Có Ai Biết Trong Tro Còn Lửa”

QĐND - Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ (1940) tuy thất bại nhưng đã có tiếng vang lớn, không những trong nước mà còn lan ra các nước thuộc địa đang đấu tranh cho nền độc lập dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941) khi phân tích hai cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Nam Kỳ (23-11-1940) và binh biến Đô Lương (13-1-1941) diễn ra trong hơn 3 tháng ở ba miền Bắc, Trung, Nam đã cho rằng: “Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương”. Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ mang tính chất của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tính chất nhân dân rộng rãi, sâu sắc.

Nhà thơ Tố Hữu thời trẻ.

Khởi nghĩa Nam Kỳ tuy bị “dìm trong bể máu” nhưng trong đống tro tàn bi tráng ấy lại nhen nhóm những ngọn lửa cách mạng. Đúng như trong bài thơ “Bà má Hậu Giang” của nhà thơ Tố Hữu viết sau đó một năm, năm 1941, có câu: Có ai biết trong tro còn lửa - một bài thơ in trong tập thơ “Từ ấy” của ông.

 

"Từ ấy” là tập thơ đầu của Tố Hữu, được sáng tác trong khoảng 10 năm, kéo dài từ năm 1937 đến năm 1946. Phần lớn các bài thơ trong tập thơ được đăng trên báo chí công khai và bí mật từ năm 1938, được tập hợp lại và xuất bản lần đầu năm 1946 với nhan đề “Thơ” và năm 1959 tái bản có sửa chữa, bổ sung, dưới tên gọi “Từ ấy”.

"Xiềng xích” là một phần trong tập thơ “Từ ấy” gồm 30 bài sáng tác trong thời gian tác giả bị giam tại nhà tù đế quốc từ tháng 4-1939 đến tháng 3-1942. Phần này như một “huyết lệ thư” của một người cộng sản trẻ tuổi. Đó là những cuộc tuyệt thực trong nhà lao, những cuộc chiến đấu gay go với bản thân để vượt qua những cám dỗ thấp hèn (bài “Con cá chột nưa”, “Tranh đấu”); là những lời trăng trối của bạn tù gửi lại khi ra pháp trường (bài “Trăng trối”); là xúc cảm xao động trước tiếng vọng của cuộc đời bên ngoài qua song cửa nhà tù (bài “Một tiếng rao đêm”, “Nhớ người”, “Nhớ đồng”); là ý chí hướng về những tấm gương hy sinh của đồng bào và chiến sĩ trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (bài “Bà má Hậu Giang”).

Nam Kỳ khởi nghĩa. Ảnh tư liệu.

Trong bài thơ, Tố Hữu đã khắc họa hình tượng bà mẹ lam lũ nuôi quân gắn liền với đức hy sinh thầm lặng, một mình bám trụ với mảnh đất chết, bất chấp hiểm nguy:

Rừng một dải U Minh tối sớm

Má lom khom đi lượm củi khô

     Ngày đêm củi chất bên lò

Ai hay má cất củi khô làm gì?

Giữa hoang tàn chỉ có mái nhà mẹ còn bay khói bếp, ấy là khói bếp mẹ nấu cơm cho bộ đội, mặc cho mất mát, đau thương và quân thù tàn ác. Nhưng xót xa thay khi nụ cười hạnh phúc vừa nấu xong nồi cơm to chưa kịp tắt trên môi, mẹ đã ngã xuống dưới gót giày giặc:

Má ngã xuống bên lò bếp đỏ

Thằng giặc kia đứng ngó

trừng trừng

      Má già nhắm mắt, rưng rưng:

"Các con ơi! Ở trong rừng U Minh

Má có chết, một mình má chết

Cho các con trừ hết quân Tây!”

Hình ảnh “Bà má Hậu Giang”, người mẹ kiên trung nuôi giấu cán bộ, bất chấp hiểm nguy cũng là hình ảnh nói lên ý chí, niềm tin của đồng bào Nam Bộ sau Khởi nghĩa Nam Kỳ. Bà mẹ một mình bám trụ với mảnh đất chết, “lom khom đi lượm củi khô” nấu cơm cho du kích... đã khắc sâu trong tâm trí của người đọc. Trong kháng chiến, những người chiến sĩ cộng sản đã không thể cầm được nước mắt trước lời nhắn nhủ của mẹ:

       Má già nhắm mắt, rưng rưng:

"Các con ơi! Ở trong rừng U Minh

Má có chết, một mình má chết

Cho các con trừ hết quân Tây!”

