ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT ...

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH_102143120520192 likes5,488 viewsPPinkHandmadeFollow

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH_10214312052019Read less

Read more1 of 41Download nowVIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ TÂM ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội- 2018  VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ TÂM ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG Hà Nội- 2018  LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quý Trọng. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những số liệu trong bài phục vụ cho việc phân tích, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thị Tâm  MỤC LỤC MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH ........................................................................................7 1.1. Khái quát về du lịch và hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch..............................7 1.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch và lý do việc quy định điều kiện kinh doanh với hoạt động du lịch.........................................................................................................17 1.3. Khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch24 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH.................................28 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Du lịch Việt Nam..............................28 2.2. Các quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch ..............................................30 2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại tỉnh Ninh Bình .....................................................................................................................................44 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA TỈNH NINH BÌNH ...................................................................................58 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch............................................................................................................................58 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam.............................................................................................................................61 3.3. Các giải pháp nâng cao hiểu quả thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch tại Việt Nam................................................................................................................65 KẾT LUẬN .......................................................................................................................69 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................70  DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương BQL Ban quản lý GDP Tổng sản phẩm quốc nội GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn ISO Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Organization for Standardization) PATA Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương TCDL Tổng cục du lịch TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TNHH Trách nhiệm hữu hạn USD Đô la Mỹ UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNWTO Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization) WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) XHCN Xã hội chủ nghĩa  1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nền kinh tế Thế giới đang chuyển sang giai đoạn“hậu công nghiệp”, phát triển theo hướng chuyển dịch cơ cấu sang ngành dịch vụ. Trong đó du lịch là một trong những ngành chiếm tỉ trọng lớn trong ngành dịch vụ. Ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước trên Thế giới nhưng vai trò của nó thì không thể phủ nhận. Du lịch là một ngành “công nghiệp không khói”, mang lại thu nhập GDP lớn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra toàn Thế giới. Sau hơn 20 năm, ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi diện mạo từng bước khẳng định tầm vóc trong nền kinh tế quốc dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy giao lưu văn hóa làm cho nhân dân thế giới hiểu biết thêm về đất nước con người Việt Nam, tranh thủ được sự thiện cảm và sự đồng tình ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đóng góp tích cực trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Kinh doanh dịch vụ du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp, có hiệu quả về cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Có thể nói rằng không có ngành kinh tế nào đi tắt đón đầu, đuổi kịp trình độ phát triểncủa các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về kinh tế nhanh bằng ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang có sự quan tâm đặc biệt đếnngành“công nghiệp không khói” này. Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ kinh doanh dịch vụ và quản lý nhà nước về du lịch, tạo một môi trường pháp lý kinh doanh lành mạnh, đa dạng, mở cửa cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch. Luật Du lịch năm 2005 đã hết hiệu lực và thay thế bằng Luật Du Lịch 2017 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2017 đã có những thay đổi đáng kể, theo kịp được với những thay đổi của thực tiễn trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Trong các thành phố du lịch thì Ninh Bình được xem là một điểm đến lý tưởng với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi, có các tiềm năng và thế mạnh để phát triển  2 các loại hình dịch vụ du lịch, đóng góp không nhỏ trong việc tăng nguồn thu ngân sách. Tài nguyên du lịch của Ninh Bình tương đối phong phú, đa dạng bao gồm hệ thống núi đá vôi, rừng, hồ, các di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng. Đây chính là điều kiện rất tốt để phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch, có sức hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Phát huy lợi thế đó, trong những năm qua, Ninh Bình đã tập trung đầu tư phát triển du lịch đồng bộ trên cả ba nội dung: xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, xây dựng hệ thống cơ sở và đội ngũ nhân viên ngành du lịch. Ngày 13/07/2009, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU về phát triển du lịch Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Với sự quan tâm chỉ đạo sát sao và được đầu tư thích đáng, các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch đã phát triển một cách nhanh chóng. Tuy nhiên trong giai đoạn chuyển giao giữa luật cũ và luật mới vẫn bộc lộ những hạn chế gây ra khó khăn không nhỏ đến sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng. Thực tế trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về kinh doanh dịch vụ du lịch đặc biệt là trong kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú tại tỉnh Ninh Bình cần đặt ra các vấn đề cần làm rõ những cơ sở lý luận và luận cứ thực tiễn để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Với những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liênquan đến đề tài Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn về kinh doanh dịch vụ du lịch mà trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Minh Đức (2007) “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du lịch tỉnh Sơn La trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thị Mai Phước năm 2007: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010) “Xử lý vi phạm hành chính trong lịch