đề Cương Môn Phong Tục Tập Quán - 123doc

• Điều kiện về thể chế chính trị Trong điều kiện lịch sử thay đổi các thể chế chính trị cũng ảnh hưởng đến phong tục tập quán của người Việtnhất là trong thời phong kiến các điều luật do

Trang 1

Phong tục tập quán Câu 1: Phân tích các điều kiện cơ bản hình thành phong tục tập quán của Việt

Nam

• Điều kiện tự nhiên

Điều kiện tự nhiên khác nhau dẫn đến phong tục tập quán khác nhau , ở Việt Nam tiêu biểu với các loại hình : đồng bằng , miền núi, biển Nên phong tục tập quán có

sự khác nhau cụ thể : đồng bằng sinh ra văn hóa làng xã ( văn hóa thần nông ) Núi sinh ra không gian mường của những nghề Nông – Lâm – Ngư Biển sinh ra không gian văn hóa làng chài , làng nổi

• Điều kiện xã hội: Xã hội Việt Nam cổ truyền là nông nghiệp Văn hóa Việt Nam

là nền văn hóa nông nghiệp Những yếu tố nội sinh văn hóa của phong tục tập quán trở thành những truyền thống văn hóa

• Điều kiện giao lưu văn hóa

Một trong những thuộc tính của văn hóa là có thể chia sẻ, tức là văn hóa có thể giao lưu , ảnh hưởng vay mượn từ cộng đồng này sang cộng đồng khác là ngược lại Chính sự vay mượn này thì giao lưu văn hóa là yếu tố quan trọng ảnh hưởng hình thành nên quy luật truyền thống và đổi mới văn hóa

VD: Văn hóa VN giao lưu với Ấn Độ ( phật giáo) , Trung hoa , Tây Âu , Mĩ Pháp

• Điều kiện về thể chế chính trị

Trong điều kiện lịch sử thay đổi các thể chế chính trị cũng ảnh hưởng đến phong tục tập quán của người Việt(nhất là trong thời phong kiến) các điều luật do nhà nước quyết định cũng làm bó hẹp hay mở rộng phong tục tập quán , ngoài ra các

bộ luật của nhà nước cũng dựa trên tập quán lâu đời của cộng đồng dân cư

• Điều kiện về văn hóa truyền thống

Những tập quán duy trì từ đời này sang đời khác Đó là những tập quán đẹp < được nhiều người tin tưởng và làm theo , sàn lọc qua time và trở thành phong tục tập quán truyền thống

 Dạng đặc thù của văn hóa

Câu 2: Trình bày những nét đẹp văn hoá trong phong tục cưới xin của người Việt.

Trình tự tiến hành lễ cưới của người Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi – tên gọi có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất như sau:

Sự mối manh: Đầu tiên phải có người trung gian, đóng vai trò bắc cầu cho hai bên gia đình… Đó thường là người đứng tuổi, có uy tín, có kinh nghiệm

Lễ chạm ngõ

Trang 2

Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè Phải có trầu cau mới được, vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt Không có trầu là không theo lễ

Lễ vấn danh (ăn hỏi)

Chữ Hán gọi chữ này là lễ vấn danh (hỏi tên tuổi, so đôi lứa) Gọi như thế thôi chứ người ta đã biết rõ rồi Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có chồng (dù chưa cưới) Cô đã phải biết bổn phận rồi, và những nhà khác cũng phải biết, đừng lai vãng mối lái gì nữa Nhân dân nói một cách mộc mạc mà rất có ý vị Đó là ngày

bỏ hàng rào Nghĩa là con gái nhà này đã được gài, được đánh dấu rồi, xin đừng ai hỏi đến nữa Còn một cái tên nôm na để dịch lễ vấn danh: lễ ăn hỏi

Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà (pha đủ một ấm), một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ thôi Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới

Lễ cưới

Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai phải đem sính lễ sang nhà gái Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết đã có sẵn cho cô dâu đầy đủ Đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn sau này, cô có thể yên tâm xây dựng

tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn

Do khong hiểu ý nghĩa này, mà nhiều nơi đã xảy ra nạ thách cưới Nhà gái đòi điều kiện của cải, bù vào việc nhà mình mất người Rồi còn xảy ra tệ nạn sau khi cô dâu

về, bà mẹ chồng đã thu lại các của cải để bù vào việc đi vay mượn trước đó Thách cưới đã thành hủ tục, giờ đây đã được bỏ đi