Và, chính những người Vệ Quốc quân đã  “má ơi, con đã nghe lời má kêu” vùng lên quyết sống mái với quân thù và giành thắng lợi huy hoàng sau bao năm kháng chiến trường kỳ gian khổ.

Ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163/SL (14-4-1948) tặng Huân chương Quân công hạng nhất cho Đội quân Khởi nghĩa Nam Kỳ, nhằm tôn vinh ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa đối với lịch sử cách mạng Việt Nam. Tinh thần quyết tử để dân tộc quyết sinh của các chiến sĩ Nam Kỳ đã góp phần hun đúc lòng dũng cảm, chí kiên cường cho cả dân tộc ta để giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ những năm sau này.

Thập Tam trại, tháng 10-2016

Bà má Hậu Giang

Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc

Phèng la kêu, trống giục vang đồng

       Đường quê đỏ rực cờ hồng

Giáo gươm sáng đất, tầm vông nhọn trời

Quyết một trận, quét đời nô lệ

Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!

 

 

 

       Hỡi ôi! Việc chửa thành công

 

 

 

Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang

 

 

       Giặc lùng, giặc đốt xóm làng

 

Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà

       Một vùng trắng bãi tha ma

Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa

Có ai biết, ai ngờ trong đó

Còn chơ vơ một ổ lều con

       Đạn bom qua, hãy sống còn

Núp sau lưng rộng một hòn đá to.

Có ai biết trong tro còn lửa

Một má già lần lữa không đi

       Ở đây sóng gió bất kỳ

Má ơi, má ở làm chi một mình?

Rừng một dải U Minh tối sớm

Má lom khom đi lượm củi khô

      Ngày đêm củi chất bên lò

Ai hay má cất củi khô làm gì?

Hay má lẫn quên vì tuổi tác

Hay má liều một thác cho yên.

 

      Bỗng đâu một buổi mai lên

 

Trên đường quê ấy, qua miền

 

 

nghĩa quân

 

Một toán quỷ rần rần rộ rộ

Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê

      Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê

Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!

Chúng rảo bước. Lính quan nện gót

Mắt nhìn quanh lục mót dạng người

Đồng không, lạnh vắng, im hơi

Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua

Ách là! Thằng quan ba dừng bước

Rút ống nhòm, và ngước mắt nheo

       Xa xa, sau lớp nhà xiêu

Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên...

Hắn khoái chá cười điên sằng sặc

Nhe hàm răng sáng quắc như gươm

      Vẫy tay lũ tớ gườm gườm

Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.

Rồi lặng lặng bước chân hùm sói

Tiến dần lên tia khói, vây quanh...

       Má già trong túp lều tranh

Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô

       Một mình má, một nồi to

Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười...

 

Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt?

Má già run, trán toát mồ hôi

       Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi!

Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.

Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ

Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay

       Rung rinh bậc cửa tre gầy

Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!

 

Hắn rướn cổ, giương mi, trợn mắt

Như hổ mang chợt bắt được mồi

Trừng trừng trông ngược trông xuôi

 

Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.

Hắn rống hét: “Con bò cái chết!

Một mình mày ăn hết này sao?

         Đừng hòng che mắt được tao

Khai mau, du kích ra vào nơi đâu?

        Khai mau, tao chém mất đầu!”

Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô

Má ngã xuống bên lò bếp đỏ

Thằng giặc kia đứng ngó trừng trừng

        Má già nhắm mắt, rưng rưng:

“Các con ơi! Ở trong rừng U Minh

Má có chết, một mình má chết

Cho các con trừ hết quân Tây!”

        Thằng kia bỗng giậm gót giày

Đạp lên đầu má: “Mẹ mày, nói không?”

        Lưỡi gươm lạnh toát kề hông

“Các con ơi! Má quyết không khai nào!”

Sức đâu như ngọn sóng trào

Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây

Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó!

Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!

        Tao già không sức cầm dao

Giết bay, có các con tao trăm vùng!

         Con tao gan dạ anh hùng

Như rừng đước mạnh, như rừng

tràm thơm!

        Thân tao chết, dạ chẳng sờn!”

Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!

        Một dòng máu đỏ lên trời

Má ơi, con đã nghe lời má kêu!

        Nước non muôn quý ngàn yêu

Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.

1941

NGÔ VĨNH BÌNH

Từ khóa » Bà Má Hậu Giang Là Ai