Đề Tài: Sử Dụng Mô Hình Swot Gồm 4 Yếu Tố để Phân Tích điểm Mạnh ...

Trang chủ Trang chủ Tìm kiếm Trang chủ Tìm kiếm Đề tài: Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển docx Số trang Đề tài: Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển 35 Cỡ tệp Đề tài: Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển 220 KB Lượt tải Đề tài: Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển 2 Lượt đọc Đề tài: Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển 364 Đánh giá Đề tài: Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển 4.2 ( 15 lượt) Xem tài liệu Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Tải về Chuẩn bị Đang chuẩn bị: 60 Bắt đầu tải xuống Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên Chủ đề liên quan Mô hình swot Phương pháp phân tích SWOT Ứng dụng của mô hình SWOT Ma trận SWOT Chế biến tôm xuất khẩu Vệ sinh an toàn thực phẩm

Nội dung

Tên đề tài: “Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển. (Nhật Bản và Hoa Kỳ”. PHẦN 1.ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài. Xuất khẩu tôm của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh với những thành tựu to lớn đang góp phần đưa kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất khẩu tôm Việt Nam đã có một tốc độ tăng trưởng tương đương với tôc sđộ tanwg trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ và xây dựng: 6 tháng đầu năm 2013, XK tôm Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2012. XK sang các thị trường trọng điểm tăng khả quan như sang Nhật Bản tăng 6,6%, sang Mỹ tăng 22,4% và sang Trung Quốc tăng 33,7%.. Cùng với những cơ hội rộng mở, mặt hàng Tôm Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn đặt ra trong sân chơi chung thương mại quốc tế. Khi Tôm Việt Nam đã có chỗ đứng trên một số thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản...thì đi kèm theo nó là rất nhiều rủi ro. Mỹ được coi là thị trường chiến lược của Tôm Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu rất cao so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam và đang chiếm một thị phần đáng kể trên thị trường thuỷ sản Mỹ. Việc tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao thị phần trên thị trường này không dơn giản trong khi cạnh tranh ngày càng gay gắt, hơn nữa thị trường Mỹ luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro bất ngờ, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kĩ lưỡng môi trường kinh doanh để xây dựng chiến lược cho phù hợp trong từng thời kì. Việc sử sụng mô hình SWOT phân tích điểm mạnh điểm yếu,cơ hội,thách thức của việc xuất khẩu Tôm Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ giúp chúng ta đánh giá tốt hơn về hiện trạng,xem xét các yếu tố nội tại cũng như các tác động khách quan từ phía thị trường các nươc phát triển để đưa ra những chiến lược thực hiện mục tiêu đề ra,nâng cao lợi nhuận,giành nhiều thị phần hơn trên đất Mỹ. Đó là lý do tôi chọn mô hình SWOT để xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ- một thị trường mở nhưng đầy thách thức. 2. Mục tiêu của đề tài. 2.1 Mục tiêu tổng quát Phân tích đánh giá về tình hình xuất khẩu Tôm của Việt Nam vào thị trường các nước phát triên. 2.2 Mục tiêu cụ thể. Sử dụng mô hình swot để nhận định các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức cưa mặt hàng tôm Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển, từ đó đề ra các giải pháp. 3. Phạm vi nghiên cứu. 3.1 Không gian: 3.2 Thời gian: 4. Nội dung của nghiên cứu: - Thực trạng xuất khẩu Tôm của Việt Nam vào thị trường các nước phát triên và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. - các chiến lược đc đề xuất. - Kết luân. PHẦN 2.NỘI DUNG I.1 Chương I Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu Các khái niệm cơ bản. Mô hình swot là: Phương pháp phân tích SWOT (còn gọi là ma trận SWOT) là phương pháp phân tích các điểm Mạnh (Strengths), điểm Yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Rủi ro (Threats). Điểm Mạnh và điểm Yếu, gọi nôm na là sở trường và sở đoản là những yếu tố nội bộ tạo nên (hoặc làm giảm) giá trị. Các yếu tố này có thể là tài sản, kỹ năng hoặc những nguồn lực nào đó của công ty so với đối thủ cạnh tranh. Cơ hội và Rủi ro là các yếu tố bên ngoài tạo nên (hoặc làm giảm) giá trị của công ty mà nằm ngoài tầm kiểm soát của công ty. Cơ hội và Rủi ro nảy sinh từ môi trường kinh doanh cạnh tranh, yếu tố địa lý, kinh tế, chính trị, công nghệ, xã hội, luật pháp hay văn hóa. Mô hình SWOT chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với n gành hàng, doanh nghiệp từ đó kết hợp phát triển các loại chiến lược, đề xuất cá c giải pháp để phát huy những điểm mạnh, khai thác những cơ hội, tối thiểu hoá những điểm yếu và hạn chế những thách thức để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, lợi nhuận lớn và tránh được các rủi ro. Các loại chiến lược là: chiến lược thế mạnh-cơ hội (SO); chiến lược điểm yếu-cơ hội (WO); chiến lược thế mạnh-đe doạ (ST); chiến lược điểm yếu đe doạ (WT). Ngoài ra còn có các chiến lược mở rộng kết hợp nhiều yếu tố như: SOT, SWT, OWT, SWOT. Các yếu tố điểm mạnh, điểm yếu là các yếu tố bên trong (môi trường b ên trong) còn các yếu tố cơ hội, thách thức (môi trường bên ngoài). Sự kết hợp c ác yếu tố bên trong và bên ngoài là vấn đề cơ bản nhất và khó khăn nhất của việc xây dựng và sử dụnh ma trận SWOT. Điều này đòi hỏi phải có sự phán đoán tốt về mối quan hệ giữa các yếu tố. 1.2 Ứng dụng của mô hình SWOT SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định hướng của một công ty hay của một đề án kinh doanh. SWOT phù hợp với làm việc và phân tích theo nhóm, được sử dụng trong việc lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, tiếp thị, phát triển sản phẩm và dịch vụ... Để thiết lập ma trận SWOT cần trải qua các bước sau: -Xác định các thế mạnh của ngành hàng hay của doanh nghiệp. -Xác định các điểm yếu của sản phẩm, của doanh nghiệp. -Phân tích môi trường và xác định các cơ hội để phát triển ngành hàng, doanh nghiệp. -Phân tích và tìm ra những mối đe doạ từ bên ngoài. Các mối đe doạ này có thể là đối thủ cạnh tranh thay đổi chiến lược, thị trường biến động thất thường chuyển hướng mậu dịch, chính phủ thay đổi chính sách theo hướng bất lợi. -Kết hợp các yếu tố: +Kết hợp các điểm mạnh và cơ hội, ghi kết quả chiến lược SO. +Kết hợp các điểm mạnh và mối đe doạ, ghi kết quả chiến lược ST. +Kết hợp điểm yếu và cơ hội, ghi kết quả chiến lược WO. +Kết hợp điểm yếu và thách thức, ghi kết quả chiến lược ST. Ngoài ra còn có thể xây dựng, mở rộng ma trận kết hợp nhiều yếu tố. Chương II Thực trạng các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của xuất khẩu Tôm Việt nam vào thị trường các nước phát triển. 2.1 Điểm mạnh 2.1.1 Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lí của Việt Nam là niềm mơ ước của rất nhiều các quốc gia trên thế giới. Với 3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên trải qua 13 vĩ độ từ 823’ vĩ độ bắc đến 2129' vĩ độ bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam rộng 226000 km và vùng biển đặc quyền kinh tế trên một triệu km rộng gấp 3 lần diện tích đất liên. Trên vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn như: Cô Tô, Cát Bà, Phú Quốc… là nơi có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch đồng thời đã, đang và sẽ được xây dựng thành một tuyến căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu cần, chu chuyển sản phẩm cho các đội tàu khai thác hải sản, đồng thời là nơi cư trú của tàu thuyền trong mùa mưa bão. Ngoài ra nước ta còn có 660 nghìn ha vùng nước lợ, đây là môi trường giàu chất dinh dưỡng cho thực vật thủy sinh.. Là nơi cư trú, sinh sản, sinh trưởng của tôm he, tôm nương, tôm rảo, tôm vàng, cá đối, cá vược, cá tráp, cá trai, cá bớp, cua biển… 2.1.2 Diện tích nuôi tôm có xu hướng tăng mạnh Theo Phạm Xuân Thuỷ (2006) năm 2005 diện tích và sản lượng tôm nước lợ trên cả nước phân theo các vùng gồm: ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và ĐBSCL được thống kê trong (Bảng 1). ĐBSCL có diện tích nuôi và sản lượng tôm nước lợ cao nhất so với các vùng nuôi còn lại, trong đó Đông Nam Bộ và ĐBSCL hai vùng nuôi thuộc Nam bộ. . Diện tích tôm nuôi nước lợ cả nước năm 2005 là 604.479 ha (Bảng 2) so với năm 1999 tăng 394.031 ha (gấp 1,87 lần), mức tăng bình quân 31,2% /năm. Các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nuôi tôm nước lợ lớn nhất là 535.145 ha (năm 2005) (chiếm 88,53% diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước). Theo nguồn số liệu của Tổng cục thống kê, sản lượng tôm nước lợ tại Nam Bộ các năm từ 2007 -2009 đạt trên 300.000 tấn. Trong khi các năm từ 1995 – 1999 mới chỉ dưới 50.000 tấn (hình 1). Hình 1: Diễn biến sản lượng tôm nuôi nước lợ ven biển các tỉnh Nam Bộ Theo thống kê của Bộ NN & PTNT, tính đến tháng 8-2008 tổng diện tích nuôi tôm nước lợ của các tỉnh ven biển ĐBSCL là 539.607ha, chiếm 89,3% tổng diện tích cả nước; trong đó, nuôi tôm sú là 538.800ha, tôm thẻ chân trắng 807ha. Diện tích nuôi tôm sú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Cà Mau (257.000ha), Bạc Liêu (121.811ha) và Kiên Giang (77.218ha)... ĐBSCL có 