Lễ xin dâu

Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu

sẽ đến

Lễ rước dâu

Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành từng đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào Cô dâu đứng sẵn để cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ Sau đó là cả đoàn rời nhà gái,

để đưa dâu về nhà chồng Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu

Rước râu vào nhà

Trang 3

Đoàn đưa dâu về đến ngõ Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này

Lễ tơ hồng

Cả hai họ cùng ngồi ăn uống xong, tất cả ra về, trừ người thân tín thì ở lại Họ chờ cho cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau,

là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này Lễ cúng tơ hồng đơn giản nhưng rất thanh lịch, không có cỗ bàn nhưng có rượu và hoa quả Có thể cúng trong nhà, mà cũng có thể cúng dưới trời Ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng, chứng kiến buổi

lễ Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái) Các đám cưới quý tộc thì việc tổ chức có quy cách hơn

Trải giường chiếu

Xong lễ tơ hồng, thì cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng cô dâu Trong lúc này trên chiếc giường cưới đã có sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau Bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, sẽ trải đôi chiếu lên giường, trải cho ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận

Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh Loại bánh này gọi là bánh phu thê (sau này ta đọc thành bánh xu xê) Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng ăn hết cái bánh - chỉ co hai vợ chồng, không chia cho ai, không để thừa

Mọi người ra ngoài, để hai vợ chồng cùng tâm sự Ở một số nhà khá giả, thiên về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè văn chương chữ nghĩa với chàng rể còn mang hoa, thắp đền sáng rực trong phòng hợp cẩn Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc

vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc

Lễ lại mặt

Cũng gọi là ngày nhị hỉ, lễ cưới xong, sáng hôm sau, hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên Lễ vật cũng có trầu, xôi, lơn Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì

mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay Nhưng trường hợp này rất hiếm

Lễ cheo

Lễ cưới Việt Nam còn có một hiện tượng độc đáo, đó là lễ cheo Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày Lễ cheo là nhà trai phải có

lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới,

tế bào mới của làng Thật ra đây cũng là thủ tục như bây giờ chúng ta đăng ký ở

Uỷ ban Song người Việt không cho đó chỉ là thủ tục, mà là một lễ nghi hẳn hoi

Trang 4

Người theo chữ nghĩa sách vở thì gọi lễ cheo này là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra

là lễ lan giai) Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu

ở nhà gái

Cách thức tổ chức, trình tự tiến hành của một đám cưới Việt Nam ngày xưa là như vậy Những đám cưới theo kiểu mới hiện nay, theo phong trào, theo quan niệm mới (thật ra thì chưa thành quan điểm), ta cứ làm mà thực ra thì chưa ưng lắm Gần đây đời sống của ta có tươi hơn, chuyện xã giao, chuyện theo đà cũng rầm rộ hơn, khiến cho nhiều người biết là không ổn mà vẫn cứ phải theo những kiểu cách phô trương (có cả trục lợi)

Nhìn lại các phong tục cổ truyền của đám cưới ngày xưa, phải thành thực nhận rằng nhiều người trong chúng ta chưa thật tiếp cận đúng với tinh thần, ý nghĩa nên chỉ thấy phần thiếu sót: nhiều nghi lễ phiền phức, mang tính phong kiến nặng nề; nhiều hủ tục: chuyện thách cưới, chuyện ở rể, chuyện đăng môn hộ đối… làm giảm

đi ý nghĩa của hôn nhân, đám cưới phô trương cỗ bàn, khoe khoang y phục, hát xướng…

Về ý nghĩa sâu sắc, có tính cách triết học, có thiên về tâm linh, người ta hiểu rằng: hôn nhân là việc hệ trọng, là thiêng liêng Vì thế người ta thấy cần phải theo lễ Phải gọi là lễ cưới chứ không chỉ là đám cưới suông Lấy vợ, lấy chồng là một việc thiêng liêng của đời người Lấy nhau vì tình, nhưng cũng còn vì nghĩa nữa Nhiều

cô cậu ngày nay chỉ biết yêu nhau mà lấy nhau, để thoả mãn sự gắn bó, có lẽ không khẳng định là dài hay ngắn

Cưới vợ cưới chồng ở Việt Nam la có sự chứng kiến của thần thánh tổ tiên (có tơ hồng) Đó là thần quyền Rồi phải có làng xóm, pháp luật công nhận (lễ nộp cheo

