nước, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động phá hoại tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng giềng. Trấn áp mọi hành động khủng bố, tội phạm xuyên biên giới quốc gia.

Từ khóa » Chủ Quyền Biển đảo Tiếng Anh Là Gì