Đền Xâm Thị - Đền Thờ Mẫu Thoải Và Mẫu Địa - Trầm Tâm Linh

Đền Xâm Thị nằm ở thôn Xâm Thị, xã Hồng Vân, huyện Thường Tín, Hà Nội. Đền Xâm Thị thờ Mẫu Thoải và Mẫu Địa.

Lịch sử và kiến trúc Đền Xâm Thị

Theo Bà Thủ nhang Nguyễn Thị Tíu cho biết: Đền Xâm Thị đã có từ lâu đời, theo tương truyền có từ thời Vua Trần Nhân Tông.

Ngôi đền trước đây chỉ là một ngôi đền nhỏ có một gian tường gạch lợp lá. Đền chỉ có một ban thờ Mẫu Thoải. Hiện pho tượng Mẫu Thoải đặt tại cung cấm ngày nay chính là pho tượng cổ này. Ngoài ra, đền chỉ có một ban thờ 5 ngai của Ngũ Vị Tôn Quan. Như vậy, trước đây ngôi đền chỉ thờ riêng có Mẫu Thoải. Sau này, do một cơ duyên mà đền đã thờ thêm Mẫu Địa. Cung thờ Mẫu Địa mới được xây dựng cách đây khoảng gần ba chục năm. Ban đầu Mẫu Địa được xây dựng chỉ là một am nhỏ, gần đây được trùng tu thành một gian thờ lớn.

Bà Thủ nhang Nguyễn Thị Tíu

Đền đã có nhiều lần trung tu, tu bổ và đợt trùng tu lớn nhất vào năm 2013 bằng kinh phí của các con nhang, đệ tử, khách thập phương cung tiến. So với trước đây, ngôi đền đã khang trang, tố hảo lên rất nhiều. Đền ngày nay đã được phối thờ thêm các vị thánh khác trong Tứ Phủ.

Gian chính thờ Tứ Phủ và Mẫu Thoải

Không gian kiến trúc tâm linh Đền Xâm Thị

Đền Xâm Thị nằm sát bờ sông Hồng và nằm sát chân đê. Từ trên đường đê chúng ta có thể nhìn thấy Tam Quan và mặt lưng của ngôi đền. Phía trước ngôi đền là dòng sông hồng nặng trĩu phù sa.

Nằm sát Tam Quan, phía trong đền là một cây đa có hàng trăm tuổi rủ bóng mát cho ngôi đền tạo nên một khung cảnh tâm linh huyền bí. Qua cửa Tam Quan chúng ta sẽ nhìn thấy dòng sông Hồng thơ mộng, hiền hòa. Kế bên tay phải là Ban Cô Chín, Ban Chúa Thác Bờ và gian đại bái thờ Mẫu Địa, rồi đến gian đền chính thờ Mẫu Thoải. Phía trước đền chính là Lầu Đại Bái nằm dưới gốc cây si cổ thụ xanh rì. Dưới tán si là Ban thờ Cô Bơ, Cậu Bơ. Tất cả tạo nên một không gian thơ mộng, sơn thủy hữu tình.

Đền Xâm Thị có hai nhà Đại Bái. Nhà Đại Bái lớn thờ Mẫu Thoải, nhà đại bái nhỏ nằm ở bên cạnh là nơi thờ Mẫu Địa.

Lầu Cô Bơ, Cô Bé

Nhà Đại Bái thờ Mẫu Thoải gồm tiền cung, trung cung và hậu cung. Chính giữa tiền cung là Ban Công Đồng, bên phải là Ban Trần Triều, bên trái là Cung Sơn Trang. Trung cung gồm có: Chính giữa thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Tứ Phủ Chầu Bà, bên phải là Ban Chầu Đệ Tam, bên trái là Ban Chầu Đệ Nhị. Hậu cung thờ tượng Mẫu Thoải. Đây chính là ngôi tượng cổ từ xa xưa. Nghe nói, có nhiều lần nhà đền xin tô sửa lại nhưng đều không được.

Ban Công Đồng

Trong không gian khuôn viên đền có các ban thờ: Lầu Chúa Thác Bờ, Lầu Cô Chín, Lầu Cô Bơ Thoải và Cô Bé, Lầu Cậu Bơ Thoải và Cậu Bé.

Lầu Cô Chín

Thần tích về Mẫu Thoải tại Đền Xâm Thị

Căn cứ theo tài liệu của nhà đền đã được các cơ quan văn hóa nghiên cứu và ghi chép thì tóm tắt thần tích về Đền Xâm Thị và cũng chính là thần tích về Mẫu Thoải ở Đền Dầm cách đó hơn 2 km.