vực du lịch’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học Phạm Văn Minh (2015) “Hoạt động kinh doanh lữ hành  3 theo luậtdu lịch 2005 từ thực tiễn thànhphố Hà Nội”; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị Hiền năm 2012 “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Vietsovpetro”(2012)... Ngoài ra, qua nghiên cứu các bài viết, tạp chí liênquan tác giả còn tiếp cận được một số bài báo đăng trên các tạp chí như Hoàng Thị Lan Hương (2010), "Một số bất cập trong hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch", đăng trên Tạp chí Du lịch Việt Nam số 11; hay một số bài viết trên các tờ báo điện tử, chẳng hạn như bài viết "Những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh lưu trú du lịch khi luật du lịch thực thi” của tác giả Đỗ Thị Hồng Xoan...Các công trình nghiên cứu, các bài viết tạp chí trên phần lớn mới chỉ tập trung vào phân tích sự quản lý nhà nước trong kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật trong kinh doanh du lịch nói chung, hoặc so sánh đánh giá sự thay đổi giữa pháp lệnh Du lịch 1999 và Luật Du lịch 2005, các cam kết khi gia nhập WTO đối với dịch vụ kinh doanh du lịch. Dưới góc độ luật học, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu này chưa đi sâu phân tích pháp luật về điều kiện kinh doanh điều chỉnh trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch một cách cụ thể đặc biệt là khi Luật Du lịch mới đã có hiệu lực vào ngày 01/01/2018. Dù vậy, các nghiên cứu này là những tài liệu tham khảo quan trọng, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu sâu hơn các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch nói riêng. Chính vì vậy, tác giả cho rằng đây là đề tài rất sát thực, không trùng lập với các đề tài trước đó, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý ở cấp luận văn thạc sĩ luật học đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hội nhập hiện nay. Bên cạnh đó, qua việc đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tại địa bàn tỉnh Ninh Bình để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch thời gian tới.  4 Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tập trung vào hai loại hình kinh doanh dịch vụ lữ nội địa và lưu trú tại Việt Nam hiện nay. - Phân tích đánh giá nội dung, kết quả đạt được cũng như khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại địa bàn tỉnh Ninh Bình. - Đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện cũng như thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. Đồng thời luận văn đánh giá, nhận xét thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Bình những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh qua hai loại hình kinh doanh dịch vụ là lữ hành nội địa và lưu trú du lịch theo pháp luật Việt Nam hiện nay qua thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình. Bên cạnh đó, luận văn sẽ phân tích, đánh giá khái quát về thực trạng áp dụng pháp luật, xác định định hướng, giải pháp hoàn thiện cũng như thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành và kinh doanh lưu trú tại Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học sau:  5 - Phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. - Phương pháp so sánh: So sánh những quy định của Luật Du lịch 2005 và Luật Du lịch 2017 qua đó làm rõ về những yếu tố cấu thành các điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch. - Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các văn bản pháp luật khác nhau, các nhận định của các chuyên gia, các công trình nghiên cứu trước đó, cũng như tổng hợp các số liệu về kinh doanh dịch vụ du lịch. - Phương pháp lịch sử: Nhìn lại quá trình thay đổi, cải cách về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. Từ các phương pháp trên, tác giả có được kết quả để đánh giá và nghiên cứu những nội dung cơ bản của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Từ việc tiếp cận các thông tin trên cơ sở tham khảo các bài viết lý luận, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014, Luật Du lịch 2017 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan, đồng thời so sánh, phân tích, đánh giá từ thực tiễn áp dụng, tác giả sẽ đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam, góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch trên địa bàn một tỉnh, lấy Ninh Bình làm điển hình. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, tư liệu bổ sung cho các cơ quan và cá nhân trong những buổi hội thảo, tập huấn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam, đồng thời cũng là kênh thông tin cho những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có thể tham khảo để dễ dàng tiếp cận, tham gia vào thị trường kinh doanh du lịch tại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu rộng như hiện nay.  6 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Danh mục tài liệu viết tắt, phần chính của luận văn gồm có 03 chương với những nội dung cơ bản sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch từ thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch của tỉnh Ninh Bình.  7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH 1.1. Khái quát về du lịchvà hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch Khoa học phát triển luôn phải gắn liền với việc xây dựng hệ thống các khái niệm. Bởi lẽ, khái niệm vừa là kết quả của tư duy khoa học vừa là phương tiện để để tư duy. Do đó khi nghiên cứu pháp luật về điềukiện kinh doanh dịch vụ du lịch chúng ta phải hiểu về những khái niệm cơ bản được sử dụng phổ biến và rộng rãi trong du lịch. 1.1.1. Khái niệm về du lịch Từ giữa thế kỉ XIX, du lịch phát triển mạnh và ngày nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa xã hội của các quốc gia. Đối với các nước đang phát triển du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của các quốc gia. Trước thực tế phát triển của du lịch, việc nghiên cứu thảo luận để đi đến thống nhất một số khái niệm cơ bản về du lịch, trong đó khái niệm về du lịch là một đòi hỏi cần thiết. Thuật ngữ “du lịch” được bắt nguồn từ tiếng Pháp: “Tour” nghĩa là đi vòng quanh, là cuộc dạo chơi, còn “ touriste”là người dạo chơi. Trong tiếng Anh “to tour” có nghĩa là đi dã ngoại đến một nơi nào đó. Mặt khác, theo nhà sử học Trần Quốc Vượng “du lịch” là từ Hán-Việt, có thể coi là từ ghép giữa “du” là đi chơi với “lịch” là sự lịch lãm, hiểu biết. Có quan niệm cho rằng, du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa[37]. Tại Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa–Canada (6/1991) đã đưa ra định nghĩa:“Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mục đích của chuyến  8 đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”[11]. Từ cách tiếp cận các khái niệm trên, các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch gồm: - Khách du lịch; - Các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho khách du lịch; - Chính quyền sở tại; - Cộng đồng dân cư địa phương; Xem xét dưới khía cạnh kinh tế theo như đánh giá của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Varna, Bulgarie: “Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội được lặp đi lặp lại đều đặn chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hóa của các đơn vị kinh tế riêng biệt, độc lập - đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất kĩ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống nghỉ ngơi với mục đích thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thầncủa những người lưu trú ngoàinơi ở thường xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hóa, chính trị, kinh tế…) mà không có mục đích lao động kiếm lời”[11]. Như vậy, khái niệm du lịch theo quy định của Việt Nam có phạm vi khá hẹp, với bốn mục đích chính là tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng. Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2017 đưa ra định nghĩa tại khoản 1 Điều 3 như sau:“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”[27]. Từ các khái niệm trên tác giả cho rằng có rất nhiều khái niệm về du lịch và đều được định nghĩa theo nghĩa rộng, không phải tất cả các hoạt động đi lại khỏi nơi cư trú đều là du lịch, việc du lịch được giới hạn lại bởi không gian, thời gian, mục đích như tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghĩ dưỡng ở nơi khác, có thời gian cụ thể, khi hết thời gian này thì chủ thể tham gia du lịch sẽ trở lại nơi xuất phát bán đầu (nơi thường trú). Các hoạt động như đi xa vì công việc, đi chữa bệnh, đi du học... đều  9 không phải là du lịch. Khái niệm du lịch theo quy định của pháp luật của Việt Nam được giới hạn hẹp hơn với 4 mục đích chính là tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng. Hay nói cách khác du lịch phát sinh từ nhu cầu của người đi, thực hiện sự di chuyển ra ngoài nơi cư trú thường xuyên, từ nơi này đếnnơi khác bằng bất kỳ phương tiện nào với mục đích tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghĩ dưỡng có thời gian cụ thể và có sự trở về nơi xuất phát ban đầu. 1.1.2. Nhận diện kinh doanh dịch vụ du lịch 1.1.2.1. Khái niệm Trước khi tìm hiểu về hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, có thể thấy “kinh doanh” là thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống kinh tế của các nước trên Thế giới cũng như ở Việt Nam. Khái niệm “kinh doanh” chính thức đã được pháp luật Việt Nam sử dụng từ năm 1990 trong Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 1999, khái niệm “kinh doanh” một lần nữa được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp như sau: “Kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”[19]. Luật Doanh nghiệp 2014 đưa ra khái niệm cụ thể hơn về kinh doanh như sau:“Kinh doanh là việc thực hiện liên tụcmột, một số hoặctất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”[25]. Theo đó, kinh doanh bao hàm cả các hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa, các hoạt động sản xuất, gia công, đầu tư hay các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi. Cách hiểu này khá tương đồng với khái niệm thương mại được nêu ra trong Luật Thương mại sửa đổi năm 2005khi quy định hoạt động thương mại “là hoạtđộng nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”[22]. Như vậy, hiện nay khái niệm kinh doanh được hiểu như là hoạt động thương mại theo nghĩa rộng. Vào những thế kỉ trước, người ta chỉ quan niệm hoạt động du lịch là một hoạt động mang tính chất văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí, hiểu biết của con người, hoạt động du lịch vốn không được coi là hoạt động kinh tế, không mang tính chất kinh doanh và ít được đầu tư phát triển. Ngày nay, du lịch được xem là một ngành  10 kinh tế tổng hợp quan trọng, bao gồm các hoạt động khá đa dạng từ dịch vụ phòng nghỉ, ăn uống, mua bán đồ lưu niệm, hàng hóa,… các dịch vụ này được gọi chung là hoạt động du lịch. Trên cơ sở tổng hợp lý luận và thực tiễn hoạt động du lịch tại Việt Nam trong thời gian nhiều năm trở lại đây, Luật Du lịch 2017 đã định nghĩa hoạt động du lịch “là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên qua đến du lịch”[27]. Hoạt động của khách du lịch nghĩa là việc di chuyển và lưu trú tạm thời của người đi du lịch đến một nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ để tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật…Các tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch là những người tổ chức lưu trú, ăn uống, hướng dẫn tham quan, vận chuyển đưa đón du khách, kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ khác… nhằm mục tiêu sinh lợi; Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh việc phát triển ngành du lịch thì cũng kéo theo các loại hình dịch vụ liên quan. Theo định nghĩa của ISO 9001:1991 dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Dịch vụ có thể được tiến hành nhưng không gắn liềnvới sản phẩm vật chất [11]. Theo Điều 38, Luật Du lịch năm 2005 quy định kinh doanh du lịch là kinh doanh dịch vụ bao gồm các ngành, nghề sau đây: - “Kinh doanh lữ hành; - Kinh doanh lưu trú du lịch; - Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; - Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch; - Kinh doanh dịch vụ du lịch khác”. Khi Luật Du lịch 2017 được ban hành và có hiệu lực 01/01/2018 thì không còn riêng một điều luật quy định cụ thể các hình thức kinh doanh dịch vụ du lịch thay vào đó tại Chương V Luật Du lịch 2017 có quy định các mục về từng hình thức kinh doanh du lịch bao gồm: (1) Kinh doanh dịch vụ lữ hành (2) Kinh doanh vẫn tải khách du lịch  11 (3) Kinh doanh lưu trú du lịch (4) Kinh doanh dịch vụ du lịch khác (như dịch vụ ăn uống, dịch vụ mua sắm, dịch vụ thể thao, dịch vụ vui chơi, giải trí, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ liên quan khác phục vụ khách du lịch). Căn cứ vào chức năng, tính chất hoạt động, ngành nghề (2),(3),(4)được xếp vào nhóm các nhà cung ứng dịch vụ du lịch, còn (1) được xếp vào nhóm nhà phân phối sản phẩm du lịch. Như vậy, có thể hiểu các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch bao gồm các hình thức sau: Thứ nhất, dịch vụ lữ hành Dịch vụ lữ hành gồm các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao dịch kí kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”[11]. Trong đó tồn tại song song hai hoạt động phổ biến sau: - Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thành lập các chương trình du lịch trọn gói, hay từng phần; quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch. Vì vậy hoạt động kinh doanh lữ hành có các đặc trưng sau: + Sản phẩm lữ hành có tính chất tổng hợp: sản phẩm lữ hành là sự kết hợp của nhiều loại dịch vụ như: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống… của các nhà sản xuất riêng lẻ thành một sản phẩm mới hoàn chỉnh. + Chương trình du lịch không thể chuyển quyền sở hữu. Từ việc chỉ được sử dụng hàng hóa dịch vụ nào đó đồng nghĩa với việc khách hàng không có quyền sở hữu cơ sở hạ tầng dùng để sản xuất dịch vụ đó. Pháp luật du lịch phải điều chỉnh các ngành nghề kinh doanh du lịch một cách riêng biệt, có cơ quan quản lý trực tiếp vì tính trừu tượng, phi vật chất của sản phẩm du lịch... Từ các lý do trên mà nhà nước, chính phủ đã kịp thời điều chỉnh hoạt động của các nhà kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh lữ hành nói riêng để nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển ngành du lịch cả nước. Theo quy định của pháp luật điều chỉnh, các doanh nghiệp cung cấp  12 chương trình du lịch phải cung cấp đầy đủ thông tin dịch vụ, công khai giá cả dịch vụ cũng nhấn mạnh lợi ích mà dịch vụ mang lại. Doanh nghiệp lữ hành hoạt động trong khuôn khổ pháp lý phù hợp mà nhà nước quy định sẽ đem tới cho khách du lịchnhững sản phẩm tốt nhất, đảm bảo quyền lợi của đôi bên. + Các công ty lữ hành sẽ là trung gian liên kết các sản phẩm du lịch thành một sản phẩm du lịch trọn gói. Khách hàng chọn sản phẩm du lịch này sẽ đương nhiên chọn các dịch vụ được liên kết trong gói dịch vụ này. Nội dung đặc trưng và cơ bản nhất của hoạt động kinh