46.257ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, diện tích còn lại là nuôi tôm quảng canh và quảng canh cải tiến (Cà Mau và Bạc Liêu tập trung nhiều nhất, 90%). Các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, diện tích nuôi tôm sú là 18.843ha và nuôi tôm chân trắng là 129ha. Sản lượng thu hoạch, tính riêng khu vực ĐBSCL là 160.566 tấn, chiếm 76,3% tổng sản lượng thu của cả nước, chủ yếu là tôm sú. Các tỉnh có sản lượng tôm sú cao là Cà Mau (68.500 tấn), Bạc Liêu (36.211 tấn), Kiên Giang (13.623 tấn)... Năng suất nuôi tôm sú thâm canh trung bình 3-4 tấn/ha/vụ 4 tháng. Năm 2010, diện tích nuôi tôm sú trong vùng đạt hơn 560 nghìn ha, sản lượng hơn 293 nghìn tấn; trong đó, tỉnh Cà Mau có gần 247 nghìn ha, Bạc Liêu 117.364 ha, Kiên Giang hơn 72 nghìn ha... Từ năm 2000 đến nay, các tỉnh đã chuyển hơn 300 nghìn ha ruộng trũng trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS; riêng năm 2006, chuyển gần 6.500 ha. Diện tích nuôi tôm sú năm 2010 giảm gần 16.000 ha so với năm 2009 do hệ thống tiêu thoát nước thải chưa đáp ứng nhu cầu và chưa ngăn chặn được dịch bệnh Tháng 8/2010, sản lượng thu hoạch tôm nước lợ đã đạt 222.480 tấn, trên khoảng 39% diện tích. Như vậy, với 61% diện tích tôm chưa thu hoạch cùng với cùng với diện tích nuôi thêm trong 4 tháng cuối năm, sản lượng tôm nước lợ nuôi năm nay có thể đạt tới 500.000 tấn. Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì hướng đi trong tương lai của đồng bằng ven biển Nam Bộ là phát triển nuôi tôm sú theo chiều sâu. Đến năm 2015, có 546.000 ha vào nuôi tôm sú, giảm 768 ha so với năm 2010 nhưng sản lượng sẽ đạt 463.000 tấn, 80% sản lượng sẽ được xuất khẩu với giá trị hàng năm ít nhất là 1,5 tỉ USD. Hình thức nuôi phổ biến là quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh, thâm canh. Trong đó, diện tích nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm khoảng 20% diện tích để sản lượng nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm 51% tổng sản lượng tôm, sản lượng nuôi quảng canh cải tiến chiếm 35%, sản lượng tôm lúa, tôm rừng chiếm 14% tổng sản lượng. Năng suất tôm nuôi quảng canh phấn đấu từ 0,35-0,45 tấn/ha, nuôi quảng canh cải tiến trên ruộng lúa (tôm lúa) đạt từ 0,4-0,5 tấn/ha, nuôi tôm rừng 0,15-0,20 tấn/ha, nuôi thâm canh-bán thâm canh đạt trung bình 2,0-3,5 tấn/ha. Hiện tại năng suất tôm nuôi trung bình của vùng đạt 0,7 tấn/ha/năm và phấn đấu đến năm 2015 đạt 0,85 tấn/ha. Đến hết tháng 8 năm 2013, ước diện tích nuôi tôm cả nước đạt 600.000 ha, trong đó diện tích nuôi tôm sú là 570.000 ha, tôm thẻ chân trắng là 25.200 ha. Sản lượng thu hoạch tôm ước đạt 133.000 tấn, trong đó tôm sú là 93.000 tấn, tôm thẻ chân trắng là 40.000 tấn. Về mặt hàng tôm thẻ chân trắng, 7 tháng đầu năm xuất khẩu tăng 51,5% so với cùng kỳ năm 2012 (đạt 609 triệu USD) và chiếm 43,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam, trong khi xuất khẩu tôm sú chỉ tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2012 2.1.3 Sản phẩm đã đáp ứng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu Bộ thủy sản đã ban hành hàng loạt các tiêu chuẩn ngành về điêù kiện đảm bảo an toàn vệ sinh của tàu cá, cảng cá, chợ cá, cơ sở thu mua, cơ sở sản xuất nước đá, sơ chế thủy sản, kho lạnh, cơ sở bán lẻ… Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm tương đương với tiêu chuẩn cuả các nước nhập khẩu. Công tác kiểm tra, kiểm soát về an toàn vệ sinh thực phẩm đã được chuyển đổi từ kiểm tra sản phẩm cuối cùng sang quản lí và thực hiện các biện pháp về an toàn vệ sinh thực phẩm theo hệ thống xuyên suốt từ khâu sản x uất nguyên liệu đến thu mua và chế biến xuất khẩu. Với sự nỗ lực của các cơ quan quản lí cùng các doanh nghiệp, tháng 11/199 9 Việt Nam đã chính thức được công nhận vào danh sách các nước xuất khẩu thủy sản vào EU với 18 doanh nghiệp. Đến nay đã nâng lên 153 đơn vị có code xuất khẩu đi EU chiếm 38,7% trong tổng số cơ sở chế biến hiện có, khoảng 300 đơn vị áp dụng HACCP đủ tiêu chuẩn xuất hàng và o Mỹ. Những doanh nghiệp này có giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm trên 80% tổ ng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Những nỗ lực đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ của riêng Nhà nước mà từ các doanh nghiệp, sản phẩm tôm Việt Nam đã và đang tiến xa hơn và có thể xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường thủy sản Mỹ. 2.1.4 Đã có một số công nghệ cao trong chế biến và nuôi trồng Rào cản lớn cho xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ hiện nay là Mỹ đã đưa ra các quy định về tiêu chuẩn chất lượng ngặt nghèo mà những quy đị nh này chủ yếu đối với các sản phẩm có nguồn gốc nuôi trồng. Vì vậy để đảm bảo c hất lượng cho hàng tôm xuất khẩu thì công tác nuôi trồng phải được xem là một quá trình đòi hỏi phải làm tốt ở tất cả các khâu: từ chuẩn bị khu nuôi, công tác giống, thức ăn, quá trình chăm sóc, theo dõi bệ nh trong quá trình nuôi, thu hoạch và vận chuyển đến khu chế biến. Hiện nay ngành thủy sản đã tập trung nghiên cứu công nghệ sản xuất giống những đối tượng giá trị xuất khẩu như tôm sú, tôm rảo, tôm càng xanh… trong đó một số đối tượng đã đi vào sản xuất đại trà. Đồng thời cũng đã nhập khẩu công nghệ sản xuất giống tôm thể chân trắng… bước đầu có kết quả khả quan. Cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành chế biến tôm phát triển khá nhanh. Năm 2000 cả nước có 272 cơ sở chế biến thủy sản, trong đó có 246 cơ sở chế biến đông lạnh, 65 dây chuyền IQF, với tổng công suất cấp đông là 20 00 tấn/ngày. Cuối năm 2002 tổng số doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh là 2 35 với tổng công suất là 3147 tấn/ngày. Phân chia theo vùng như sau miền Bắc 4%, miền Trung 27,2%, miền Nam 68,8%. Như vậy các cơ sở chế biến về cơ bản đã được xây dựng theo quy hoạch. Đa số các cơ sở chế biến đều có nhà xưởng ,nhà kho, trang thiết bị, dụng cụ vệ sinh, hệ thống xử lí nước thải, trang thiết bị kiểm tra sản phẩm đều đạt tiêu chuẩn chất lượng. Nhiều cơ sở tiến hành sản xuất theo phương thức công nghiệp. Việc áp dụng hệ thống quản lí chất lượng và các quy định về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng phổ biến. Qua việc phân tích các điểm mạnh của tôm Việt Nam chúng ta thấy rõ được những ưu thế của sản phẩm. Từ những lợi thế về điều kiện tự nhiên, đa dạng hóa về sản phẩm… cho đến những nỗ lực đổi mới công nghệ để nân g cao chất lượng sản phẩm, tôm Việt Nam có thể tự tin bước vào thị trường Mỹ, Nhật Bản. Nếu phát huy được những lợi thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh thì tôm Việt Nam sẽ ngày càng tiến xa hơn nữa không chỉ trên thị trường Mỹ,Nhật Bản mà còn nhiều thị trường lớn khác nữa. 2.1.5 Các doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu ngày một nhiều và có sản lượng cao. Ví dụ tình hình sản xuất tôm xuất khẩu ở công ty Thông thuận – Ninh Thuận Với thế mạnh trong lĩnh vực tôm giống và tôm thương phẩm và nguồn nguyện liệu chủ động, chất lượng, năm 2009 công ty đã mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực chế biến xuất khẩu thủy sản. Đến nay, công ty đã có 2 nhà máy đang hoạt động với sản phẩm đầu ra đạt đầy đủ các tiêu chuẩn khắt khe của quốc tế như Global GAP 3 sao, ACC 3 sao, HACCP, IFS, HALA… tạo ra nguồn sản phẩm thủy sản xuất khẩu chất lượng xuất khẩu sang các thị trường lớn trên toàn thế giới, đặc biệt là các thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ, Trung Đông, Hàn Quốc,v.v… Hiện tại, công ty đang đầu tư xây dựng nhà máy chế biến tôm số 2 tại cụm công nghiệp Thanh Hải, tp Phan Rang – Tháp Chàm dự kiến đi vào hoạt động vào quý 2 năm 2013. Ngoài ra, công ty còn đang xúc tiến đầu tư thêm một nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu Thông Thuận – Kiên Giang tại khu công nghiệp Thạnh Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang Thông Thuận – Ninh Thuận với 2 nhà máy chế biến: Nhà máy chế biến số 1 tại số 104, Ngô Gia Tự, tp Phan Rang – Tháp Chàm. Hiện có hơn 1.000 công nhân làm việc ổn định với công suất trên 3.000 tấn thành phẩm/ năm, tương đương doanh số trên 20 triệu USD/ năm. Nhà máy chế biến số 2: được xây dựng trên diện tích 33.000 m2 với tổng số vốn đầu tư 260 tỉ. Theo thiết kế, khi đi vào hoạt động, nhà máy sản xuất 8.000 tấn thành phẩm/ năm, tương đương doanh số trên 50 triệu USD/ năm. Cung cấp việc làm ổn định cho hơn 2.000 lao động địa phương và là nhà máy chế biến tôm lớn nhất khu vực miền Trung. Trực thuộc công ty cổ phần thủy sản Thông Thuận – Cam Ranh. Nhà máy chế biến có vị trí tại lô A1,A11, A12, A13, A14 khu công nghiệp Suối Dầu, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa. Với số cán bộ công nhân viên trên 1.500 người. Có công suất 4.600 tấn thành phẩm/ năm. Doanh số 30 triệu USD/ năm. Thông Thuận – Kiên Giang : Được thiết kế với 2 phân xưởng chế biến + Phân xưởng chế biến tôm xuất khẩu với sản lượng hàng năm lên đến 7.000 – 8.000 tấn thành phầm/ năm. Dự kiến sẽ bước vào hoạt động năm 2014 và doanh số hằng năm lên đến 50 triệu USD/ năm. Phân xưởng chế biến cá xuất khẩu với sản lượng hàng năm lên đến 7.500 – 8.000 tấn thành phẩm/ năm. Theo kế hoạch, phân xưởng chế biến cá sẽ đi vào hoạt động năm 2015 với năng lực chế biến lên tới 20 triệu USD/ năm. Khi đi vào hoạt động, nhà máy sẽ cung cấp việc làm ổn định cho 3.000 lao động địa phương, đồng thời bảo đảm đầu ra ổn định cho sản phẩm từ các farm nuôi của công ty với dự kiến sẽ lên đến 10.000 – 13.000 tấn tôm nguyên liệu/năm vào năm 2014. 