Vào thời kỳ sơ khai mở nước Văn Lang ta, trên thiên đình có nàng tiên nữ thứ 3 đến chầu thượng đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc, trăm quan nghị tội, giáng xuống thủy cung làm con gái Thủy Quốc Động Đình Long Vương, sau gả cho Đô Đốc Côn Bằng đại tướng quân Kinh Xuyên. Vợ lẽ của Kinh Xuyên là Thảo Mai, thấy nàng tài sắc bèn đem lòng ghen ghét, giả làm một bức thư, tố cáo Kinh Xuyên vu nàng tư thông phản bội chồng. Kinh Xuyên giận dữ đầy nàng xuống trần thế, 10 năm sống ở núi Ngọc Hồ Kim Quy, làm bạn với chim muông cầm thú, sinh sống bằng hoa trái qua ngày. Một hôm thấy gió lướt mặt hồ, mây đùn lưng núi, tưởng nhớ quê nhà, thương cha nhớ mẹ, lòng buồn bã rối bời, nhân đó nàng ngâm một bài thơ rằng:

“Từ biệt Kinh Xuyên trải mấy thu

Trời xanh mây lượn nhớ quê nhà

Tiêu dao trần thế bao ngày tháng

Cố hương thủy quốc biết nao về.”

Lầu Cậu dưới gốc si già hàng trăm tuổi

Tiếng ngâm chưa dứt mà dòng lệ chứa chan, tựa vào gốc cây, tinh thần mê man lúc say lúc tỉnh.

Lại nói thời ấy có 1 người ở xã Ngọc Lạp, huyện Thanh Miện, phủ Hồng Châu, đạo Hải Dương, họ Liễu, tên Nghị, là danh sĩ thời bấy giờ. Một hôm Nghị cùng 1 vài tên ra đồng chèo thuyền đến Ngọc hồ ngắm cảnh, để hưởng thú vị ngư ông. Thuyền đến hồ Kim Quy, bỗng nghe tiếng ngâm thơ văng vẳng, lời lẽ thảm thê, trong lòng lấy làm lạ, bèn nói với bọn ra đồng đi theo rằng: “Không biết thần tiên hay ma quỷ mà lại có lời lẽ thê thảm đến như vậy.” Ông bèn cho người dừng thuyền bên bờ quan sát thấy người con gái tuổi độ 18, mi xanh như liễu rủ, má thắm tựa hoa đào, dẫu tiên nữ ở cung trăng, hay phi tần nơi thượng giới, cũng không thể hơn được. Ông cười và bảo rằng:

– Cốt cách trần thế mà dáng vẻ thần tiên, may mắn nay gặp gỡ, nếu không phải là trăng rằm thì cũng là băng tuyết quy hòa nhập lại.

Nhân đó ông mới hỏi về nguồn gốc nguyên do, người con gái ứa lệ thưa rằng:”

– Thiếp vốn là con gái Động Đìng Quân là vợ của Kinh Xuyên, chẳng ngờ thiên xứ dáng họa vô cớ, nay may gặp ngưởi tốt ở đây, dám xin người có kế sách gì cứu giải oan khiên, thiếp nguyện thề có sông núi không quên ơn nghĩa.

Liễu Nghị lại hỏi:

–  Dương gian thủy quốc cách biệt lấy gì mà nghe thấu được?

Nàng nói :

– Thiếp có một cây kim thoa trao cho ngài, cảm phiền đi đến bờ biển Đông Hải, hễ thấy cây Ngô Đồng thì cầm cây Trâm gõ vào ba tiếng tất thảy thủy cung sẽ đều nghe biết.

Ban thờ Mẫu Địa

Nói xong nàng đứa một phong thư nói rõ sự việc rồi đưa thứ và cây Trâm cho Liễu Nghị. Sau khi từ biệt người đẹp Liễu Nghị gắng sức lên đường, qua bẩy ngày đêm đến cửa biển Đông Hải (nay là cửa Diêm Hộ huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình) bỗng thấy cây ngô đồng cổ thụ, ông làm đúng lời người con gái dặn, tay cầm kim thoa gõ vào gốc cây ngô đồng, bỗng thấy một con rắn trắng nổi lên khỏi mặt nước, Liễu Nghị đem sự việc trên nói với rắn, rắn trắng rẽ nước đưa ông về thủy phủ. Đến nơi ông vào bái yết Long Vương trình rõ sự việc và đem thư cùng trâm vàng dâng lên. Long Vương xem xong thư bèn truyền rắn trắng đưa Liễu Nghị về lầu Nam dọn tiệc khoản đãi. Ngay hôm đó truyền sai con trai là Xích Lân và quân thủy tiến thắng đến xứ Ngọc Hồ Kim Quy đón công chú về thủy quốc.

Ngày mùng 9 tháng Giêng vua Long Vương gả công chúa cho Liễu Nghị và phong làm Phò Mã Quốc Tể quận công đồng thời cho cùng ở thủy phủ với công chúa. Sai lục bộ thủy tề đầy Kinh Xuyên và Thảo Mai về Ngọc Hồ Kim Quy.