Đó là pháp quyền Và trước nhất anh chị phải yêu nhau, phải thấy hợp nhau, hợp tuổi tác Đó là nhân quyền Những đám cưới có hai cô cậu biết nhau (mời bạn bè đến ăn) cũng chỉ là quan hệ cá nhân mà thôi Chỉ biết yêu, chứ không biết đó là thiêng liêng, nên sự ràng buộc chỉ là mức độ

Đám cưới Việt phải có trầu, cau mới thể hiện được sự ràng buộc của tình nghĩa vợ chồng và linh ứng của thần linh “Ba đồng một mớ trầu cay – Sao anh không hỏi những ngày còn không…” là ý nghĩa như thế

Lễ vật đám cưới truyền thống - ở các nhà bình dân – không có mâm cao cỗ đầy, không ai đếm món: mâm này năm trăm, mâm kia sáu trăm, nhà các quan to thì lắm

xe đưa đón Nhưng người dân Việt Nam biết chọn các lễ vật đẹp Những cốm, hồng, những dây lụa chăng đường, những bài thơ, bài hát Thật là đẹp đẽ và cảm động Cái đẹp của lễ cưới Việt Nam là như thế

Câu 3: Theo anh( chị) vai trò của lễ hội trong việc thu hút khách du lịch ở Việt

Nam được thể hiện như thế nào? Lấy ví dụ minh hoạ một vùng miền cụ thể?

Trang 5

Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng về du lịch, trong

đó lễ hội được xem như một bộ phận cấu thành tiềm năng ấy Vậy lễ hội có tác dụng gì đối với sự phát triển của ngành Du lịch, sức sống của nó ra sao? Những công việc của ngành Du lịch phải làm là gì để có thể khiến lễ hội thành sản phẩm

có nhiều tác dụng đối với đối với cuộc sống nay?

Có thể nói, lễ hội là một kho tàng văn hoá, nơi lưu giữ những tín ngưỡng, tôn giáo, những sinh hoạt văn hoá văn nghệ, nơi phản ánh tâm thức con người Việt Nam một cách trung thực Nhìn chung, lễ hội dân tộc Việt Nam gồm hai bộ phận: lễ hội truyền truyền thống cung đình và lễ hội dân gian Với lễ hội dân gian, đây là nơi lưu giữ nhiều tín ngưỡng dân gian Tín ngưỡng của lễ hội dân gian Việt Nam được biểu hiện dưới nhiều dạng như thờ cúng thần hoàng, thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng tổ nghề… Ngoài ra, các tín ngưỡng dân gian còn tiềm ẩn các trò diễn như tín ngưỡng thờ mặt trời, mặt trăng, thần nước… Sự tiềm ẩn đó khiến chúng ta khó nhận diện các tín ngưỡng cổ xưa ấy Cùng với tín ngưỡng, nhiều lễ hội còn gắn với phật giáo, thiên chúa giáo Lễ hội cung đình gắn liền với văn hóa cung đình của các triều đại phong kiến mà đỉnh cao và sự phong phú là các lễ hội cung đình triều Nguyễn như lễ tế Nam Giao, tế Xã tắc, Truyền lô…

Lễ hội truyền thống còn lưu giữ nhiều sinh hoạt văn hoá văn nghệ đặc sắc Nơi mở hội nhiều khi là những danh lam thắng cảnh, một môi trường giàu tính văn hoá Chính địa điểm mở hội đáp ứng các tiêu chuẩn một điểm du lịch

Với ngành Du lịch, lễ hội là một sản phẩm văn hoá đặc biệt Ngành Du lịch cáng phát triển, càng gắn kết với lễ hội truyền thống Tự thân ngành Du lịch trong bước đường phát triển của mình tự tìm đến với loại sản phẩm văn hoá đặc biệt này Đưa khách đến với lễ hôi truyền thống là nhằm để giới thiệu đất nước, con người Việt Nam hôm qua, hôm nay là giới thiệu các giá trị về văn hoá, tín ngưỡng của lễ hội, tính dân tộc và tính phổ quát của lễ hội Vì thế ngành Du lịch đứng trước một khó khăn, đồng thời cũng là một yêu cầu phải khai thác di sản văn hoá này sao cho khoa học, đúng với đặc trưng lễ hội

Ví dụ : “So với các tỉnh thành khác ở phía Bắc, tỉnh Thừa Thiên – Huế có số lượng các lễ hội dân gian không phong phú bằng, song là mảnh đất có các lễ hội cung đình phong phú Với sự tồn tại của 13 đời vua triều Nguyễn kéo dài 143 năm đã để lại cho Huế một hệ thống các lễ hội cung đình Trong năm kỳ tổ chức Festival Huế,

lễ hội truyền thống cung đình đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nếu như không muốn nói không có các lễ hội cung đình sẽ không có bản sắc Festival Huế Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy số lượng du khách đến với các lễ hội này còn khá khiêm tốn nếu đem so sánh với sự quy mô, hoành tráng của các lễ hội Điều này có