2.2 Điểm yếu. 2.2.1 Thiếu vốn sản xuất tôm nguyên liệu. Tôm đang có giá tốt nhưng do thiếu vốn nên người nuôi đành thả nuôi cầm chừng. Đã sắp hết vụ nuôi tôm đợt 1/2013 nhưng các tỉnh trọng điểm Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng vẫn chưa hoàn thành kế hoạch diện tích. Giá giảm, diện tích giảm Tại ĐBSCL, tôm sú loại 30 con/kg đang bán được 190.000 - 195.000 đồng/kg, tăng 10 - 15%, tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg bán được 85.000 - 90.000 đồng/kg, tăng hơn 10% so cùng kỳ năm ngoái. Ông Phạm Hoàng Giang, Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng Thủy sản (NTTS) Bạc Liêu cho biết, giá tốt vậy nhưng vẫn không đủ hàng bán cho nhà máy chế biến xuất khẩu. Đó là do người nuôi gặp khó khăn từ vụ thả nuôi năm trước, nay chưa hồi phục, lại thiếu vốn nên thả nuôi cầm chừng, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng, dẫn đến mất cân đối cung cầu. Tỉnh Bạc liêu có diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp 11.913 ha, đến nay đã thả nuôi 10.007 ha, mới đạt 84% kế hoạch. Tỉnh Sóc Trăng chưa thống kê diện tích, nhưng vùng trọng điểm nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp huyện Trần Đề diện tích "treo ao" do thiếu vốn còn nhiều. Ông Giang Đại Hòa (ấp Chợ, xã Trung Bình, huyện Trấn Đề) có 3 ao nuôi, diện tích 1,5 ha, do không vay được vốn ngân hàng nên phải nuôi tôm sú gối đầu, hiện 1 ao sắp thu hoạch, 2 ao còn lại mới thả được 2 tháng và 1 tháng. Ông Ca Minh Chí (cùng ấp) có 8 ao, diện tích 4,5 ha, cũng chỉ dám thả nuôi 4 ao, còn lại phải chờ thu hoạch để quay vòng vốn mới tính chuyện thả tiếp. Khó tiếp cận vốn Theo nhiều hộ dân Sóc Trăng, không tiếp cận được vốn ngân hàng do từ đầu năm đến nay Bảo Việt Sóc Trăng không bán hồ sơ bảo hiểm tôm nào cho dân. Trong khi đó ngân hàng chỉ phát vay nuôi tôm cho những hộ được bảo hiểm; sự trông chờ lẫn nhau dẫn đến vốn dành cho phát triển NTTS (trong đó có tôm) đang ứ ở ngân hàng nhưng không cho vay được. Tại tỉnh Bạc Liêu, do không được bảo hiểm và khó tiếp cận ngân hàng nên nhóm nuôi tôm liên kết của ông Phạm Trúc Điệp (phường Nhà Mát, TP Bạc Liêu) phải "treo ao" từ đầu năm. 6 tháng đầu năm 2013, ngân hàng cho vay NTTS được 172,409 tỷ đồng, tổng dư nợ NTTS đến 31/6/2013 là 1.272 tỷ đồng, so với dư nợ ngày 31/12/2012 chỉ tăng 3,83 %. Nếu trừ dư nợ nuôi cá tra 5 tỷ đồng thì dư nợ nuôi thủy sản, chủ yếu là tôm, chỉ 1.248 tỷ đồng, tăng 3,48% so cuối năm 2012. Mức dư nợ như vậy cho thấy người nuôi tiếp tục gặp khó về vốn. Trong khi đó Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trương giảm lãi suất và tăng vốn cho nông nghiệp - nông thôn, nhất là NNTS. Ngày 5/7/2013, tại Hội nghị bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn cho lúa gạo và thủy sản ĐBSCL, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình khẳng định: "Hoạt động nuôi trồng và chế biến nếu có kế hoạch tốt, ngân hàng sẽ đáp ứng đủ vốn để sản xuất phát triển. Trong đó hoạt động bảo hiểm sẽ được đẩy mạnh; những sản phẩm quan trọng, đảm bảo được đầu ra sẽ được xem xét cấp bảo lãnh tín dụng…". Song, chưa biết đến bao giờ ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm tại ĐBSCL thực hiện được như ý kiến Thống đốc. Trong khi đó, dân cứ chạy vốn xoay vòng, phải bỏ hoang hóa diện tích NTTS, khiến cung cầu mất cân đối. Nhiều doanh nghiệp chế biến tôm vì thế phải nhập khẩu nguyên liệu, làm cán cân thanh toán ngoại tệ mất cân đối theo, còn số đông người nuôi tôm vẫn "treo ao" dài dài! 2.2.2 Điểm yếu về tôm nguyên liệu. Tuy nuôi trồng và khai thác thủy sản được quan tâm và phát triển nhưng việc phát triển nguyên liệu ở nhiều nơi còn mang tính tự phát, dễ nảy sinh tác hại đối với môi trường ảnh hưởng lớn đến phát triển thủy sản bền vững. Sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch về cơ bản chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Giá tôm giống cao, giá thức ăn nuôi tôm cũng cao đã làm tăng giá thành nguyên liệu, khi tỷ trọng giá nguyên liệu thường chỉ chiếm đến 90% giá thành sản phẩm. Giá nguyên liệu cao đã là m giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm Việt Nam đặc biệt khi thị trường thế giới biến động, giá xuất khẩu giảm. 2.2.3 Về công tác thị trường Công tác thị trường tuy đã được quan tâm và đạt được một số kết quả nhưng mới chỉ ở trình độ thấp. Phương thức tiếp thị và bán hàng tuy đã chuyển sang chủ động nhưng vẫn thông qua sử dụng thương hiệu của đối tác, chưa có khả năng tiếp cận người tiêu dùng, chưa xây dựng được chiến lược phát triển thị trường cho sản phẩm chủ lực cũng như chưa tổ chức triển khai xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm trên thị trường Mỹ. Nguyên nhân chủ yếu là do không có đủ nguồn lực chuyên gia về thị trường, nguồn kinh phí dành cho các hoạt động xúc tiến thương mại còn hạn chế, chưa có cơ chế thích hợp để huy động kinh phí từ các doanh nghiệp, người sản xuất để phát triển thị trường cho sản phẩm chủ yếu. Mét trong những nét văn hoá tiêu dùng của người Mỹ là mua sắm qua các nhà phân phối uy tín, các hoạt động quảng bá xúc tiến có ý nghĩa rất quan trọng khi kinh doanh trên thị trường này. Yếu về công tác thị trường là một bất lợi lớn khi tôm Việt Nam xâm nhập thị trường này. 2.2.4 Vấn đề bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm Công tác quản lí an toàn vệ sinh mới chỉ tập trung thực hiện ở khu vực chế biến chưa được thực hiện tốt ở khu vực sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch ( chủ yếu sử dụng đá và muối ) nên vẫn còn hiện tượng bị các nước nhập khẩu cảnh báo và trả lại hàng. Yêu cầu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang là một thách thức lớn đối với toàn ngành. Tình trạng tiêm chích tạp chất vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng, bảo quản nguyên liệu vẫn chưa kiểm soát tốt. Mặt khác do thiếu những cơ sở dịch vụ như cho cá tập trung ở các vùng sản xuất nguyên liệu nên đã tạo kẽ hở cho tư thương đánh phá giá nguyên liệu ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của nông ngư dân, nhất là vào những thời điểm có nhiều nguyên liệu. 2.2.5 Vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật Công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho sản xuất tôm tuy có được quan tâm nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao nhằm tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều kết quả nghiên cứu còn chậm được phổ biến áp dụng trong sản xuất. Các quy trình nuôi chuẩn, các quy phạm nuôi trồng tốt chưa được ban hành và phổ biến đầy đủ cho nhân dân. Trình độ công nghệ trong khai thác và nuôi trồng còn nhiều hạn chế. Công nghệ chế biến tôm chưa bắt kịp với tốc độ tiến bộ của công nghệ trên thế giới. Công tác đào tạo cán bộ quản lí, cán bộ tiếp cận thị trường, công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong sự chỉ đạo và điều hành giữa các chương trình phát triển tôm, trong khi đó yêu cầu quản lí đối với sản phẩm là xuyên suốt không thể tách rời. Vì vậy trong sản xuất kinh doanh cũng như đầu tư còn bị cắt khúc và thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa sản xuất nguyên liệu, hậu cần dịch vụ và chế biến xuất khẩu gây nên tình trạng vừa thừa vừa thiếu, vừa lãng phí vừa gây cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường trong và ngoài nước. 2.2.6 Vấn đề dịch vụ hậu cần thủy sản Việc hình thành và xây dựng cơ sở dịch vụ hậu cần cho khai thác hải sản diễn ra trên 3 lĩnh vực: cơ khí đóng sửa tàu thuyền, các cảng cá bến cá, dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị và hệ thống tiêu thụ sản phẩm. Tuy đã đạt được một số thành công nhất định nhưng dịch vụ hậu cần thủy sản vẫn tồn tại một số yếu kém như sau: Các cơ sở đóng sửa tàu thuyền phần lớn quy mô nhỏ, phân tán và công nghệ lạc hậu. Các doanh nghiệp Nhà nước về đóng tàu thuyền không đủ khả năng đầu tư đổi mới thiết bị, Ýt khách hàng. Nhân lực kỹ thuật quá Ýt ỏi, công nhân đóng sửa tàu chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, hạn chế về tiếp thu công nghệ mới. Điều này gây bất lợi lớn khi xuất khẩu thủy sản sang Mỹ bởi khoảng cách giữa Mỹ và Việt Nam quá lớn, nếu không có các đội tàu lớn chúng ta không thể dành được quyền vận chuyển trong buôn bán và không chủ động được trong việc cung ứng hàng. Nền kinh tế thế giới không ngừng vận động và phát triển, quá trình phân công lao động hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng tạo ra những thách thức và cơ hội mới, nếu ngành tôm Việt Nam không khắc phục những điểm yếu trên thì sẽ bị đào thải. Cạnh tranh ngày càng khốc liệt, để tồn tại và phát triển thì thủy sản Việt Nam còn phải nỗ lực hơn nữa, tạo ra nhiều thế mạnh mới, khắc phục những yếu kém. Nếu không sẽ không giữ được vị trí hiện có trên thị trường Mỹ mà còn thất bại trên cả những thị trường dễ tính hơn. 2.3 Cơ hội. 2.3.1 Hàng rào thuế quan của Mỹ được dỡ bỏ. Ngày 21/9/2013, Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC) ra tuyên bố ngành sản xuất tôm Mỹ không bị thiệt hại bởi tôm nhập khẩu từ Việt Nam. Như vậy, việc hoàn thuế ký quỹ của các doanh nghiệp là theo đúng luật định. Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), nhận định: “Đây là lần hiếm có trong lịch sử kiện chống trợ cấp, Mỹ công bố sản phẩm tôm một nước bị coi có nền kinh tế phi thị trường không bị áp loại thuế này. Vài ngày trước, tôm Việt Nam cũng lần đầu tiên được minh oan không bán phá giá tại Mỹ. Từ đây, các doanh nghiệp nước ta sẽ có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu tôm sang Mỹ”. Từ đầu năm đến nay, giá tôm tại Mỹ liên tục tăng. Cụ thể, giá tôm sú tháng 9/2013 tăng thêm trung bình 3,6 USD/kg, giá tôm chân trắng tăng thêm 4,2 USD/kg. Tháng 8/2013, xuất khẩu tôm tăng 66% so với cùng kỳ năm 2012, riêng thị trường Mỹ tăng đến 146%. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, 8 tháng đầu năm 2013, giá trị xuất khẩu các loại thủy sản đạt 4,16 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ. Trong đó riêng mặt hàng tôm đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng gần 22%. Riêng tháng 8, xuất khẩu các sản phẩm chính khác đều giảm trong khi mặt hàng tôm vẫn tăng 65,5% so với tháng 8 năm ngoái. Giá trị tôm xuất khẩu sang 10 thị trường lớn đều tăng trưởng mạnh như Mỹ tăng gần 146%, Hàn Quốc tăng 96,2%, EU tăng 54,5%... Từ đầu tháng 9, tôm Việt đón nhận 2 tin vui khi thoát cả thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp khi vào thị trường Mỹ. Theo đó, toàn bộ các khoản tiền ký quỹ đã thu hoặc dự định sẽ phải thu của doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt sẽ được hoàn trả hoặc bãi bỏ. 8 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt trên 445,6 triệu USD, tăng hơn 52% so với cùng kỳ 2012. VASEP cho biết, tôm Việt xuất sang Mỹ hiện có một số thuận lợi, đó là nguồn cung từ Thái Lan giảm mạnh, trong khi giá mặt hàng này đang tăng cao. 2.3.2 Cơ hội chiếm lĩnh thị trường Không giấu nổi vui mừng, ông Trần Văn Lĩnh, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy sản và Thương mại Thuận Phước, bày tỏ: “Khi nhận được thông tin, không chỉ chúng tôi mà nhiều DN xuất khẩu thủy sản khác thấy như trút được gánh nặng đã đè trên vai quá lâu. Kể từ khi Mỹ áp thuế chống bán phá giá lần đầu tiên năm 2004, gần chục năm rồi tôm Việt Nam mới được minh oan. Rồi còn thoát khỏi thuế chống trợ cấp. Chúng ta thắng kiện như một kỳ tích!”. Các DN trong nước sẽ có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ. Ảnh: CTV Ông cho rằng trong giai đoạn kinh tế khó khăn, tôm Việt Nam đã chứng tỏ được sức cạnh tranh trên thị trường thế giới khi tăng gần 70% so với cùng kỳ năm 2012, đạt 1,7 tỉ USD. Nay với việc không phải chịu thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp cơ hội tăng sản lượng và giá trị tôm xuất khẩu vào Mỹ càng rộng mở. “Thông tin này rất có lợi cho DN tôm Việt Nam vì thời điểm này chỉ còn mỗi Việt Nam là có nguồn cung nguyên liệu lớn nhất; các nước xuất khẩu tôm lớn như Thái Lan, Indonesia bị dịch bệnh tôm chết sớm gây thiệt hại nặng nề hơn” - ông Phạm Hoàng Việt, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, nói thêm. Việc tôm Việt không phải chịu hai loại thuế trên không chỉ cởi bỏ được áp lực cho DN xuất khẩu nước ta mà cả với nhà nhập khẩu Mỹ. Họ sẽ chọn tôm Việt Nam vì bán được giá cạnh tranh hơn và có nhiều lợi nhuận hơn trong khi nguồn cung từ Thái Lan, Argentina, Indonesia giảm mạnh, nhu cầu thế giới tăng cao, giá bán tôm cũng tăng. 2.3.3 Sản lượng tôm Thái Lan, nước chi phối nguồn cung tôm thế giới, giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch bệnh khiến nguồn cung hạn chế. Theo dự báo của Hiệp hội Thực phẩm đông lạnh Thái Lan, sản lượng tôm của nước này trong năm 2013 dự kiến giảm 50% so với 550.000 tấn năm 2012. - Giá tôm trên thị trường thế giới đang tăng nhanh. Giá tôm tại Mỹ, Nhật Bản và EU có xu hướng tăng. Trên thị trường Mỹ, giá tôm sú 6 tháng đầu năm 2013 tăng thêm 2,26 USD/kg từ 6,40 USD/pao lên 7,53 USD/pao. Giá tôm chân trắng cũng tăng 2,86 USD/kg từ 4,10 USD/pao lên 5,53 USD/pao. Trên thị trường Nhật Bản, tôm sú HLSO Việt Nam cỡ 16/20 cuối tháng 6/2013 tăng thêm 5,5 USD/kg so với tháng 1/2013, từ 10,72 USD/kg lên 16,23 USD/kg. Tôm sú HLSO cỡ 16/20 từ Ấn Độ cũng tăng thêm gần 5 USD/kg, từ 11,03 USD/kg lên 15,95 USD/kg. Tôm Indonesia tăng 3 USD/kg. Giá tôm chân trắng của Indonesia trên thị trường này trong 6 tháng đầu năm nay cũng tăng đáng kể. Tôm HLSO cỡ 16/20 tăng 1,8 USD/kg, từ 11,32 USD/kg lên 13,1 USD/kg. Cổng thông tin VASEP, cho thấy Việt Nam xuất khẩu 3.570 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh vào thị trường Nhật Bản trong tháng 8 với giá trị 4,3 tỷ Yên, đứng đầu về khối lượng và giá trị xuất khẩu vào thị trường này. Indonesia và Ấn Độ chia nhau vị trí thứ hai và thứ ba, với giá trị xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản lần lượt đạt 3,25 tỷ Yên và 3,17 tỷ Yên. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu của Indonesia trong tháng 8 (2.657 tấn) lại thấp hơn Ấn Độ (3.320 tấn) do giá xuất khẩu của Indonesia cao hơn. Tính chung 8 tháng đầu năm, Việt Nam xếp thứ hai về khối lượng xuất khẩu tôm nguyên liệu đông lạnh sang Nhật Bản với 21.904 tấn, đứng sau Indonesia với khối lượng đạt 21.964 tấn, và đứng ngay trước Ấn Độ với 17.609 tấn. Về giá trị xuất khẩu, Việt Nam lại đứng đầu do giá xuất khẩu bình quân cao hơn 2 nước trên. Giá trị xuất khẩu tôm nguyên liệu của Việt Nam sang Nhật Bản trong 8 tháng đạt 25,4 tỷ Yên, cao hơn so với con số 24,9 tỷ Yên của Indonesia và 17 tỷ Yên của Ấn Độ. Giá xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường này đạt mức trung bình 1.159 Yên/kg, cao hơn so với mức 1.133 Yên của Indonesia và 939 Yên của Ấn Độ. Philipin là nước xuất khẩu tôm với giá cao nhất sang thị trường Nhật Bản là 1.361 Yên/kg. Cơ quan Hải quan Nhật Bản cho biết trong tháng 8/2013 nước này nhập khẩu 14.337 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh trị giá 15,85 tỷ Yên, giảm 10% về khối lượng nhưng tăng 24% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng, Nhật Bản nhập khẩu 105.140 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh, trị giá 108,27 tỷ Yên, giảm 4% về khối lượng nhưng tăng 18% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012. Giá nhập khẩu trung bình đạt 1.089 Yên (11,14 USD)/kg. Tính cả tôm chế biến các loại, Nhật Bản đã nhập khẩu tổng cộng 154.083 tấn tôm trong 8 tháng đầu năm 2013, trị giá 156,47 tỷ Yên (1,62 tỷ USD). XK tôm sang Nhật Bản: Dự báo sẽ tăng nhẹ 4% đạt 642 triệu USD do: Trên thị trường EU, giá tôm chân trắng HOSO tăng 7% trong 6 tháng đầu năm 2013, từ 9,41 USD/kg tôm cỡ 31/40 lên 10,05 USD/kg. Giá tôm sú HLSO tăng 16% từ 8,60 USD/kg tôm cỡ 16/20 lên 10 USD/kg. - Giá tôm nguyên liệu đang tăng trở lại Phần nào khuyến khích người nuôi tôm thả nuôi trở lại, giúp giảm bớt căng thẳng về nguồn nguyên liệu cho chế biến trong nước. Tôm sú nguyên liệu cỡ 30 con/kg có giá bán 180.000 đồng/kg tăng 20% so với đầu năm. Tôm chân trắng cỡ 100 con/kg có giá bán 102.000 đồng/kg, tăng 8,5%. 2.3.4 Dịch bệnh có chiều hướng giảm, EMS được kiểm soát tốt hơn. Theo báo cáo của một số địa phương về tình hình nuôi tôm 6 tháng đầu năm 2013, tôm nhiễm bệnh hoại tử gan tụy đã giảm đáng kể so với năm 2011 & 2012. Nhiều hộ nuôi tôm đã kiểm soát tốt đối với hội chứng hoại tử gan tụy trên tôm nuôi. Thống kê của Tổng Cục Thủy sản cho thấy, 6 tháng đầu năm 2013, diện tích nuôi tôm bị thiệt hại khoảng 23.938 ha, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2012. 2.3.5 Những ưu đãi từ phía chính phủ Việt Nam Trong những năm qua, chính phủ và các ban ngành khác luôn quan tâm đến việc xây dựng và phát triển ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế có thế mạnh của nước ta, phát huy lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. -Về định hướng phát triển Theo điều 5 của luật thủy sản: Nhà nước có chính sách bảo đảm phát triển thủy sản bền vững: khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy sản, đảm bảo tái tạo nguồn lợi thủy sản và phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, sông, hồ, đầm...các vùng tự nhiên. Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến phát triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nuôi thủy sản sạch, đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư để phục vụ có hiệu quả hoạt động thủy sản, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia bảo hiểm về người và thuỷ sản trong hoạt động thủy sản. -Về khai thác thủy sản: Nhà nước có chính sách đồng bộ về đầu tư, đào tạo nghề, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, dịch vụ hậu cần...khuyến khích tổ chức cá nhân phát triển khai thác thuỷ sản xa bê. Tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động khai thác thủy sản xa bờ được áp dụng theo luật khuyến khích đầu tư và ảnh hưởng các chính sách ưu đãi khác của nhà nước. -Về nuôi trồng thuỷ sản Được cơ quan chuyên ngành phổ biến đào tạo, tập huấn chuyển giao kỹ thuật mới về nuôi trồng thuỷ sản, thông báo về tình hình môi trường dịch bệnh, thông tin về thị trường thuỷ sản. Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản tập trung theo qui hoạch kế hoạch phát triển ngành thủy sản. Nhà nước có chính sách khuyến khích nghiên cứu giống thủy sản quí hiếm, tạo giống thủy sản quốc gia quản lí công tác xuất nhập khẩu giống thuỷ sản. -Các hoạt động dịch vụ thuỷ sản Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển tàu cá phù hợp với chiến lược khai thác thủy sản xa bờ. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của cảng cá, khu neo đậu trú bão của tàu cá, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của bến cá, chợ thủy sản và quản lí kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ngay tại các chợ đầu mối. 2.4 Thách thức. 2.4.1 Thách thức từ nguồn nguyên liệu. Sản lượng tôm thu hoạch giảm Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, năm 2012, cả nước có 30 tỉnh, thành phố nuôi tôm nước lợ, với tổng diện tích thả nuôi là 657.523 ha, sản lượng 476.424 tấn; tăng 0,2% về diện tích nhưng giảm 3,9% sản lượng so với năm 2011. Trong đó, nuôi tôm sú chiếm 94,1% diện tích và 62,7% sản lượng tôm nuôi trong cả nước; tôm thẻ nuôi chiếm 5,9% diện tích, sản lượng chiếm 27,3%. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nuôi tôm nước lợ chủ yếu của cả nước với tổng diện tích nuôi tôm là 595.723 ha, sản lượng 358.477 tấn (chiếm 90,61% diện tích, 75,2% sản lượng nuôi tôm cả nước); trong đó diện tích nuôi tôm sú là 579.997 ha, sản lượng 280.647 tấn (chiếm 93,6% diện tích, 94% sản lượng tôm sú cả nước), diện tích nuôi tôm chân trắng là 15.727 ha, sản lượng 77.830 tấn (chiếm 41,2% diện tích, 42% sản lương tôm chân trắng nuôi cả nước). Tổng cục Thủy sản nhận định, dịch bệnh xảy ra trầm trọng trên diện rộng là nguyên nhân chính khiến hiệu quả sản xuất năm 2012 bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bên cạnh các khó khăn khác như giá thức ăn, vật tư đầu vào liên tục tăng cao, giá mua tôm một số thời điểm thấp và rào cản thương mại về kiểm tra dư lượng Ethoxyquin ở thị trường Nhật Bản. Từ đầu năm đến nay, cả nước có khoảng 100.776ha diện tích tôm nước lợ bị thiệt hại do dịch bệnh (trong đó tôm sú là 91.174ha), bao gồm các bệnh hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS), đốm trắng, đầu vàng... gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người nuôi và ảnh hưởng đến sản lượng, giá trị xuất khẩu. Các địa phương bị dịch bệnh nhiều nhất là Sóc Trăng thiệt hại 23.371,5ha (56,6% diện tích thả nuôi); Bạc Liêu 16.919ha (thiệt hại trên 50% 8.377ha, thiệt hại dưới 50% 8.542ha); Bến Tre thiệt hại 2.237ha nuôi thâm canh, bán thâm canh (29,06% diện tích thả nuôi); Trà Vinh thiệt hại 12.200ha (49,3% diện tích); Cà Mau diện tích tôm nuôi công nghiệp bị bệnh 958,58ha, tăng trên 420ha so với năm 2011. Riêng Tiền Giang, diện tích tôm nuôi thâm canh và bán thâm canh bị thiệt hại là 922,88ha, chiếm 30,63% tổng diện tích thả nuôi tôm. 2.4.2 Rào cản gia tăng từ các thị trường Từ Thị trường Mỹ: Ngày 29/5/2013, DOC đã ra phán quyết sơ bộ về thuế chống trợ cấp đối với tôm NK từ 7 nước trong đó có Việt Nam với lý do ngành tôm các nước này nhận trợ cấp từ chính phủ. Việt Nam bị áp thuế 6,07%. Ngày 13/8 tới DOC sẽ ra phán quyết cuối cùng, tuy nhiên, tôm Việt Nam XK sang Mỹ hoàn toàn có khả năng bị áp thuế “kép” gồm thuế CBPG và thuế chống trợ cấp. Ngày 12/8/2013, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) ra quyết định cuối cùng, cáo buộc tôm xuất khẩu của Việt Nam được hưởng trợ giá làm tổn hại tới các nhà đánh bắt và chế biến tôm của Hoa Kỳ. Theo đó, mức thuế suất chống trợ cấp mà Hoa Kỳ áp dụng với các DN xuất khẩu tôm của Việt Nam là từ 1,15% đến 7,88%. Dù vậy, mức thuế này đã bị USITC chính thức phản đổi. Với phán quyết của USITC, tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ không phải chịu thuế chống trợ cấp nói trên. Đây không chỉ là tin vui với ngành tôm Việt Nam mà còn với cả người tiêu dùng Hoa Kỳ. Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), việc DOC áp thuế chống trợ cấp với tôm nhập khẩu Việt Nam không chỉ là một phán quyết vô lý, không công bằng, ảnh hưởng đến hàng trăm ngàn người nông dân và DN của Việt Nam mà còn khiến người tiêu dùng Hoa Kỳ chịu thiệt vì giá tôm nhập khẩu tăng mạnh. Trước đó, vào ngày 10/9, lần đầu tiên Hoa Kỳ lên tiếng công nhận tôm Việt Nam không bán phá giá vào nước này giai đoạn từ ngày 1/2/2011 đến 31/1/2012. Như vậy, việc thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng, chịu hai loại thuế vô lý là thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp sẽ giúp tôm Việt Nam có nhiều đất cạnh tranh hơn trên thị trường Hoa Kỳ. Theo Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), 8 tháng đầu năm 2013, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 4,16 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu tôm đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng gần 22% và chiếm tới 41,5% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản cả nước. Riêng tháng 8/2013, xuất khẩu các sản phẩm chính khác đều giảm trong khi xuất khẩu tôm tăng tới 65,5% so với tháng 8/2012. Đặc biệt, xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ có tốc độ tăng tới 145,9%. Với đà tăng này, Hoa Kỳ đang vượt qua Nhật Bản, trở thành thị trường lớn nhất tiêu thụ tôm của Việt Nam. Xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ bắt đầu hồi phục từ quý II/2013 sau khi giảm 18,6% năm 2012 và giảm 6,3% trong quý I. Tám tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt trên 445,6 triệu USD, tăng 52,4% so với cùng kỳ năm 2012. Bang Lousiana của Mỹ đang vin vào lý do bảo vệ ngành tôm khai thác nội địa để thông qua dự luật cấm tôm NK từ các nước bị ảnh hưởng của EMS. Xuất khẩu tôm sang Mỹ năm 2013 sẽ tăng trưởng chậm Trong báo cáo chính thức của Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) về quyết định sơ bộ đối với việc bắt đầu điều tra thuế chống trợ cấp tôm NK từ 7 nước trình lên Chính phủ Mỹ, ước tính tăng trưởng XK tôm nói chung và sang Mỹ nói riêng năm 2013 từ các nước này sẽ giảm.Trong báo cáo này, ITC cung cấp số liệu của 5 nước XK tôm hàng đầu sang Mỹ gồm Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam năm 2012 và ước tính năm 2013. Các số liệu đó cho thấy rõ xu hướng giảm XK tôm của các nước này sang Mỹ cũng như khả năng mở rộng XK tôm sang các thị trường khác năm 2013.Theo đó, XK tôm năm 2013 của Indonesia, Thái Lan và Việt Nam sang Mỹ đều giảm, XK tôm của Ecuadorvà Ấn Độ tăng. Đối với Việt Nam, theo ITC, XK tôm năm 2013 dự kiến đạt 145.898 tấn, chỉ tăng 3,3% so với 141.221 tấn của năm 2012, trong đó XK sang Mỹ sẽ giảm còn 32.337 tấn từ 33.665 tấn năm 2012 .Bên cạnh thống kê về XK, ITC còn đưa ra lượng dự trữ tôm của các nước tại Mỹ đầu năm 2013. Trong đó Tổng lượng dự trữ của 3 nước còn lại gồm Thái Lan, Việt Nam và Indonesia giảm 12% còn 153.000 tấn.Năm 2012, NK tôm từ 5 nước này chiếm tới 74,5% tổng NK tôm vào Mỹ. Bảng : Xuất khẩu tôm các nước sang Mỹ năm 2012 và dự báo 2013( tấn). NướcXK Việt Nam Tổng XK năm 2012 141.221 Dự báo tổng xk năm 2012 145.898 XK sang Mỹ năm 2012 33.665 Dự báo XK sang Mỹ năm 2013 32.337 Lượng dự trữ đầu năm 2013 33.050 Theo Cơ quan Thống kê Mỹ, NK tôm Việt Nam vào Mỹ năm 2012 giảm 9,5% so với năm 2011. Năm 2013 dự báo nhu cầu tiêu thụ tôm của nước này sẽ không tăng cao do nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng. Bên cạnh đó, với sự đồng thuận “vào cuộc” của Bộ Thương mại Mỹ và ITC trong việc điều tra vụ kiện chống trợ cấp đối với xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ năm 2013.Có thể nói, năm 2013 Mỹ không còn là điểm đến hấp dẫn đối với nhiều nhà XK tôm Việt Nam nữa. Do vậy, XK tôm Việt Nam sang Mỹ năm 2013 khó có thể tăng trưởng. Từ thị trường Hàn Quốc: Từ 1/1/2013, Hàn Quốc quyết định kiểm tra Ethoxyquin với dư lượng 0,01ppm đối với tôm NK từ Việt Nam khiến XK tôm sang thị trường này 6 tháng đầu năm giảm tới 23,1%. Mới đây, Cơ quan Quản lý chất lượng thủy sản Hàn Quốc thông báo, Bộ An toàn Thực phẩm và Dược phẩm Hàn Quốc sẽ thực hiện kiểm tra tăng cường chỉ tiêu axit Nalidixic trong các lô hàng tôm Việt Nam từ ngày 22/7 - 31/12/2013 với tần suất kiểm tra là 3% và chỉ tiêu kiểm tra dư lượng cho phép ≤0,03 mg/kg. Nhật Bản: - Tỷ giá đồng yên/USD bất lợi cho XK tôm sang Nhật Bản Năm 2013, chính phủ Nhật Bản hạ giá đồng Yên so với đồng USD. Có thời điểm, tỷ giá yên/USD đạt trên 103 yên/USD. Sự mất giá đồng yên khiến giá các mặt hàng thực phẩm thiết yếu tại Nhật tăng mạnh. Thị trường tôm tại nước này chịu ảnh hưởng mạnh. Tiêu thụ tôm giảm. Hoạt động NK và kinh doanh tôm ở Nhật Bản trở nên khó khăn. 2.4.3 Dịch bệnh và thiếu vốn tiếp tục gây bất ổn nguồn cung nguyên liệu Mặc dù EMS được kiểm soát tốt hơn tuy nhiên, người nuôi tôm vẫn đang tiếp tục đối mặt với các bệnh dịch khác. Thực tế công tác kiểm soát dịch bệnh còn rất hạn chế, ngay từ kiểm soát chất lượng tôm giống. Tôm chết loạt do dịch bệnh từ năm 2012 khiến nhiều hộ nuôi tôm kiệt quệ, không còn đủ vốn để thả nuôi tiếp. Việc thế chấp từ ao đầm đã được người nuôi sử dụng nhưng việc định giá đất đã được quy định từ nhiều năm nay nên khung giá đất rất