Chùa Bà Đanh – Wikipedia Tiếng Việt

Bài này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây. (tháng 11/2021)
Bài viết này cần thêm liên kết tới các bài bách khoa khác để trở thành một phần của bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia. Xin hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách thêm các liên kết có liên quan đến ngữ cảnh trong văn bản hiện tại.
Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. Xin hãy giúp sửa bài viết này bằng cách thêm bớt liên kết hoặc cải thiện bố cục và cách trình bày bài.
Chùa Bà Đanh
Vị trí
Quốc giaViệt Nam Việt Nam
Địa chỉthôn Đanh, Ngọc Sơn, Kim Bảng, Hà Nam
Thông tin
Tôn giáoPhật giáo
Tông pháiPhật giáo đại thừaTín ngưỡng dân gianTín ngưỡng thờ Tứ pháp
icon Cổng thông tin Phật giáo
  • x
  • t
  • s
Tượng Bà Đanh tức Đại Thánh Pháp Phong Tôn Phật ở chùa Bà Đanh

Chùa Bà Đanh là một ngôi chùa nằm ở thôn Đanh, Ngọc Sơn, Kim Bảng, Hà Nam, diện tích khoảng 10ha.

Chùa quay mặt hướng Nam ra mạn sông Đáy. Phía ngoài cùng tiếp giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. Công trình này nền được tôn cao, xây vượt hẳn lên năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan có ba gian và được làm thành hai tầng. Tầng trên có hai lớp mái lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can là những trấn song con tiện. Tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có hệ thống cánh cửa bằng gỗ lim.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa Bà Đanh và Núi Ngọc nằm về phía Đông Nam xã Ngọc Sơn. 3 mặt khu di tích này có dòng sông Đáy bao quanh. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khu vực chùa Bà Đanh nằm tách ra xa khu dân cư. Tại đây cây cối um tùm nên vắng người qua lại. Mỗi khi dân làng có việc phải lên chùa vào buổi tối lại phải đốt đuốc và gõ chiêng gõ trống để xua đuổi thú dữ. Chính vì vậy dân gian truyền tụng câu: "Vắng như chùa Bà Đanh".

Xã Ngọc Sơn được thành lập tháng 3 năm 1976, gồm bốn thôn là Mã Não, Phương Khê, Đanh Xá và Thụy Xuyên. Trước cách mạng tháng 8/1945 mỗi thôn này là một đơn vị hành chính xã thuộc tổng Thụy Lôi huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Sau cải cách ruộng đất năm 1956 đã nhập thêm xóm Quế Lâm (thuộc thôn Văn Lâm xã Văn Xá) thành xóm 15.

Tháng 4 năm 1986 thị trấn Quế được thành lập. Một số xóm của xã Ngọc Sơn cắt về thị trấn. Hiện nay xã Ngọc Sơn nằm ở trung tâm của huyện lị. Xã nằm trên trục đường giao thông 22 nối đường 1A từ Ba Đa lên chợ Dầu ngược Hà Tây (cũ). Đây là đầu mối giao thông của huyện đi các nơi. Phía nam của xã nằm giáp sông Đáy. Từ đây ta có thể vào Ninh Bình, Thanh Hóa hay ngược lên Hòa Bình hết sức thuận lợi.

Có thể đi bằng các đường sau để đến với di tích:

  • Từ thành phố Nam Định lên thành phố Phủ Lý, qua cầu Hồng Phú đi theo đường 22 khoảng 10 km là đến với di tích.
  • Từ Thành phố Phủ Lý đi đò ngược sông Đáy khoảng 7 km là đến bến trước cửa chùa Bà Đanh.

Kiến trúc

[sửa | sửa mã nguồn]

Phía ngoài của hai tường bên là hai cột đồng trụ được xây nhô hẳn ra. Trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu vào giữa. Đối diện với cổng, ở chính giữa về phải hai bên cách một đoạn tường ngắn là hai cổng nhỏ có tám mái, cửa phía trên lượn cong hình bán nguyệt. Hàng ngày, khách ra vào chủ yếu đi bằng hai cửa bên này, chỉ khi nào nhà chùa có đại lễ thì cổng chính giữa mới được mở.

Qua cổng tam quan là vào khu vườn hoa. Bóng mấy cây cau khẳng khiu vươn cao trên nền trời xanh và mấy gốc đại già thân mốc sằn sùi đứng ẩn trong một gốc vườn chỉ trồng những cây hao quen thuộc như mộc, nhài, mẫu đơn cành làm tăng tính chất cổ kính cho ngôi chùa.