doanh lữ hành đó chính là kinh doanh các chương trình du lịch trọn gói. Các công ty lữ hành nghiên cứu thị trường và tổ chức các chương trình du lịch. Các tổ chức tìm hiểu về sở thích, thị hiếu, quỹ thời gian nhàn rỗi, thời điểm và nhu cầu, đặc điểm tiêu dùng, khả năng thanh toán của du khách cùng với việc nghiên cứu các yếu tố về du lịch trên thị trường (nghiên cứu về tài nguyên du lich, khả năng tiếp cận các điểm hấp dẫn du lịch, khả năng đón tiếp của nơi đến du lịch) và các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trên thị trường để tiến hành sản xuất các chương trình du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sau khi xây dựng và tính toán xong giá một chương trình du lịch các doanh nghiệp cần tiến hành quảng cáo và chào bán (bán trực tiếp nghĩa là các doanh nghiệp lữ hành trực tiếp bán các chương trình du lịch của mình cho khách hàng hoặc doanh nghiệp quan hệ trực tiếp với khách hàng thông qua các hợp đồng bán hàng hoặc thông qua các hợp đồng ủy thác để nhận bán chương trình du lịch của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành cho khách du lịch để hưởng hoa hồng. Khi thực hiện chương trình du lịch theo hợp đồng đã kí kết thì doanh nghiệp cần có những chuẩn bị nhất định về: hướng dẫn viên, các thông tin về đoàn khách, các lưu ý về hành trình và các yếu tố cần thiết khác. Vì vậy hướng dẫn viên phải là người có khả năng làm việc độc lập, có trình độ nghiệp vụ, phải có những kiến thức hiểu biết lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế, luật pháp và những hiểu biết nhất định về tâm lý khách hàng, về y tế…để ứng xử và quyết định kịp thời các yêu cầu của khách và đảm bảo chương trình du lịch được thực hiện đúng hợp đồng. Cuối cùng, các doanh nghiệp thanh quyết toán hợp đồng và rút kinh nghiệm về thực hiện hợp đồng. Sau khi chương trình du lịch kết thúc, doanh nghiệp lữ hành cần làm thủ tục thanh quyết toán hợp đồng trên cơ sở quyết  13 toán tài chính và giải quyết các vấn đề phát sinh con tồntại, tiếnhành rút kinh nghiệm về thực hiện hợp đồng. - Kinh doanh đại lý lữ hành (Travel Sub-agency Business) là việc thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng. Thứ hai, dịch vụ lưu trú du lịch Kinh doanh lưu trú du lịch là hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú của khách du lịch. Dịch vụ này được thực hiện tại các cơ sở lưu trú du lịch, gồm: Khách sạn; Biệt thự du lịch; Căn hộ du lịch; Tầu thủy lưu trú du lịch; Bãi cắm trại du lịch; Nhà nghỉ du lịch; Nhà ở có phòng cho khách thuê; và các cơ sở lưu trú du lịch khác[27]. Thứ ba, kinh doanh vận tải khách du lịch (Transportation) Kinh doanh vận tải khách du lịch là việc“cung cấp dịch vụ vận tải đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa, đường bộ chuyên phục vụ khách du lịch theo chương trình du lịch tại các khu du lịch, điểm du lịch”[27]. Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ, với một khoảng cách xa. Do vậy khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng, không thể không đề cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau như: Ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay… Thực tế cho thấy ít có doanh nghiệp du lịch (trừ một số tập đoàn du lịch trên thế giới) có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch. Phần lớn trong các trường hợp, khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển. Đây cũng là một loại hình kinh doanh có điều kiện. Thứ tư, dịch vụ du lịch khác. Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình dịch vụ ăn uống, mua sắm, thể thao, vui chơi giải trí; tuyên truyền, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ liên quan khác phục vụ khách du lịch... Cùng với xu  14 hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp du lịch dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. Như vậy, từ những phân tích trên có thể khẳng định: Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch, thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ [14]. Cụ thể, đó là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. 1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch: Thứ nhất: Kinh doanh du lịch mang đầy đủ tính chất của một ngành thương mại dịch vụ. Du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người, nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng nhu cầu sinh lý và nhu cầu tinh thần. Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội, làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như chất lượng cuộc sống con người ngày càng được cải thiện. Từ đó, hoạt động du lịch đã trở thành một nền kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển và đang phát triển, tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên. Sản phẩm và quá trình sản xuất của nó vừa mang những đặc điểm chung của dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng của dịch vụ du lịch. Thứ hai: Du lịch là một loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch. Dịch vụ du lịch thường là những dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ sung. Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ mà nhà cung ứng du lịch cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn các nhu cầu cơ bản không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng… Dịch vụ bổ sung là những dịch vụ cung cấp cho khách nhằm thỏa mãn các nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung của khách du lịch. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ  15 đời sống nhằm thỏa mãn các nhu cầu cao cấp của con người, làm cho con người sống ngày càng phong phú hơn. Thứ ba: Tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch Tính thời vụ trong hoạt động du lịch có thể hiểu là những thay đổi lặp đi lặp lại hằng năm của cung cầu du lịch. Tính thời vụ của hoạt động du lịch bị ảnh hưởng bởi các nhân tố tự nhiên, nhân tố xã hội- kinh tế - tâm lý, nhân tố mang tính tổ chức - kĩ thuật.Các nhân tố trên thông thường vừa tác động riêng lẻ, vừa tác động đồng thời, trong thực tế mùa du lịch thường chịu ảnh hưởng của một vài nhân tố cùng một lúc. Vì vậy cũng cần hiểu rõ các mối liên hệ và ràng buộc qua lại giữa các yếu tố ảnh hưởng tới độ dài mùa của từng loại hình du lịch. Từ đó để tìm ra được mọi khả năng kéo dài mùa kinh doanh du lịch hoạt động trong cả năm, nâng cao chất lượng phục vụ và tăng nguồn thu cho doanh nghiệp du lịch. Thứ tư: Đối tượng phục vụ của ngành du lịch luôn di động và phức tạp Do khách hàng rất muốn chăm sóc như là những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hóa và không đồng nhất. Vì vậy, cảm giác của sự tin tưởng, mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn so với khi mua bán những hàng hóa khác. Mức độ hài lòng của khách hàng phụ thuộc vào sự sẵn sàng và khả năng phục vụ của nhân viên, thái độ và sự giao tiếp với khách hàng còn quan trọng hơn cả những tiêu chí kĩ thuật. Vì vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản xuất với khách hàng. Thứ năm: Kinh doanh du lịch là ngành kinh tế tổng hợp. Du lịch được coi là một ngành kinh tế kinh doanh tổng hợp: sản xuất, trao đổi hàng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và các nhu cầu khác của khách du lịch. Do tính chất tổng hợp của kinh doanh du lịch mà hoạt động này chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của rất nhiều ngành kinh tế. Tiểu thủ công nghiệp cung cấp cho du lịch các đồ lưu niệm làm cho các sản phẩm du lịch phong phú hơn, hải quan, công an kiểm soát và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bưu