thấp, người dân vay được rất ít. 2.4.4 Chất lượng và uy tín tôm VN bị giảm sút do ảnh hưởng của dịch bệnh Ngày 18/4/2013, Mexico ban hành lệnh cấm NK tôm từ 4 nước bị ảnh hưởng của EMS trong đó có ViệtNam. Ngày 29/7/2013, IntraFish đăng tải thông tin CH Dominica ban hành lệnh cấm NK tôm từ Malaysia, Việt Nam, Thái Lan và Bangladesh do lo ngại dịch bệnh. 2.4.5 Chính sách tỷ giá của một số nước cạnh tranh tạo nhiều lợi thế cho XK nước họ Một số nước, như Ấn Độ đã sử dụng chính sách hạ giá đồng nội tệ trong năm 2013 nhằm tạo thêm lợi thế cho các DN XK tôm. 6 tháng đầu năm 2013, đồng Rupee của Ấn Độ mất giá 9% so với đồng USD theo đó, giá trị XK tôm của Ấn Độ tính theo đồng Rupee tăng thêm 18%. - Tôm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh mạnh hơn với tôm Ấn Độ trên thị trường này do XK tôm Ấn Độ sang Mỹ trong 6 tháng cuối năm sẽ khó có thể tăng mạnh do tác động của thuế chống trợ cấp. - Quy định kiểm tra Ethoxyquin tiếp tục hạn chế NK tôm Việt Nam vào Nhật Bản mặc dù nước này đã nới lỏng kiểm tra Trifluralin đối với tôm VN đã giúp giảm bớt phần nào gánh nặng cho tôm XK VN sang đây. - Chính sách tỷ giá yên/USD cũng là một yếu tố không có lợi cho NK tôm vào Nhật năm 2013 này. 2.4.6 Sự khác biệt trong văn hóa kinh doanh Văn hóa kinh doanh của người Mỹ khác biệt rất nhiều so với người Châu Á nói chung. Một số cơ quan nghiên cứu đã đưa ra 18 điểm đối nghịch giữa văn hóa kinh doanh của người Mỹ và Nhật. Những điểm đó cũng rất tương thích khi so sánh văn hóa kinh doanh giữa người Mỹ và người Việt Nam. Hiểu được văn hóa kinh doanh của người Mỹ là một nhân tố quan trọng để xâm nhập sâu rộng vào thị trường Mỹ. + Thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ Người Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng, hàng hóa dù chất lượng cao hay vừa đều có thể bán được trên thị trường Mỹ, mẫu mã có thể không quá cầu kỳ nhưng cần sự đa dạng, sự đặc thù, hợp thị hiếu và tiện dụng. Với thu nhập cao, mua sắm không thể thiếu trong văn hóa hiện đại của nước này. Qua thời gian người tiêu dùng Mỹ có một niền tin gần như tuyệt đối vào hệ thống các cửa hàng đại lí bán lẻ, nơi họ có sự đảm bảo về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này là một thách thức với doanh nghiệp kinh doanh hàng thủy sản Việt Nam. Bởi hiện nay hệ thống phân phối hàng thủy sản của ta còn quá nghèo nàn, chủ yếu là xuất khẩu FOB, chưa có nhiều nhà phân phối trực tiếp. Trong khi đó các nước khác nh Mexicô, Thái Lan... xâm nhập trước ta đã xây dựng được một hệ thống đa dạng các kênh phân phối. Ở Mỹ không có các lệ ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc nh những nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hóa, tôn giáo của mình và dần dần theo thời gian hòa trộn ảnh hưởng lẫn nhau. Chính điều này tạo ra sự khác biệt so với văn hóa tiêu dùng của người Châu Âu, cũng tôn trọng chất lượng nhưng sự thay đổi luôn là yếu tố chính làm thay đổi thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Với sự thay đổi nh vậy, giá cả trở nên có vai trò quan trọng. Điều này giải thích tại sao hàng hóa tiêu dùng từ một số nước đang phát triển có chất lượng kém hơn vẫn có chỗ đứng trong thị trường Mỹ ( điều này khó xảy ra tại Châu Âu ). Đây vừa là thách thức vừa là cơ hội cho hàng thủy sản Việt Nam vì hàng thủy sản Việt Nam có lợi thế về giá so với các sản phẩm thủy sản cùng loại nhưng các mặt hàng chưa đa dạng, các sản phẩm giá trị gia tăng còn chiếm tỷ lệ thấp trong khi người Mỹ rất chú ý đến sự phong phú của sản phẩm. + Văn hóa trong hợp tác kinh doanh Khi làm việc với các đối tác mới, người Mỹ thường trông đợi đối tác công khai với họ những thông tin chính yếu về doanh nghiệp kể cả báo cáo tài chính công khai và được kiểm toán của doanh nghiệp. Họ cũng trông đợi các doanh nghiệp sử dụng các công cụ đáng tin cậy và hiện đại trong kinh doanh như: hệ thống thanh toán qua các ngân hàng có uy tín, tư vấn luật sư, tiếng Anh thông thạo, chuẩn xác trong ngôn ngữ hợp đồng... mà những lĩnh vực này doanh nghiệp kinh doanh hàng thủy sản Việt Nam vẫn còn yếu và thiếu. Ngoài ra người Mỹ rất sợ các đối tác không hiểu luật. Hiện nay ở Mỹ có hơn một triệu luật sư. Công ty nào của Mỹ cũng có tư vấn luật trước, rà soát trước. Cái gì của Mỹ cũng dựa trên pháp luật, nếu không áp dụng được điều này rất khó làm ăn với Mỹ. Họ lo sợ bên đối tác không hiểu biết pháp luật mà vẫn ký. Điều này thì các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam còn Ýt quan tâm và chưa có kinh nghiệm. Khắc phục sự thiếu hiểu biết những thói quen không phù hợp và khoảng cách về văn hóa kinh doanh giữa hai bên là điều hoàn toàn không đơn giản đối với kinh doanh thủy sản nói riêng và các mặt hàng khác của Việt Nam nói chung khi thâm nhập thị trường Mỹ. Đổi mới trong cách nghĩ cách làm, thay đổi tác phong làm việc, phải có tác phong công nghiệp: giao hàng đúng thời hạn, địa điểm, thích ứng với nhiều phương thức kinh doanh cũng như phương thức thanh toán...không được giữ tác phong nông nghiệp trước đây. Đó là nhược điểm rất lớn trong văn hoá kinh doanh của người Việt Nam cần khắc phục khi tham gia kinh doanh trên thị trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung. 2.4.7 Sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ khác Mỹ là thị trường rất mở nhưng cạnh tranh cũng rất quyết liệt. Có thể thấy, tôm Việt Nam chưa có sản phẩm giá trị gia tăng cao, chưa có những thương hiệu uy tín khẳng định chất lượng cao cho sản phẩm nên khả năng cạnh tranh của nhiều mặt hàng thuỷ sản không vững chắc, sẽ luôn bị thách thức bởi các đối thủ cạnh tranh, các sản phẩm thay thế. Kinh nghiệm của tôm Việt Nam tại Mỹ không phải là cá biệt và các vụ kiện như vậy sẽ xuất hiện khi hàng việt Nam chiếm được thị phần đáng kể đe doạ đến vị trí của các doanh nghiệp Mỹ. Đó là áp lực từ phía các nhà sản xuất nội địa. Ngoài ra tôm Việt Nam còn bị sức cạnh tranh từ các nhà xuất khẩu khác như: Thái Lan, Trung Quốc, Ên Độ...thông qua các biện pháp giảm giá, chào bán, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu...để chiếm lĩnh thị trường. Chẳng hạn hàng tôm Việt Nam thường xuất khẩu theo điều kiện FOB, thanh toán ngay trong khi đối thủ của ta thường xuất khẩu của ta chào giá CFR. Thời hạn trả tiền 30-60 ngày kể từ ngày cấp vận đơn. Hơn nữa các đối thủ cạnh tranh tham gia vào thị trường tôm Mỹ cũng có lợi thế tương tự Việt Nam như: Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia... đều coi thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản noia chung và tôm nói riêng, cho nên chính phủ và doanh nghiệp các nước này đều ưu tiên tập trung dành thị phần trên thị trường Mỹ. Mặt khác họ vào thị trường Mỹ sớm hơn chúng ta, khi mà thị trường đã ổn định về người mua, mối bán, thói quen sở thích thì đây được coi là thách đố đối với tôm Việt Nam. Đánh giá khả năng cạnh tranh về mặt hàng tôm của một số nước so với tôm Việt Nam ta có bảng sau: Tên nước Thái Lan Khả năng cạnh tranh so với hàng tôm Việt Nam khả năng cung cấp lớn sản phẩm đa dạng đã qua chế biến Mêxicô đưa vào Mỹ với nhiều kênh phân phối có hệ thống phân phối trực tiếp thời gian bảo quản ngắn chi phí vận tải thấp Nguồn: báo cáo tổng kết ngành thuỷ sản 2004 Cạnh tranh là điều tất yếu khi tham gia sân chơi thương mại quốc tế. Vấn đề đặt ra cho tôm Việt Nam là làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh đứng vững trên thị trường Mỹ và thị trường thế giới. Đây không chỉ là vấn đề quan tâm của riêng ngành thuỷ sản mà của hầu hết các ngành kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 2.4.8 Khoảng cách về địa lí Thị trường Mỹ ở quá xa Việt Nam, chi phí vận tải và bảo hiểm chuyên chở hàng xuất khẩu lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh hàng tôm từ Việt Nam sang Mỹ tăng lên. Hơn nữa thời gian vận chuyển dài làm cho hàng tôm tươi sống bị giảm về chất lượng và tỷ lệ hao hụt tăng. Đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh của tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ so với hàng thuỷ sản từ các nước Châu Mỹ La Tinh có điều kiện khí hậu tương tự ta như: Canađa, Mêxicô lại rất gần Mỹ. Thâm nhập thị trường Mỹ là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh: hợp tác với các đối tác mua, phân phối hàng của ta đồng thời đấu tranh cạnh tranh với các nhà sản xuất nội địa Mỹ được bảo hộ bởi hệ thống luật pháp và chính sách của chính phủ Mỹ cùng với rất nhiều đối thủ cạnh tranh từ các nước khác. Thách thức cho tôm Việt Nam còn rất lớn. Tuy nhiên những khó khăn thách thức này cũng là tất yếu trong cuộc chơi chung toàn cầu mà các doanh nghiệp, các quốc gia đều phải đối mặt. Bảng tổng kết phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của tôm Việt Nam ST T 1 Điểm mạnh Điểm yếu Cơ hội Thách thức (S) (W) (O) (T ) Tiềm năng nguồn lợi Về nguyên liệu Những ưu đãi Sự phức tạp về tôm dồi dào nguồn đầu vào Việt Nam được trong hệ thống chưa đảm bảo hưởng và tác pháp luật chất lượng giá động tích cực Mỹ thành cao của BTA và của thách thức từ các rào cản thương mại 2 Sản phẩm đáp ứng Về công tác thị Xu hướng tiêu Sự khác tiêu chuẩn của các trường dùng có lợi cho trong văn hoá nước nhập khẩu tôm Việt Nam kinh doanh của