Lại nói từ khi công chúa về thủy quốc tất cả dân hai bên bờ sông Cái từ thượng nguồn nơi Ngọc Hồ Kim Quy đến hạ lưu Ba Lạt – Thái Bình đều mắc bệnh dịch. Dân chúng cùng quan lại bèn lập đàn cầu nguyện và dâng biểu lên Thượng đế. Tại vùng đền Xâm Thị ngày nay, vào nửa đêm dân làng đều nghe thấy tiếng chó sủa liên hồi và mơ thấy một người con gái mình mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly ngự trên rồng vàng bay lên từ mặt nước nói rằng :

– Ta là con gái động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Công Chúa, Thượng đế sắc phong cho ta giúp nước cứu dân cõi Nam Giao, nay dân chúng gặp tai họa ta phụng lênh thượng đế đến cứu giúp.

Sau được bình yên lên dựng miếu thờ viết thần vị thì ắt được nhân khang vật thịnh.

Trời sáng các vị bô lão cùng dân làng ai cũng nói có cùng giấc mơ như vậy, và bệnh tật dần tiêu tan hết. Dần làng bèn cùng nhau xây dựng ngôi miếu thờ hàng năm Quốc cầu, dân đảo đều linh ứng rõ rệt.

Thánh tích Đền Xâm Thị

Thánh tích đền Xâm Thị về sự hiển linh của mẫu Thoải giúp vua Trần Nhân Tông cũng tương tự như đền Dầm:

Vào thời Trần Nhân Tông giặc Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước ta, đức Vua mới ban búa Việt Cờ Mao cho Hưng Đạo Đại Vương tiết chết thủy lục chư binh chống giặc. Một lần, Hưng Đạo Đại Vương kéo quân qua Xâm Thị trời đà xẩm tối bèn cho quân sỹ thuyền bè neo đậu lại bên sông nghỉ lại.

Lầu Chúa Thác và Lầu Cô Chín

Đương đêm bỗng thấy sóng nổi cát bay mây trời vần vũ, một chốc bống thấy mặt nước long lanh ánh bạc một người tiên nữ mặc áo trắng, đai lưu ly cưỡi rồng vàng bay lên mặt nước. Vương cả kinh nhưng tiên nữ bèn nói:

– Ta phụng mệnh thượng đế hộ quốc an dân, nay Quốc Công Tiết Chế hành quân qua đây xin âm phù giết giặc.

Quả nhiên ít lâu sau thuyền giặc kéo qua Xâm Dương thì bỗng dưng nổi sóng to gió lớn thuyền bè quân lương đều chìm cả, giặc chết vô số.

Các trận chiến trên Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương Đô, Đông Bộ Đầu….Đều có Thánh Mẫu  linh phù làm sóng to gió lớn chìm tàu bè giặc chết đuối nhiều giúp quân ta thừa thắng.

Vận nước thái bình, triều đình luận tội phong công. Quốc Công bèn làm biểu tâu lên rõ sự việc linh phù ở Xâm Thị. Triều đình luận công Thánh Mẫu ban thưởng cho dân Xâm Thị tiền bạc xây dựng ngôi đền to lớn và ruộng đất để lo việc cúng tế hàng năm đồng thời sắc phong cho Thánh Mẫu.

Vị trí Đền Xâm Thị trong việc thờ Mẫu Thoải

Tại vùng Xâm Dương và Xâm Thị, hai địa danh chỉ cách nhau 2 km có chung một thần tích về Mẫu Thoải và thánh tích của Mẫu Thoải giúp vua Trần đánh giặc. Ngôi đền cũng được các triều đình ban nhiều mỹ tự và sắc phong. Sắc phong sớm nhất là từ 1633 và muộn nhất là 1924.

Như vậy, có thể coi Đền Xâm Dương và Xâm Thị là hai ngôi đền gắn liền với thánh tích Mẫu Thoải tại vùng Thường Tín. Chính thế, khó có thể nói đền nào là thờ chính và đền nào là thờ vọng ở nơi này.

Mẫu Thoải được phát tích tại vùng Tuyên Quang còn vùng Xâm Dương, Xâm Thị là nơi Mẫu Thoải hiển linh giúp vua Trần đánh giặc. Vì vậy, có thể coi Đền Xâm Thị là một trong hai đền chính thờ Mẫu Thoải tại vùng đất linh thiêng này. Khắp cả nước cùng còn một số đền thờ vọng khác. Nổi bật là đền Mẫu Thoải Hàn Sơn gắn liền với tích Mẫu Thoải hiển linh giúp vua Lê Lợi đánh giặc. Tại Hà Nội cũng có một ngôi đền nổi tiếng thờ Mẫu Thoải đó là Đền Ghềnh. Tuy nhiên, Mẫu Thoải tại đền Ghềnh được coi là sự ẩn mình của Công Chúa Lê Ngọc Hân – vợ vua Chiêm Thành. Tại Lạng Sơn có ngôi đền thờ Mẫu Thoải ngay trong thành phố… Ngoài ra, Mẫu Thoải luôn được thờ trong Cung Tam Tòa Thánh Mẫu tại các đền phủ thờ Tứ Phủ.

  • Share
  • Click to share on Facebook (Opens in new window)
  • Click to share on Twitter (Opens in new window)

Từ khóa » Tiệc Mẫu đền Dầm