chính viễn thông giúp quảng bá cho du lịch, giáo dục giúp thay đổi nhận thức của người dân về du lịch, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao…  16 Thứ sáu: Việc tiêudùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trongcùng một thời gian và không gian Đây là một đặc điểm quan trọng, thể hiện sự khác biệt giữa các dịch vụ và hàng hóa. Người ta có thể sản xuất ở một nơi khác và một thời gian khác với nơi bán và nơi tiêu thụ còn đối với dịch vụ du lịch thì không như vậy. Trong du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ tới cho khách hàng mà tùy vào nhu cầu của bản thân, khách hàng tự tìm tới nơi cung cấp dịch vụ du lịch. Chính vì vậy, du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm trước, nó là một sản phẩm trừu tượng mà họ chưa một lần tiêu dùng nó. Dịch vụ du lịch luôn đồng hành với sản phẩm vật chất nhưng không thay đổi tính phi vật chất của mình. Từ đặc điểm này, nên các nhà cung ứng dịch vụ du lịch phải cung cấp đầy đủ các thông tin nhấn mạnh tính lợi ích của dịch vụ mà không đơn thuần là mô tả dịch vụ, từ đó làm cho du khách quyết định mua dịch vụ của mình. Vì vậy khi xây dựng các điểm du lịch cần chú ý tới các điều kiện tự nhiên (như địa hình, địa chất, thủy văn, khí hậu, tài nguyên, môi trường sinh thái…) và điều kiện xã hội (dân số, dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung ứng lao động, cơ sở hạ tầng…) nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Đồng thời phải tiến hành các hoạt động xúc tiến và quảng bá mạnh mẽ để thu hút khách đến với du lịch. Cuối cùng: Du lịch chỉ phát triển trong môi trường hòa bình và ổn định Du lịch là lĩnh vực nhạy cảm với những vấn đề chính trị, xã hội. Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh, sự bất ổn về chính trị sẽ ngăn cản các hoạt động du lịch. Hòa bình, ổn định chính là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch[13]. Ví dụ tiêu biểu như vụ khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ, khủng bố tại đảo Bali- Indonêxia, sự kiện “ đảo chính” ở Thái Lan… đã làm cho ngành du lịch các nước này lao đao sau nhiều năm mới phục hồi. Mặt khác, tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi trường …cũng là những nhân tố rất quan trọng tác động tới kinh doanh du lịch.  17 1.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịchvà lý do quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịchdu lịch. 1.2.1. Khái niệm điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Trong xu thế phát triểncủa nền kinh tế thị trường, việc mở rộng hành lang pháp lý trong kinh doanh luôn được ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên Thế giới. Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh tại Điều 57“Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”[18]. Nhiều nghiên cứu cho rằng, quyền tự do kinh doanh có nhiều ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì đây là sự tự do trong hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất của cải vật chất cho xã hội, mà hoạt động kinh tế giữ một vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định hay ảnh hưởng các mặt hoạt động của quốc gia[3]. Tuy nhiên quyền tự do kinh doanh luôn gắn liền với một hệ thống pháp luật cụ thể, một quốc gia nhất định và trong một nước có pháp luật tự do nghĩa được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm[2]. Trong bối cảnh đó quan niệm về tự do kinh doanh và giới hạn quản lý của nhà nước đối với sự phát triển của thị trường luôn có những bước phát triển mới. Và với mỗi giai đoạn phát triển, pháp luật lại có những thay đổi trong việc nhận định lại nội hàm của quyền tự do kinh doanh. Một lẽ đương nhiên khi quyền tự do kinh doanh của cá nhân được mở rộng, pháp luật phải thay đổi cách thức và nội dung quản lý nhà nước đối với thị trường[32]. Sau gần 30 năm kể từ ngày đổi mới, đây chính là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Việt Nam ghi nhận và tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân được thể chế hóa trong Hiến Pháp. Mặc dù còn hạn chế ở phạm vi tự do kinh doanh, khi các chủ thể kinh doanh chỉ được “tự do” kinh doanh trong lĩnh vực mà pháp luật cho phép, song so với các quan điểm quản lý kinh tế vào thời kì trước, đây cũng đã được xem là bước tiến đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đã chủ động ghi nhận quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cụ thể của quyền con người. Đến Hiến pháp 2013, quyền tự do kinh doanh đã có một bước tiến mới, thông thoáng hơn, cởi mở hơn khi quy định tại Điều 33 “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” [23]. Hiến pháp 2013 đãđặt đúng vị trí quyền con người như là chế định cơ bản, bao gồm các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa,  18 xã hội, phù hợp với mong muốn của người dân, tương thích với thế giới văn minh thời kì hội nhập, với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia. Nói cách khác, để giới hạn quyền tự do kinh doanh, Nhà nước cần phải có cơ sở pháp lý minh bạch, rõ ràng, thể hiện cam kết của Nhà nước Việt Nam đối với toàn dân, với quốc tế trong thời kì đổi mới và hội nhập sâu rộng. Hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 đã được xây dựng với phương thức tiếp cận theo hướng đơn giản hóa điều kiện và thủ tục đăng kí kinh doanh, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết, tự chủ trong hoạt động của doanh nghiệp. Tại khoản 1, Điều 7, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định doanh nghiệp có quyền được “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” [25]. Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành cho phép doanh nghiệp được quyền lựa chọn để kinh doanh tất cả các ngành, nghề; trừ một số ngành nghề có thể gây ảnh hưởng xấu tới an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục được liệt kê trong danh mục ngành nghề cấm kinh doanh. Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh không phải là tuyệt đối, nó cũng như nhiều quyền khác, phải tuân theo nguyên tắc “Quyền của cá nhân, tổ chức này không được gây phương hại đến quyền của cá nhân, tổ chức khác” và vì vậy trong một số trường hợp phải được giới hạn. Việc giới hạn quyền tự do kinh doanh phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản, phù hợp với thế giới văn minh, theo hướng Nhà nước “tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền tự do kinh doanh” chứ không phải Nhà nước quản lý quyền đó theo hướng “quản được đến đâu thì cho phép mở rộng quyền đến đó”. Các nguyên tắc giới hạn quyền tự do kinh doanh phải đảm bảo vì mục đích chính đáng, bảo đảm sự phù hợp giữa giới hạn quyền và mục đích đặt ra, cuối cùng phải đảm bảo được sự công bằng giữa lợi ích thu được với giới hạn quyền[14]. Luật Đầu tư 2014 đã cụ thể hóa nguyên tắc hạn chế quyền tự do kinh doanh với Điều 6 “nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành nghề mà Luật này không cấm”[24]. Chế định pháp luật về điều kiện kinh doanh hiện nay đã có nhiều điểm mới mang tính đột phá, đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm tháo gỡ  19 các hạn chế, bất cập của luật cũ, tiếp tục hướng tới việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với các thông lệ quốc tế. Để tìm hiểu về khái niệm điều kiện kinh doanh, trước tiên cần phải hiểu được khái niệm về điều kiện. Theo Từ điển Tiếng Việt, điều kiện là “cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra”[17]. Như vậy, có thể hiểu điều kiện chính là những yếu tố tiên