Trang 6

nhiều lý do khác nhau nhưng theo chúng tôi có hai nguyên nhân chính Thứ nhất,

do đây là các lễ hội cung đình, thể hiện các nghi lễ của triều đình nên chủ yếu là phần lễ chứ phần hội hầu như rất nhạt Thứ hai, vấn đề thông tin quảng bá các lễ hội còn hạn chế đến du khách và đặc biệt với các công ty lữ hành, những người làm tour du lịch Điều này đã hạn chế rất lớn đến vấn đề doanh thu du lịch từ lễ hội Một hiện tượng thường gặp là chúng ta mới chỉ giới thiêụ được lớp văn hoá bề mặt của từng lễ hội, mà chưa thấy được lớp văn hoá ẩn tàng sâu hơn, lớp tín

ngưỡng chìm trong các trò diễn một cách kín đáo, khuất khúc Chúng ta làm sao bóc được hết các lớp tín ngưỡng, văn hoá đã lắng đọng ở chiều sâu trong lễ hội truyền thống giới thiệu cho du khách Một hiện tượng khác cũng thường bắt gặp là trong khi giới thiệu về lễ hội, nơi chỉ nhấn mạnh tính địa phương mà không chú ý đến tính phổ quát Cần giới thiệu cho du khách thấy tính chung và tính riêng, nét đặc thù của mỗi lễ hội

Thực tế, ngành Du lịch Việt Nam nói chung và ngành Du lịch Thừa Thiên – Huế nói riêng đã chú trọng đến sản phẩm văn hoá đặc biệt này Tuy nhiên, nếu giải quyết được một số vấn đề cấp thiết sẽ đưa lễ hội truyền thống trở thành sản phẩm

du lịch đặc sản.”

Việc khai thác các lễ hội tuy đã được chú trọng nhưng các sản phẩm đã có về lễ hội chỉ dừng lại ở mức miêu tả mà chưa lý giải, giải thích Trên thực tế, nhất là ở các địa phương, việc tìm hiểu các lễ hội truyền thống chưa được ngành Du lịch chú ý Truyên truyền viên, hướng dẫn viên cho du khách mà chưa am tường lễ hội nên chưa thể giới thiệu được cặn kẽ Nguyên nhân này có thể từ nhiều phía, nhưng cái chính là nguyên nhân chủ quan của ngành Du lịch trong việc đào tào hướng dẫn viên

Trong di sản văn hoá của các thế hệ trước để lại, lễ hội dân tộc có tác dụng hữu hiệu với ngành Du lịch không chỉ hôm nay mà cả ngày mai ở cả hai mặt: giới thiệu đất nước, con người và kinh doanh Khai thác, giới thiệu những lễ hội dân tộc biến

nó thành người bạn đồng hành trong cuộc sống hôm nay là công việc của ngành

Du lịch Về cả phương diện giới thiệu bản sắc văn hoá dân tộc lẫn phương diện kinh doanh, Ngành rất cần một thái độ khoa học, đúng hướng, sự hỗ trợ của các nhà văn hoá Lễ hội dân tộc luôn có sức hấp dẫn và thu hút du khách Bởi đó là thế giới tâm linh của con người

Câu 4: Phân tích bản chất của lễ hội truyền thống Việt Nam Liên hệ với quá trình

hiện nay lễ hội sẽ diễn ra và biến đổi như thế nào, có gì khác so với lịch sử?

• Bản chất của lễ hội

- Tính thời gian : 2 dịp

Trang 7

+ mở đầu vụ xuân nông lâm ngư nghiệp và các hình thức canh tác , lao động sản xuất

+ kết thúc mùa vụ, ngta tổ chức lễ hôi để tạ ơn thần thánh , cầu mong mùa sau được hơn mùa trước

- Tính không gian:

Lễ hội bao giờ cũng gắn với 1 địa điểm hay địa phương nhất định Trước hết dành cho nhân dân địa phương thẩm nhận và hưởng thụ những giá trị và lợi ích từ lễ hội đem lại , sau đó mới dành cho du khách gần xa Không gian của trung tâm lễ hội thường gắn với chương trình

- Tính đối ứng của lễ hội:

Thể hiện ở tính đóng mở chặt chẽ : bất cứ 1 lễ hội nào cũng diễn ra trình tự khai hội , trải hội, bế hội, với những quy tắc nhất định Thông qua các hoạt động dễn xướng dân gian Xét về nội dung và hình thức thể hiện , sự dối ứng lễ hội qua yếu tố

Trang 8

Thiêng Tục

Tĩnh Đồng

Đạo Đời

Biểu trưng Cụ thể

Chung Riêng

Mục đích Khái vọng

Thần thánh Chúng dân

Đại diện Toàn diện

Bắt buộc Tùy thuộc

Hiện nay quá trình lễ hội diễn ra ntn và có gì khác so với lịch sử

Về cơ bản 1 lễ hội vẫn diễn ra 2 phần : phần lễ và phần hội Từ nguồn gốc là nơi hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui, lễ hội hiện tại đã và đang dần bị biến tấu, biến dạng

và biến tướng

Theo cách nghĩ truyền thống, thì lễ hội ở Việt Nam là những sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng "Lễ" là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống đi kèm theo “Lễ”

Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được tôn thờ, kính ngưỡng, trọng vọng…, và như một cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, một sự tiếp nối truyền thống để không bao giờ bị đứt gãy, đứt đoạn hay biến mất

Xã hội phát triển, nhiều chân giá trị văn hóa truyền thống tưởng như mai một, biến mất thì nay đang dần phục hồi thông qua các lễ hội Nhưng do nhiều lý do khi phục hồi lại mà các lễ hội đã

bị mất đi cái gốc nguyên thủy nguyên sơ của nó, làm cho lễ hội vô tình mang một ý nghĩa khác đi

Đơn cử như lễ hội chùa Hương (Hà Nội) Truy gốc của lễ hội này qua một số tư liệu lịch sử từ thời các Chúa Trịnh, chùa Hương này là mô phỏng chùa Hương Tích ở Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh, trên đỉnh núi Hồng Lĩnh Và ngày trước vào đầu năm mới mọi người đi trảy hội chùa Hương, là đi đến lễ chùa, bái Phật, chiêm ngưỡng vùng non nước cẩm tú, sơn thủy hữu tình với hang động, rừng cây, chim muông, kỳ hoa dị thảo… như một cuộc du xuân thưởng ngoạn non xanh nước biếc, hay hành hương về miền đất Phật linh thiêng…

Trang 9

Còn bây giờ, khai hội chùa Hương như một cuộc diễn trình sân khấu hóa, có kịch bản, có đạo diễn, rồi hát múa, đàn loa, kèn trống…, ồn ào, người người đi như tranh như cướp, cảnh mua thần bán thánh, cướp khách đi đò, ăn uống phàm tục, sát sinh thú rừng…

Và không chỉ khai hội Chùa Hương, mà nhiều lễ hội khác cũng biến ngày khai hội thành những show sân khấu hóa, mất đi hẳn sự tôn nghiêm như vốn có của nguyên gốc Chưa kể họ còn biến tấu làm sai ý nghĩa của phong tục như việc phát ấn Đền Trần (Nam Định, Thái Bình), hay

chuyện ban lộc của Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), xoa tiền trên chuông Chùa Đồng Yên Tử (Quảng Ninh), tượng Phật La Hán chùa Bái Đính (Ninh Bình)…

Những lễ hội có phần “chém”, “chặt”, “đâm”, “cướp”… trước đây chỉ có trai tráng và người già

ở làng chứng kiến như một nghi lễ có tính tâm linh, gắn với truyền tích của làng, thì nay được trình diễn như một show cộng đồng, có sự tham gia của đông đảo người dân không chỉ của làng

mà tứ phương, không chỉ người lớn mà có cả trẻ con.Và những cảnh “sân đình đẫm máu” sau nghi lễ “chém”, “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” để tranh cướp lộc lấy may, chen lấn để có một chỗ đứng trong lễ giải sao hạn, rải tiền lẻ lễ , đốt vàng mã như xả rác khắp các nơi thờ tự…, làm cho các lễ hội trở nên một “thảm cảnh” kinh hoàng

Lễ hội ngoài ý nghĩa văn hóa tâm linh, phong tục tập quán, thì ở khía cạnh kinh tế là một sản phẩm du lịch mang tính độc đáo và có thể “đắt hàng”, thu lợi nhuân cao Đã có nhiều địa

phương số tiền thu được sau lễ hội đã bằng thu nhập cả năm người dân dầm mưa dãi nằng vất

vả trên đồng ruộng

Nhưng không phải vì thế mà có thể “biến” gần 9.000 lễ hội thành các sản phẩm du lịch mà không có những quy chuẩn, quy chế, định chế khác nhau