trên thị trường người Mỹ 3 biệt Phát triển thị trường phong phú về mặt hàng Cơ cấu mặt Các Mỹ và người Việt Nam quan hệ Sự cạnh tranh hàng: sản phẩm hợp tác quốc tế khốc liệt của các thô còn chiếm tỉ ngày càng được đối thủ khác lệ cao mở rộng mở rộng thị trường 4 Đã có một số công Vấn đề đảm Tác động của Khoảng cách về nghệ cao trong chế bảo vệ sinh an một số sự kiện biến và nuôi trồng 5 toàn thực phẩm Vấn đề áp dụng Những ưu đãi khoa học kỹ từ phía chính thuật 6 địa lí phủ Việt Nam Vấn đề dịch vụ hậu cần Chương 3: Chiến lược xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Hoa Kì theo mô hình SWOT 1. Chiến lược 1: S1O5W1 Phát huy tiềm năng của tôm ( S1), tận dụng những ưu đãi của chính phủ Việt Nam ( O5 ) để khắc phục điểm yếu về nguyên liệu ( W 1 ), hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng nguyên liệu đầu vào đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm thuỷ sản của Mỹ -Các giải pháp tăng cường đầu tư và nâng cao năng lực quản lí việc đánh bắt cá xa bờ và nuôi tôm.Trước tình hình nguồn tài nguyên ven bờ đã cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua thì việc tăng sản lượng khai thác đánh bắt xa bờ là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn những chủng loại tôm mới đưa vào xuất khẩu. -Hỗ trợ doanh nghiệp và các cộng đồng ngư dân phối hợp xây dựng và phát triển các vùng nuôi có tổ chức, tạo ra số lượng lớn, chất lượng cao, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, với các đối tượng chủ lực ( tôm sú, tôm thể chân trắng, tôm càng xanh, cá tra, cá basa, cá rô phi ) theo phương thức đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái và môi trường, giá thành cạnh tranh. -Tăng cường cho ngư dân đầu tư cải tiến công nghệ khai thác và bảo quản sản phẩm trên tàu, hỗ trợ phát triển đội tàu hậu cần dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo an toàn vệ sinh, nâng cao tỷ lệ sản phẩm đưa vào chế biến xuất khẩu. 2. Chiến lược2: S4O3W3,5 Dựa trên cơ sở một số công nghệ cao đã có ( S 4 )tận dụng sự hỗ trợ mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế ( O 3 ) để nâng cao năng lực chế biến khắc phục điểm yếu về cơ cấu mặt hàng ( W3 ), và trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu(W 5) để gia tăng sản phẩm có hàm lượng chế biến cao. Giá tôm Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhìn chung vẫn thấp chỉ bằng 70% mức giá cùng loại của Thái lan và Inđônêxia nhưng vẫn khó cạnh tranh được với hàng xuất khẩu khác. Sở dĩ như vậy là do kỹ thuật chế biến hàng thuỷ sản Việt Nam còn hạn chế. Vấn đề nâng cao năng lực chế biến là một đòi hỏi bức thiết cần sự phối kết hợp từ phía các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của nhà nước. 2.1 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế Việc gia nhập hiệp hội nghề cá các nước Đông Nam Á cũng như gia nhập các tổ chức của khu vực và thế giới APEC, AFTA... các quan hệ hợp tác với các nước về phát triển thuỷ sản như Trung Quốc, Chi Lê... sẽ mở ra cho Việt Nam những cơ hội vô cùng to lớn để tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt chế biến và nuôi tôm cũng như học hỏi kinh nghiệm trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí. Nhà nước cần tạo hành lang pháp lí hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển thuỷ sản. Trong đó ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực sau: -Xây dựng cơ sở hạ tầng cảng tôm, chợ tôm, hệ thống thuỷ lợi cho nuôi tôm, hệ thống phòng trú bão... -Các dự án về chuyển giao công nghệ sản xuất giống, nuôi tôm ( bao gồm cả nuôi nước mặn lợ, nuôi nước ngọt và nuôi biển ). -Các dự án nâng cấp đổi mới công nghệ chế biến, dự án đầu tư sản xuất thức ăn, thuốc phòng chữa bệnh phục vụ nuôi tôm với công nghệ và trang thiết bị tiên tiến. -Các dự án hỗ trợ kỹ thuật về đào tạo đội ngũ cán bộ để đổi mới quản lí cho các cơ quan hành chính, các doanh nghiệp, cán bộ nghiên cứu... cung cấp nguồn nhân lực để nâng cao năng lực chế biến. Ngoài ra cần thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển t ôm, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực này. 2.2 Đẩy mạnh vai trò của công tác khoa học công nghệ -Nâng cấp các cơ sở nghiên cứu đào tạo với trang thiết bị hiện đại, đủ năng lực nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về công nghệ, về quản lí nguồn lợi, quản lí môi trường và an toàn vệ sinh. -Đẩy nhanh việc nghiên cứu và hướng dẫn áp dụng công nghệ tiên tiến nhất là công nghệ, các tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực khai thác hải sản, nuôi trồng, chế biến, cơ khí, dịch vụ cho thuỷ sản nhằm nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. -Lựa chọn và du nhập các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài để rút ngắn khoảng cách về công nghệ sản xuất tôm, công nghệ nuôi và bảo vệ tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. Đồng thời nhanh chóng đưa các công nghệ mới này áp dụng vào thực tiễn sản xuất. 2.3 Hỗ trợ của chính phủ và cơ quan chức năng để nâng cao năng lực chế biến Hỗ trợ về vốn của chính phủ là một nguồn rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thủy sản: doanh nghiệp khai thác, nuôi trồng và chế biến. Cụ thể chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ưu đãi tín dụng với các doanh nghiệp thực hiện đổi mới quy trình công nghệ. Hoàn thiện hệ thống sản xuất giai đoạn 2001-2005 chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước trong đó nhiệm vụ của khoa học công nghệ trong lĩnh vực thủy sản chiếm tổng vốn đầu tư 27,82 tỷ đồng. Các biện pháp trên nhằm xây dựng ngành thủy sản Việt Nam đặc biệt là tôm trở thành ngành có công nghệ cao và có nhiều sản phẩm giá trị gia tăng lớn, để có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường Mỹ cũng như các thị trường khác. 3. Chiến lược 3: S2W4 Dựa trên những điểm mạnh trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm đã có ( S 2) tiếp tục phát huy và xây dựng các quy phạm mới khắc phục điểm yếu về vệ sinh an toàn thực phẩm( W4 ) 3.1.Giải pháp phòng ngừa dư lượng kháng sinh Mối lo và nguy cơ lớn nhất hiện nay của doanh nghiệp là chính sách “dư lượng bằng 0” của EU, Mỹ và các nước khác, việc hạ thấp ngưỡng phát hiện xuống mức 0,3 ppb hoặc thấp hơn nữa, trong khi chóng ta chưa có đủ năng lực kỹ thuật để kiểm tra phát hiện dư lượng kháng sinh ( nhất là các chất dẫn xuất của nitrofurans ) với hàm lượng thấp như vậy. Chỉ có thể giải quyết vấn đề này bằng một chính sách đồng bộ được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực liên quan trong cả nước. Đề nghị Chính phủ, Bộ thuỷ sản và các bộ ngành khác coi vấn đề dư lượng kháng sinh là vấn đề sống còn của xuất khẩu tôm để khẩn trương áp dụng các biện pháp đồng bộ. Đề nghị Bộ chỉ đạo cục an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản có biện pháp tích cực để cải tiến chất lượng của chương trình giám sát dư lượng các chất độc hại trong vùng nuôi và trong nguyên liệu tôm phục vụ hữu hiệu cho việc phát hiện sớm dư lượng kháng sinh trong nguyên liệu tôm. 3.2.Chống đưa tạp chất vào nguyên liệu tôm. Tiến hành việc kiểm tra chéo giữa các doanh nghiệp tại khu vực thu mua nguyên liệu để cùng nhau loại bỏ sự nghi ngờ về việc các xí nghiệp thu mua nguyên liệu tôm đã bị bơm chích tạp chất, tiến đến việc thực hiện nghiêm túc và tự nguyện các cam kết không mua tôm có chứa tạp chất. Tìm các giải pháp ngăn chặn tình trạng tôm bơm nước. Xem xét việc tiến hành các nghiên cứu về tỷ trọng từng lô tôm để tìm giải pháp đơn giản kiểm tra việc tôm bơm chích và ngâm nước. 3.3.Thực hiện các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất Bộ thuỷ sản đã ban hành nhiều văn bản bắt buộc áp dụng các tiêu chuẩn của ngành thuỷ sản 28TCN 130-1998 và 28TCN 129-1998 về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất tôm. Đề nghị Bộ thuỷ sản tăng cường kiểm tra các cơ sở chưa được yêu cầu và có chế tài quy định các doanh nghiệp thực hiện, đồng thời tiến hành phân loại doanh nghiệp về điều kiện bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm tương ứng với chủng loại và nhóm sản phẩm. 4.Chiến lược 4: S2O2 Dựa trên ưu thế về một số sản phẩm và thị phần đã đạt được trên thị trường Mỹ ( S2 ) tiếp tục đa đạng hoá sản phẩm khai thác cơ hội khi xu hướng tiêu dùng tôm của người dân Mỹ ngày càng tăng ( O2 ) để duy trì và nâng cao thị phần trên thị trường Mỹ 4.1.Đa dạng hoá mặt hàng Bên cạnh tăng cường sản xuất các mặt hàng giá trị gia tăng, các doanh nghiệp cần đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Tận dụng nguồn tiềm năng tôm phong phú, các quan hệ hợp tác quốc tế nâng cao công nghệ chế biến tạo ra nhiều mặt hàng hơn nữa, đặc biệt là những mặt hàng tiện dụng, chất lượng cao như đồ hộp, đồ ăn liền... song song với việc tiếp tục phát triển tốt các mặt hàng chủ lực cần tạo ra nhiều mặt hàng mới đáp ứng các yêu cầu tiêu dùng từ bình dân đến xa xỉ. Với số dân trên 280 triệu người chiếm 4.6% dân số thế giới, nước Mỹ đã tạo ra 20,8% GDP toàn thế giới, thì Mỹ quả thực là một thị trường khổng lồ có nhu cầu đa dạng từ trung bình đến cao. Việc đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng là một đòi hỏi tất yếu. Các nhà kinh doanh tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ cần quan tâm đến xu hướng tiêu dùng thuỷ sản của người Mỹ và nhu cầu của họ. Nghiên cứu các giống mới mà thị trường Mỹ có nhu cầu nếu phù hợp với điều kiện nuôi trồng khí hậu ở Việt Nam thì có thể nhập khẩu giống, công nghệ nuôi trồng chế biến. Nhà nước cần hỗ trợ cho người nuôi trồng thực hiện những phương án này đồng thời phối kết hợp giữa các doanh nghiệp kinh doanh nắm bắt nhu cầu thị trường Mỹ với các nhà sản xuất tôm nước ta để tạo ra những sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. 