quyết, mang tính quyết định đối với sự xuất hiện của một sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó. Khái niệm về điều kiện kinh doanh được quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005, “Điều kiệnkinh doanhlà yêucầu mà doanhnghiệpphảicó hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”[20]. Tuy nhiên tới Luật Doanh nghiệp 2014 không nêu ra định nghĩa hay khái niệm về điều kiện kinh doanh hoặc những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà thay vào đó đã được cụ thể hóa trong Luật Đầu tư 2014 tại khoản 1 Điều 7”Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [24]. Như vậy, điều kiện kinh doanh được hiểu là những yêu cầu nhà nước đặt ra buộc các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng được khi thực hiện kinh doanh trong những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 7, Luật Đầu tư cũng liệt kê và tổng hợp các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện bao gồm 243 ngành, nghề kinh doanh đồng thời các điềukiện kinh doanh phải được quy định tại “các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, các nhân kháckhôngđược ban hànhquy định về điều kiệnđầu tư kinh doanh” [24]. Hình thức áp dụng của điều kiện đầu tư kinh doanh được quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 118/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư như sau: “1) Giấy phép kinh doanh; 2) Giấy chứng nhận đủ điều kiệnkinh doanh;3) Chứng chỉ hànhnghề; 4) Chứng nhậnbảo hiểm trách nhiệm  20 nghề nghiệp; 5) Xác nhận vốn pháp định; 6) Các hình thức văn bản khác theo quy định của pháp luật ngoài các hình thức điều kiện trên; 7) Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinhtế phảiđáp ứng để thực hiện hoạt độngđầu tư kinh doanhmà khôngcần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức văn bản”[5]; Các quy định nhằm tạo hiệu quả và tối ưu hóa việc nhà nước quản lý hoạt động kinh tế, tạo lập nên một khung pháp lý để các chủ thể kinh doanh được đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Thông qua các chế định pháp luật về điều kiện kinh doanh, Nhà nước có thể điều tiết được hoạt động sản xuất - kinh doanh, giữ được sự phát triển ổn định bền vững cho nền kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là yêu cầu mà các tổ chức, cá nhân phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh dịch vụ du lịch được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thể hiện bằng các hình thức theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Lý do quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Hiến pháp 2013 đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh là quyền con người và là một trong những quyền cơ bản của công dân. Song đối với việc kinh doanh trong một số ngành, nghề nhất định mặc dù tinh thần “được tự do kinh doanh” nhưng các chủ thể kinh doanh cần đáp ứng được các điều kiện nhất định đối với ngành, nghề đó. Ngày nay, sự phát triển du lịch đem lại hiệu quả kinh tế cao do nó khai thác những giá trị tài nguyên sẵn có cả về tự nhiên và nhân văn. Trong quá trình khai thác những tài nguyên du lịch không bị mất đi nếu biết bảo tồn gìn giữ và cũng không gây ô nhiễm môi trường như một số ngành kinh tế khác. Kinh doanh dịch vụ du lịch cũng như bao ngành nghề khách đều phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó, kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa và lưu trú du lịch là một ngành nghề đặc thù, tác động đến nhiều lợi ích chung của cộng đồng cũng như tác động đến nhiều doanh nghiệp kinh doanh du lịch khác. Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh cũng như hài hòa các quyền lợi khác như kinh tế, an ninh, trật tự xã hội, môi trường, danh lam thắng cảnh việc đăng ký kinh doanh lữ hành và lưu trú cần phải đảm bảo điều kiện do pháp luật quy định. Tạo ra các điều kiện kinh doanh lữ hành và  21 lưu trú du lịch là cần thiết, chính vì thế mà Luật Du lịch 2017 có quy định về điềukiện kinh doanh lữ hành tương ứng với 3 mô hình kinh doanh lữ hành là kinh doanh lữ hành nội địa(khoản 1, Điều31),kinh doanh lữ hành quốc tế(khoản 2, Điều 31)và kinh doanh đại lý lữ hành (Điều40) cũng như kinh doanh lưu trú du lịchtại Điều 49. Pháp luật quy định về các điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch dựa trên tính đặc thù cũng như vai trò của ngành du lịch: - Đối với kinh tế: Hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của một đất nước, một vùng, một địa phương thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Đồng thời, thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp (như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi…). Du lịch luôn đòi hỏi hàng hóa chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức góp phần phát triển thị trường sản xuất hàng hóa. Mặt khác, thị trường du lịch rất rộng lớn với nhu cầu hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng, khả năng thanh toán của khách hàng khá cao. Thị trường du lịch hoạt động trong không gian lãnh thổ như thị trường nội địa, nhưng thị trường này lại có khả năng “xuất khẩu tại chỗ” thu vào ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Sự phát triển của du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác. - Đối với chính trị: Du lịch góp phần củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, tăng cường sự hiểu biết về đất nước, con người lịch sử truyền thống dân tộc, về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước mà du khách đến thăm. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau, các hoạt động kinh doanh du lịch theo chủ đề được thực hiện, kêu gọi hàng triệu triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc.  22 Do vậy, năm 1979, Đại hội của UNWTO đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới. - Đối với văn hóa, xã hội: Du lịch là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội của con người, có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống cho nhân dân. Du lịch góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế vùng có hoạt động du lịch và giảm quá trình đô thị hóa. Dựa vào việc tài nguyên du lịch tự nhiên có ở các vùng hẻo lánh, xa xôi, vùng ven biển…Việc khai thác đưa những tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phải đầu tư về mọi mặt giao thông, bưu điện, kinh tế văn hóa, xã hội… Do vậy mà việc phát triểndu lịch sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội giữa các vùng trong cả nước, giảm đi sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng đó, đồng thời góp phần làm giảm đi sự tập trung dân cư ở những trung tâm dân cư. Thông qua việc sử dụng các dịch vụ du lịch, khách du lịch sẽ thường xuyên tiếp xúc với người dân địa phương làm tăng thêm tình đoàn kết hữu nghị. Du lịch còn làm phong phú thêm khả năng thẩm mỹ, sự hiểu biết của con người khi họ được tham quan các kho tàng mỹ thuật, di tích lịch sử văn hóa. Bên cạnh đó, du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống của dân tộc từ đó có ý nghĩa rất to lớn đối với việc khai thác và bảo tồn các di sản văn hóa của dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội. - Đối với môi trường sinh thái: Vai trò sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và hoạt động của con người. Việc đẩy mạnh hoạt động du lịch tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định lại đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Lúc này con người phải đặt ra vấn đề trong việc bảo vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.  