Trước nhà bái đường là một sân lát gạch. Hai dãy hành lang nằm về hai bên, mỗi dãy có ba gian, khung gỗ lim lợp ngói lam, tường xây bao quanh đằng sau và hai đầu hồi. Nhà bái đường có năm gian, hai đầu bít đốc, lợp ngói nam, trên bờ nóc có đôi rồng chầu mặt nguyệt.

Trên tất cả các vì kèo đều chạm khắc ở hai mặt. Các đề tài chạm khắc trên các vì kèo tính từ đông sang tây như sau: Vì kèo 1: (Một mặt áp vào tường đốc): mặt hổ phù, thông hóa long, trúc hóa long. Trên xà ngang có chạm: quả đào, mai, trúc, nho và lựu, đào và mai, quạt và quả. Vì kèo 2:

  • Mặt trước: Mặt hổ phù và nghê chầu hai bên, mai hóa. Trên xà ngang chạm quả đào, phật thủ, lựu, hoa hồng, cuốn thư, con dơi.
  • Mặt sau: Chạm ngũ phúc, quả đào, hoa hồng, cuốn thư.

Vì kèo 3:

  • Mặt trước: tứ linh (phía trên còn là đề tài lưỡng long chầu nguyệt), xà ngang chạm hoa hồng, cây thông, cuốn thư, kim tiền, đàn sáo.
  • Mặt sau: phía trên chạm tứ linh, xà ngang chạm trúc, mai, hồng, cuốn thư.

Vì kèo 4:

  • Mặt trước: phía trên chạm tứ linh, tùng, mã, mai, điểu. Xà ngang chạm đàn tranh, đàn nguyệt, sáo, phách.
  • Mặt đằng sau: chạm tứ linh, bầu rượu, cuốn thư.

Vì kèo 5:

  • Mặt trước: chạm ngũ phúc, hoa mai, hoa hồng, đàn tranh, bút lông, quạt và bầu rượu.
  • Mặt sau: chạm ngũ long tranh châu, hoa hồng, hoa lan, mai đá

Vì kèo 6: (một mặt áp vào tường đốc) Chạm các đề tài: mặt hổ phù, trúc hóa, hoa hồng, quả đào, quả lựu.

Tất cả các hình chạm ở đây không thấy hình bóng con người mà chủ yếu là động thực vật được kết hợp với nhau thành các đề tài, hình mẫu khá hoàn chỉnh. Ngoài con rồng được sáng tạo trên cơ sở từ một con vật tưởng tượng, còn các động thực vật thể hiện ở đây đều lấy từ cuộc sống thực tế để đưa vào trong nghệ thuật.

Với sự phối hợp tài tình, từ những vật như cây trúc, cây mai, các nghệ nhân đã tạo ra các con giống rất sinh động. Như vậy, trong một cái đơn thể đã hình thành những cái đa thể và trong cái chung lại có cái riêng. Đấy chính là sự hòa nhập của đất trời, của thiên nhiên và cuộc sống để tạo nên sự hòa hợp trong một sự thống nhất.

Bản thân mỗi khóm cây, mỗi cành hoa, mỗi con vật ít khi đứng riêng lẻ mà thường kết hợp với nhau để tạo nên một đề tài chung. Ở từng loài, nếu là động vật thì có các đề tài tứ linh (long, ly, quy, phượng), ngũ phúc (năm con dơi), lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu mặt trời), còn ở thực vật thì có các đề tài tứ quý (tùng, mai, trúc, cúc), bát quả (đào, lựu, nho, phật thủ, na...). Động thực vật được kết hợp với nhau thì có các đề tài mai điểu (chim và hoa mai), tùng mã (cây tùng và con ngựa). Ngoài ra trong các đề tài trang trí ở đây càn nhiều nhạc cụ cổ truyền như đàn tranh, đàn nhụy, phách, sáo hay các đồ vật như quạt, quả vải, tháp bút, ống tiêu, cái khánh, quả bầu đựng rượu... để tạo nên tám vật quý được gọi là bát bảo.

Trên sáu hệ thống vì kèo nhà bái đường, ngoài hai vì kèo đầu hồi, mặt phía trong đặt sát vào bờ tường đốc nhà nên chỉ chạm có một bên, còn bốn vì kèo phía trong được chạm cả hai mặt. Các mảng chạm ở đây đã được các nghệ nhân dân gian kết hợp cả hai phương pháp là nhấn chìm và chạm nổi, các đường nét chạm thoáng, uyển chuyển, bố cục cân đối và hợp lý, kỹ thuật vững vàng của các nghệ nhân đã làm cho các mảng chạm trở nên linh hoạt, có hồn và rất sinh động. Tất cả các mảng chạm trên hệ thống vì kèo ở đây đã làm tăng giá trị cho khu nhà bái đường.