4.2.Xây dựng thương hiệu cho tôm Việt Nam Khi các mặt hàng tôm Việt Nam như tôm, cá tra, cá basa.. trở thành sản phẩm chủ lực và có thị phần đáng kể trên thị trường Mỹ thì cũng có không ít rủi ro đi kèm. Để hạn chế rủi ro, mét trong những nhân tố quan trọng là phải tăng sức cạnh tranh của mặt hàng trên thị trường. Mà yếu tố góp phần khẳng định chất lượng sản phẩm là thương hiệu. Do vậy chúng ta cần phải xây dựng thương hiệu uy tín cho các mặt hàng tôm Việt Nam. Qua nghiên cứu cho thấy, để xây dựng thương hiệu cho một mặt hàng t ôm Việt Nam chóng ta cần: -Thực hiện đồng bộ việc thiết lập hệ thống cảnh báo chất lượng gắn với thương hiệu mặt hàng tôm đó, tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh của mặt hàng này. -Xây dựng quảng bá thương hiệu và dấu hiệu chất lượng. -Mọi chủ thể sản xuất mặt hàng đó phải tuân thủ thực hiện các tiêu chuẩn Nhà nước đã ban hành đồng thời phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn cao hơn của sản phẩm bán lẻ được áp dụng tại các thị trường có thu nhập cao. Hai hệ thống tiêu chuẩn này cùng với thương hiệu sản phẩm là cơ sở để xây dựng ngành sản xuất mặt hàng thuỷ sản trở thành ngành sản xuất hàng hoá lớn đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững. 5. Chiến lược5: S3O1,5W2T2 Dựa trên những kinh nghiệm đã đạt được về phát triển thị trường (S 3), cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước (O5), tận dụng cơ hội từ quan hệ mở rộng hợp tác Việt_Mỹ(O1), thông qua những cầu nối hữu hiệu và các hoạt động xúc tiến thương mại, khắc phục điểm yếu về công tác thị trường(W 2), vượt qua thách thức về sự khác biệt vă hoá kinh doanh ( T2 ) để tiếp cận và thâm nhập thị trường Mỹ. Bộ thương mại và thương vụ Việt Nam tại Mỹ cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường giúp các doanh nghiệp định hướng sản xuất, kinh doanh và xây dựng chiến lược xuất khẩu tôm cho riêng mình. Các doanh nghiệp sẽ biết được mặt hàng nào nên sản xuất và với chất lượng ra sao, mức giá bán là bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh trên thị trường cũng như phương thức cạnh tranh của các đối thủ để xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả. -Cho tuyên truyền bằng nhiều kênh thông tin đại chúng, bằng nhiều hình thức về thị trường thuỷ sản Mỹ, về pháp luật cũng như chính sách nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ, tiêu chuẩn chất lượng và thị hiếu người tiêu dùng Mỹ. -Thành lập quĩ hỗ trợ xúc tiến việc làm, tìm hiểu thị trường Mỹ và cử các doanh nghiệp tôm Việt Nam có khả năng thâm nhập thị trường Mỹ đi khảo sát bằng nguồn hỗ trợ của Nhà nước. -Khuyến khích các doanh nghiệp tôm tự bỏ kinh phí ra để tiếp cận, khảo sát thị trường Mỹ. 6. Một số điểm doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý khi thâm nhập thị trường Mỹ, Nhật Bản. -Tìm hiểu và nắm vững hệ thống pháp luật Mỹ, Nhật Bản. -Xác định khả năng của đối tác. Đây là bước đầu tiên mà luật sư của một công ty Mỹ, Nhật Bản làm để tránh cho thân chủ khỏi mất thì giờ và công sức đàm phán. Tuy nhiên các doanh nghiệp tôm Việt Nam chưa quen làm việc này, dẫn đến trường hợp nhiều doanh nghiệp Việt Nam ký được hợp đồng nhưng không thực hiện được do đối tác không có khả năng thanh toán. Để kiểm tra khả năng thanh toán của đối tác, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ kiểm tra tài chính của các công ty thông tin tài chính thương mại chuyên nghiệp hoặc của các ngân hàng Mỹ, Nhật Bản. -Tìm hiểu tập quán kinh doanh của thương nhân Mỹ, Nhật Bản. + Thương nhân Mỹ, Nhật Bản có bí quyết soạn thảo hợp đồng với các điều khoản ràng buộc chặt chẽ về chất lượng, số lượng, thời gian giao hàng và nhiều chi tiết có tính chất thủ thuật pháp lí để có thể buộc các đối tác nước ngoài ra toà mà tại đó họ dễ dàng thắng kiện. Vì vậy để tránh những khó khăn phát sinh doanh nghiệp kinh doanh tôm Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ những điều khoản do thương nhân Mỹ, Nhật Bản lập ra. Trường hợp thấy bất ổn phải thương lượng điều chỉnh cho đến khi đạt được như ý muốn. +Trong ứng xử giao tiếp người Mỹ gần như tin tưởng tuyệt đối vào luật sư riêng của mình. Trong kinh doanh người Mỹ thường yêu cầu luật sư riêng của mình tham gia để tránh các sơ hở có thể xảy ra trong quá trình kí kết hợp đồng. Người Mỹ, Nhật Bản rất coi trọng thời gian, không thích nói quanh co mà muốn đi thẳng vào vấn đề. Kinh nghiệm cho thấy để thành công trong thương lượng kinh doanh với người Mỹ là loại bỏ những lời lẽ rườm rà, đi ngay vào mục đích.Trong giao tiếp, người Mỹ, Nhật Bản đánh giá cao sự thân mật và bình đẳng, sự bền bỉ tập trung kiên định của đối tác. +Chuẩn bị tài liệu chu đáo Khi chào hàng cho khách hàng là người Mỹ, Nhật Bản cần sự chuẩn bị chu đáo về tài liệu, giới thiệu sản phẩm bằng tiếng anh cùng với các điều kiện mua bán rõ ràng, điều chỉnh các yếu tố cho phù hợp với tập quán buôn bán ở Mỹ, Nhật Bản. -Ngoài hiểu được tập quán kinh doanh của người Mỹ, Nhật Bản các doanh nghiệp cần hiểu trách nhiệm của mình về chất lượng sản phẩm trên thị trường. Người tiêu dùng Mỹ, Nhật rất hay kiện cáo, trong khi đó nước Mỹ, Nhật bảo vệ chặt chẽ quyền lợi người tiêu dùng. Theo luật này nhà sản xuất và người bán phải chiụ trách nhiệm đối với người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm bán ra trên thị trường như đạo luật về chống chất độc, vệ sinh an toàn thực phẩm...những luật này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh thuỷ sản. Để hạn chế rủi ro các doanh nghiệp thuỷ sản nên mua bảo hiểm cho hàng hoá tại các công ty bảo hiểm uy tín. Theo kinh nghiệm cho thấy, nếu doanh nghiệp Việt Nam nhận được giấy triệu tập từ toà án Mỹ, Nhật yêu cầu trình diện thì không nên trả lời vội mà nhờ luật sư có kinh nghiệm tư vấn về pháp lý. Nhưng nếu khi xảy ra vụ kiện mà doanh nghiệp Việt Nam cố tình “không để ý” hoặc chỉ gửi thư từ chối không ra hầu toà thì toà án Mỹ, Nhật Bản vẫn có quyền ra một “bản án xử khuyết tịch” nghĩa là doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể bị tịch biên tài sản cho dù doanh nghiệp không ra hầu toà. Nói tóm lại, để nhanh chóng xâm nhập vào thị trường Mỹ, Nhật Bản các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về hệ thống pháp luật Mỹ, Nhật Bản các chính sách thương mại, hệ thống quản lý nhập khẩu thuỷ sản, cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn của thương nhân Mỹ, Nhật Bản. PHẦN 3.KẾT LUẬN Tôm Việt Nam hiện đang được các cấp lãnh đạo nước ta quan tâm đầu tư phát triển, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội và thách thức không chỉ cho riêng ngành thuỷ sản mà cả các ngành kinh tế khác, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được, nghiên cứu tận dụng các cơ hội để vượt qua thách thức, khắc phục yếu điểm là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sáchnhằm tìm ra một hướng đi mới cho ngành tôm. Điều đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực, phối kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng của Nhà nước và các doanh nghiệp để các mặt hàng tôm Việt Nam tiếp tục “vùng vẫy” trên thị trường thuỷ sản thế giới. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng tôm vào thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và thị trường Mỹ, Nhật Bản nói riêng là điều không đơn giản. Những khó khăn cho xuất khẩu thuỷ sản còn rất nhiều. Nhưng với những nỗ lực của Bộ thuỷ sản, các doanh nghiệp và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước chúng ta có thể tin tưởng hàng thuỷ sản Việt Nam sẽ thu được thành công mới, để xuất khẩu thuỷ sản thực sự là thế mạnh của nền kinh tế quốc gia, đem lại một lượng ngoại tệ lớn để phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với việc sử dụng mô hình SWOT để phân tích xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng tôm Việt Nam vào thị trường Mỹ, Nhật Bản Nhóm hi vọng đã đem đến những thông tin bổ ích cho cô giáo và các bạn. Một lần nữa rất mong nhận được ý kiến đóng góp để xây dựng phát triển đề tài hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn và thực sự có ý nghĩa thực tiễn. Xin chân thành cảm ơn ! This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Chủ đề

Hóa học 11 Trắc nghiệm Sinh 12 Bài tiểu luận mẫu Mẫu sơ yếu lý lịch Đồ án tốt nghiệp Đơn xin việc Lý thuyết Dow Thực hành Excel Tài chính hành vi Giải phẫu sinh lý Đề thi mẫu TOEIC Atlat Địa lí Việt Nam adblock Bạn đang sử dụng trình chặn quảng cáo?

Nếu không có thu nhập từ quảng cáo, chúng tôi không thể tiếp tục tài trợ cho việc tạo nội dung cho bạn.

Tôi hiểu và đã tắt chặn quảng cáo cho trang web này

Từ khóa » Swot Xuất Khẩu