Đã có những phân loại, phân cấp: lễ hội cấp quốc gia, lễ hội cấp tỉnh, lễ hội cấp huyện và lễ hội cấp làng…, nhưng rõ ràng hiện tại ranh giới quốc gia- tình thành- huyện- làng xã cũng rất mong manh Vì ở đâu có lễ hội là mọi người đều có quyền tham gia, chẳng cần phân biệt cấp nào, cứ thích là đi

Nhưng để lễ hội chỉ được diễn ra trong phạm vi hẹp làng xã thì lại không hài lòng thỏa mãn cái tính thích phô trương danh tiếng, thanh thế của lễ hội làng mình với tứ phương

Lễ hội chính là sản phẩm của một nền văn hóa dân gian đa dạng, mà văn hóa thì vốn có tính tiếp biến, không bao giờ ngừng thay đổi Việc đưa lễ hội về nguyên gốc khó khả thi, nhưng không

có nghĩa là không có phương cách để trả lễ hội về đúng ý nghĩa vốn có của nó

Câu 5: Trình bày nét cơ bản trong tập quán nhà cửa của người Việt

- Cấu trúc nhà cửa : khái quát trong câu : nhà cao cửa rộng , nhằm ứng phó với tự nhiên

- Chọn hướng nhà : Hướng nam là hướng tốt nhất vừa tránh dc hướng phía tây , bão

từ phía đông và lạnh vào mùa rét phía bắc

Trang 10

- Bố trí sắp đặt trong ngôi nhàTrong mỗi ngôi nhà của người Việt thì gian chính thường được đặt bàn thờ gia tiên Đây cũng là một tín ngưỡng thờ cúng độc đáo của người Việt Trên ban thờ người Việt bao giờ cũng hội tụ 5 yếu tố Kim mộc thủy hỏa thổ Chiếc lư hương tượng trưng cho hành kim, đồ gỗ tượng trưng cho hành mộc, nước và rượu tượng trưng cho hành thủy, đèn nến tượng trưng cho hành hỏa, lọ lục bình, bát hương tượng trưng cho hành thổ”

- Đi lại: Phương tiện di chuyển truyền thống ngoài sức trâu ngựa ,voi, thì phổ biến

là đi chân , qian lại thì di chuyển bằng kiệu , cáng Miền bắc du mục di chuyển bằng ngựa , miền nam di chuyển bằng thuyền ( m Sông nước)

Câu 6: lễ hội của dân tộc thiểu số ở việt nam có đặc điểm gì cơ bản , tại sao có

đặc điểm đó

Dân tộc thiểu số có cuộc sốn gắn với ngư nghiệp nên có đặc điểm cơ bản là

- Thời gian tổ chức lễ hội :

Do chủ yếu sống bằng canh tác nông nghiệp gắn với núi rừng , nương rẫy, thời gian mở hội do thời gian sản xuất vụ nông nghiệp quyết định Do đó lễ hội thường diễn ra vào thời điểm nông nhàn , kết thúc mù vụ Ngoài ra lễ hội còn diễn ra trong năm vào dịp liên quan tới cuộc sống đời người ( đc gọi là nghi lễ vòng đời ) như : kết hôn , làm nhà , đau ốm, hoặc cái lễ hội cầu mưa giao duyên và các lễ hội có liên quan đến đời sống tộc người dưới góc độ các nhân hay cộng đồng

- Không gian : là không gian sinh tồn của cộng đồng dân cư không gian cụ thể gắn với vị trí làng bản

Vd: gia đình trưởng họ, rừng cấm , rừng thiêng , thác nước

- Đối tượng :

+ các thần tự nhiên : do địa bàn cư chú chủ yếu là vùng núi cao , mật độ dan số thấp , người dân sống gắn liền với ngư nghiệp nên họ thờ 1 số vị thần tự nhiên như: thần gió, thần sấm , thần mưa, với hi vọng mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu

+ các nhân thần : những người có thật hoặc do con người tưởng tượng ( không biết giải thích ntn)

Câu 7: Lễ hội là gì? Phân tích các thành tố cơ bản của lễ hội Việt Nam

-Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng "Lễ" là hệ thống những hành

vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống

Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện tượng đó Tôn giáo rất có ảnh

Từ khóa » Môn Phong Tục Tập Quán Việt Nam