Nhà trung đường nối liền với nhà bái đường cũng gồm năm gian, hai đầu bít đốc, lợp ngói nam. Đằng trước là hệ thống cửa bức màn, chấn song con tiện được làm dày dặn, chắc chắn. Toàn bộ hệ thống vì kèo ở đây đều là dạng biến thể của dạng vì kèo giả chiên chồng rường con nhị. Tất cả các trụ, con rường đều được chế tác đơn giản, chủ yếu vuông thành sắc cạnh nhưng được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý để tạo nên một bộ khung chắc khỏe.

Nhà thượng điện có ba gian, đằng sau và hai bên xây tường bao, còn phía đằng trước là hệ thống cửa gỗ lim. Lòng nhà ở đây so với các khu nhà bái đường và trung đường thì hẹp hơn nhưng được xây cao vượt hẳn lên.

Từ các dãy hành lang đằng trước chùa, qua nhà bái đường đến khu thượng điện, về phía hai bên là các dãy nhà cầu khung bằng gỗ lim, lợp ngói nam. Nhà cầu để nối các công trình lại với nhau và kéo dài cho đến nhà tổ tới các công trình phụ khác. Nhờ vậy, khi mưa gió khách hành hương cũng như người trong chùa đi lại rất thuận lợi, ít ảnh hưởng tới các sinh hoạt.

Nằm về phía Tây chùa là khu nhà ngang gồm năm gian: ba gian giữa là nơi thờ các vị tổ đã trụ trì ở đây, còn hai gian đầu hồi được xây ngăn thành hai gian buồng để làm nơi ở cho người tu hành. Nối tiếp dãy nhà này gồm các công trình phụ như: bếp, chỗ chăn nuôi. Đằng trước nhà tổ là một sân gạch và phía ngoài là khu vườn để trồng hoa với cây lưu niên. Phía Đông khu chùa là phủ thờ mẫu nằm giáp với dãy nhà trung đường, mặt quay về hướng Tây, toàn bộ khu vực chùa có tường bao quanh.

Trong nhà thượng đường của chùa Bà Đanh, có nhiều tượng thờ như tượng Tam thế, tượng Ngọc Hoàng và thái thượng Lão Quân, tượng Bà Chúa Đanh. Có thể coi pho tượng Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.

Chùa Bà Đanh là một tổng thể bao gồm nhiều công trình với gần bốn mươi gian (chưa kể hệ thống nhà cầu) đan xen, bổ trợ cho nhau. Theo nhân dân địa phương cho biết thì ngôi chùa này được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa nhiều lần. Các công trình hiện nay đều được xây dựng từ thế kỉ 19 trở lại đây.

Các kiến trúc từ tam quan, hành lang, nhà bái đường đến thượng điện đều được xây đăng đối theo một trục chính ở giữa và độ cao được nâng dần lên từ ngoài vào trong, điểm chốt cuối cùng là nhà thượng điện. Toàn bộ ngôi chùa từ bố cục đến kiến trúc, chạm khắc đều mang đậm phong cách xây dựng cổ truyền của dân tộc.

Lễ hội chùa Bà Đanh

[sửa | sửa mã nguồn]

Đã thành lệ bao đời, lễ hội chùa Bà Đanh được tổ chức vào tháng 2 âm lịch hàng năm nhằm tri ân đức thánh bà Pháp Phong, một trường hợp đặc biệt trong Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Đây là vị thần phù trợ cho việc sản xuất nông nghiệp được tốt tươi, đời sống nhân dân được no đủ. Đồng thời lễ hội cũng nhằm tôn vinh, cảm tạ ân đức của các vị thần phật được thờ ở trong chùa đã phù trợ cho cuộc sống của nhân dân. Tùy từng năm và dựa vào tình hình thời tiết, thời vụ của nhân dân trong vùng mà nhà chùa chọn ngày đẹp rồi báo cáo với ủy ban nhân dân huyện Kim Bảng. Khi đã ấn định được ngày diễn ra lễ hội rồi mới thông báo rộng dãi cho toàn thể dân chúng. Lễ hội thường được diễn ra trong ba ngày, có năm lấy ngày mồng 9-10-11 tháng 2 âm lịch, có năm lấy ngày 20-21-22 tháng 2, có năm là ngày 15-16-17 tháng 2 âm lịch để tổ chức lễ hội.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khóa » Di Tích Lịch Sử Chùa Bà đanh