23 Môi trường và xã hội trong lĩnh vực du lịch luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Làm du lịch và bảo vệ môi trường là hai hoạt động gần gũi, tương hỗ liên quan với nhau. Môi trường có ổn định, có lành mạnh thì du lịch mới tạo đà phát triển. Bên cạnh những lợi ích to lớn của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta thì du lịch vẫn còn tồn tại những điểm tiêu cực buộc nhà nước phải đặt ra những điều kiện cho hoạt động kinh doanh du lịch để nhằm mục đích quản lý, kiểm tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy rằng việc phát triển du lịch quốc tế một cách thụ động qua tải dẫn đến việc làm mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, gây áp lực cho việc lạm phát. Ngành du lịch mang tính thời vụ do đó ảnh hưởng rất lớn tới việc sử dụng lao động, tạo ra sự mất cân đối do tính thời vụ trong hoạt động du lịch. Ngoài ra, du lịch làm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến tài nguyên của đất nước do khai thác quá mức hoặc không hợp lý. Sức chứa của nhiều địa bàn du lịch đã quá tải. Ô nhiễm nước và không khí do nước thải, tràn dầu, do chất thải, khí thải của phương tiện vận tải như tàu thuyền, ôtô, xe máy, nuôi trồng thủy sản. Rừng bị tàn phá để đầu tư xây dựng các khu du lịch, để cung cấp nguyên vật liệu và đáp ứng nhu cầu ẩm thực. Từ đó gây ảnh hưởng tới tính đa dạng sinh học. Phá hủy nơi cư trú (trênmặt đất hoặc biển) do giải phóng mặt bằng hoặc quy hoạch xây dựng hạ tầng, cơ sở dịch vụ. Xáo trộn cuộc sống hoang dã hủy hoại thực vật do đi lại và phương tiện. Di sản thiên nhiên và văn hóa cũng như tính đa dạng của các nền văn hóa đang tồn tại tạo ra lực hấp dẫn to lớn đôi khi tạo nên sự phát triển tùy ý, không được kiểm soát của các dịch vụ du lịch đe dọa tới tính toàn vẹn của tự nhiên và ý nghĩa của di sản. Mặt khác, du lịch phát triển nhanh nhưng quản lý yếu kém sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Nhiều tệ nạn xã hội, các loại hình kinh doanh không lành mạnh trong nhà hàng, khách sạn cũng ngày càng tăng. Du lịch là con đường mà các thế lực phản động thường hay sử dụng để tuyên truyền, kích động phá hoại chế độ chính trị xã hội, kinh tế, văn hóa. Đội lốt các du khách để xâm nhập sâu vào đất nước móc nối, xây dựng các cơ sở, tổ chức phản động. Đồng thời du lịch cũng gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở các điểm du lịch. Pháp luật du lịch phải điều chỉnh các ngành nghề kinh doanh du lịch một cách riêng biệt, có cơ quan quản lý trực tiếp bởi vì tính trừu tượng, phi vật chất của sản phẩm du lịch. Du  24 lịch mang tính thời vụ, khách du lịch không ổn định, khi tới mùa du lịch, lượng khách du lịch tới các khu du lịch tăng đột biến. Khách du lịch đi lẻ với tâm lý ngẫu hứng, thiếu thông tin cũng như sự không tập trung của nguồn khách lẻ đã dẫn tới khó khăn trong việc quản lý khách du lịch của nhà nước, khó khăn trong việc cung cấp sản phẩm du lịch cũng như an ninh khu vực. Sản phẩm du lịch được tạo ra từ sự kết nối các sản phẩm du lịch khác một cách khoa học, một chương trình du lịch tác động đến nhiều doanh nghiệp khác như lưu trú, ăn uống, vận chuyển..., tác động đến di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh... cũng như tác động đến khách du lịch, đất nước Việt Nam trong mắt khách du lịch.. Trong một sản phẩm du lịch như vậy, rất nhiều quan hệ phát sinh dễ dẫn đến nhiều tranh chấp phức tạp. Từ những lý donhư trên đòi hỏi cần có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch để phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng vận động chung của thị trường, nâng cao được hiệu quả của hoạt động du lịch một mặt đảm bảo lợi ích của các chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch, mặt khác đảm bảo quyền lợi của khách du lịch cũng như lợi ích chung của quốc gia, của dân tộc. 1.3. Khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch 1.3.1. Khái niệm Pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là hệ thống tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch và hoạt động quản lý của nhà nước đốivới đăng kí kinh doanh dịch vụ du lịch. Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch: - Quan hệ giữa ngành chủ quản với các doanh nghiệp du lịch; - Quan hệ giữa doanh nghiệp du lịch với khách, giữa các doanh nghiệp du lịch với nhau; - Quan hệ nội bộ của các doanh nghiệp du lịch; - Quan hệ giữa nước đón tiếp du lịch với khách du lịch nước ngoài; - Quan hệ giữa nước phát sinh nguồn khách (nước gửi khách) và nước đón tiếp khách;  25 - Quan hệ giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động du lịch; Nguồn của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là tất cả các văn bản pháp luật có các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt động kinh doanh du lịch. Nguồn quan trọng và chủ yếu của pháp luật du lịch phải kể tới Luật Du lịch số 09/2017/QH14 được Quốc hội khóa 14 kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2017 (Luật có hiệu lực ngày 01/01/2018). Luật này quy định về “tài nguyên du lịch và các hoạt động du lịch; quyền và nghĩa vụ của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, cộng đồng dân cư có hoạt động liên quan tới du lịch; quản lý nhà nước về du lịch”[27]. Trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, Bộ luật Dân sự 2015 có rất nhiều quy định về: giao dịch dân sự, quyền nghĩa vụ của các bên, hợp đồng…; Luật Doanh nghiệp 2014 có những quy định về thành lập doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp…; Luật kinh doanh bảo hiểm 2010 có chứa các quy định về bảo hiểm cho khách du lịch trong nước và quốc tế; Luật giao thông đường bộ 2008 có quy phạm về điều kiện của xe ô tô vận chuyển khách du lịch, ngoài ra trong các luật khác, các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ; các Bộ ban hành cũng có chứa các quy phạm pháp luật liên quan đến điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch. 1.3.2. Nội dung Kinh doanh dịch vụ du lịch được vận hành theo hướng cơ chế thị trường đã tạo ra môi trường kinh doanh đa dạng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mặt khác, du lịch được coi là một ngành kinh tế kinh doanh tổng hợp: sản xuất, trao đổi hàng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và các nhu cầu khác của khách du lịch. Do tính chất tổng hợp của kinh doanh du lịch mà hoạt động này chịu ảnh hưởng của sự phát triểncủa rất nhiều ngành kinh tế.. Khi hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch phát triển đa dạng ở nhiều vùng, miền, với nhiều loại hình và nhiều đối tượng tham gia thì Luật Du lịch ra đời quy định chi tiết điều kiện kinh doanh đốivới từng loại hình dịch vụ du lịch. Với đặc điểm thị trường du lịch, các điều kiện về kinh doanh dịch vụ du lịch, bao gồm: 1) Chủ thể  26 kinh doanh: gồm các tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập, chấp nhận cho đầu tư kinh doanh; 2) Ký quỹ doanh nghiệp: phải phù hợp với quy định của pháp luật; 3) Cơ sở vật chất tối thiểu đáp ứng các tiêu chuẩn về: Phòng cháy chữa cháy, về cơ sở hạ tầng; 4) Điều kiện về trình độ chuyên môn của người quản lý; 5) Một số các loại điều kiện khác như an toàn phòng chống cháy nổ, trật tự an ninh, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… Mỗi một nhóm, mỗi một loại hình kinh doanh dịch vụ du lịchlại được áp dụng các loại điều kiện kinh doanh riêng. Nhìn chung, các quy định pháp luật tuy có một số khác biệt trong các thời kỳ khác nhau theo từng giai đoạn của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới nhưng vẫn nhất quán với quan điểm điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch thường cấu thành bởi những yếu tố: - Điều kiện đối với chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch: Điều kiện về chủ thể đối với kinh doanh lữ hành là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. Theo khoản 7, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2014 :“Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” [25]. Theo quy định của tại Điều 6 của Luật Thương mại 2005, thương nhân bao gồm “tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Đối với nhóm kinh doanh dịch vụ du lịch lưu trú, vận tải du lịch hoặc các dịch vụ khác thì điều kiện về chủ thể kinh doanh theo Luật Du lịch 2017 đã mở rộng đến các “tổ chức và cá nhân”. - Điều kiện về ký quỹ trong kinh doanh dịch vụ du lịch: Tiền kí quỹ là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự [25]. Số tiền ký quỹ sử dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh lữ hành. Điều kiện về ký quỹ được áp dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa vì xét thấy tính chất và mức độ rủi ro của hoạt động này đối với các đối tượng khác, đặc biệt là khách du lịch. Việc ký quỹ nhằm mục đích chính là đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ đối với khách du lịch, tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi của khách du lịch.  27 - Điều kiện về yêu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn cơ sở vật chất, kỹ thuật, phòng cháy chữa cháy, trật tự an toàn xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm, trình độ chuyên môn… Đối với từng hình thức kinh doanh dịch vụ du lịch sẽ có các điều kiện kinh doanh tương ứng, phù hợp với yêu cầu về các tiêu chuẩn cơ sở vật chất, kĩ thuật theo thiết kế công trình, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường. Người quản lý hay hướng dẫn viên du lịch phải có bằng cấp, trình độ chuyên môn, kiến thức về du lịch, y tế, nghiệp vụ quản lý. Ngoài ra đối với kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống phải xin cấp phép về an toàn phòng chống cháy nổ,vệ sinh an toàn thực phẩm… Tiểu kết chương Một là vai trò của du lịch có ý nghĩa hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, đời sống, xã hội. Từ việc phân tích, đánh giá về tính chất, đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh du lịch; những rủi ro, tác động trong kinh doanh dịch vụ du lịch, qua đó nhìn nhận việc quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là sự cần thiết và tất yếu khách quan. Hai là, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đang trên đà hội nhập quốc tế, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ du lịch, đòi hỏi các quy định pháp luật về điềukiện kinh doanh dịch vụ du lịch cũng từng bước phát triển với xu hướng mở rộng hành lang pháp lý để các chủ thể kinh doanh khác nhau có thể gia nhập thị trường. Bên cạnh đó, tác giả Luận văn cũng đã nêu ra những điều kiện đăng kí kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014, Luật Du lịch 2017 đã có nhiều điểm mới, quy định chi tiết và phù hợp với xu thế phát triển. Sự thay đổicác quy định của pháp luật không chỉ là sự kế thừa những quy định cũ mà còn phát triển theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân, tổ chức, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước.  28 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH 2.1. Lịch sử hình thành và phát triểnpháp luật Du lịch Việt Nam Kinh doanh dịch vụ du lịch được vận hành theo hướng cơ chế thị trường đã tạo ra môi trường kinh doanh đa dạng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Ngày 16/03/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty du lịch Việt Nam. Giai đoạn 1971-1978 làthời kì hoạt động du lịch được mở rộng. Có thể nói, đây là giai đoạn “tập dượt”của du lịch Việt Nam để bước vào hoạt động kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh du lịch quốc tế một cách bài bản. Tuy còn nhiều hạn chế về mặt quản lý nhà nước nhưng đây là giai đoạn vô cùng quan trọng để ngành du lịch có được cái nhìn đầy đủ hơn về bản chất kinh doanh du lịch, về tính liên ngành trong hoạt động kinh doanh du lịch và sự kết hợp giữa mở rộng kinh doanh du lịch với đảm bảo an ninh quốc phòng như một nguyên tắc hoạt động của ngành, đặc biệt trong du lịch tiếp cận quốc tế. Giai đoạn 1979-1991, Tổng cục Du lịchthực hiện hai chức năng chính là quản lý nhà nước và quản lý trực tiếpchỉ đạo hoạt độngkinh doanh du lịch đốivới một số công ty trực thuộc. Tuy nhiên, cả hai chức năng mà Tổng cục Du lịchđảm nhiệm đềurất hạn chế, chưa có đủ điều kiện để phát triển. Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 (từ 27/7 – 12/08/1991)đãban hành Nghị quyết chuyển chức năng quản lý nhà nước về du lịchvà đổi tên một số Bộ, theo đó chức năng quản lý nhà nước về du lịch được chuyển sang Bộ Thương mại và đổi tên Bộ thương mại thành Bộ Thương mại- Du lịch. Giai đoạn 1992-2005, du lịch có bước phát triển mạnh mẽ với vị thế của một ngành kinh tế. Cách đây 38 năm, Hội nghị Du lịch thế giới họp tại Manila Philippin (1980) đã đưa ra tuyên bố Manila về du lịch, trong điều 2 đã khẳng định “Trước ngưỡng cửa của thế kỉ 21 và trước những triển vọng của những vấn đề đang đặt ra đối với nhân loại, đã đến lúc cần thiết và phải phân tích bản chất của du lịch, chủ yếu đi sâu vào bề rộng mà du lịch đã đạt được kể từ khi người lao động được quyền nghỉ phép năm, đã chuyển hướng du lịch từ một phạm vi hẹp của thú vui sang phạm  29 vi lớn của cuộc sống kinh tế xã hội. Phần lớn đóng góp của du lịch vào nền kinh tế quốc dân và thương mại quốc tế đang làm cho nó trở thành yếu tố quan trọng cho sự phát triển của thế giới. Vai trò thiết thực của du lịch trong hoạt động kinh tế quốc dân, trong trao đổi quốc tế và trong sự cân bằng cán cân thanh toán, đang đặt du lịch vào vị trí trong số các ngành hoạt động kinh tế thế giới quan trọng nhất”[11]. Nhận thấy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của du lịch, trong văn kiện của các kì Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định đẩy mạnh phát triển du lịch, tạo bước đột phá để phát triển vượt bậc khu vực dịch vụ, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Quan điểm của Đảng đối với phát triển du lịch được cụ thể hóa trong giai đoạn phát triển mới, theo đó du lịch được khẳng định là“ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước” theo (Nghị quyết 45/CP ngày 22/06/1993) và “phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước, nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa…góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước” theo (Chỉ thị 46/CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí thư TW Đảng). Ngày 08/02/1999 UBTV Quốc hội khóa X đã thông qua Pháp lệnh Du lịch. Đây có thể coi là bước tiếnquan trọng đối với ngành du lịch. Pháp lệnh du lịch ra đời gồm có 9 chương, 56 điều quy định một cách cơ bản nhất về hoạt động kinh doanh du lịch, khách sạn, vận tải du lịch…Ngày 14/06/2005 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI Luật Du lịch đã được thông qua và có hiệu lực ngày 01/01/2006. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của Du lịch Việt Nam sau hơn 45 năm xây dựng và phát triển ngành du lịch. Cùng với Luật Du lịch, nhiều chính sách hỗ trợ phát triển du lịch đã được xây dựng và ban hành. Giai đoạn 2005-2017làkhoảng thời gian Du lịch Việt Nam đã khẳng định được vai trò của ngành kinh tế với việc lần đầu tiên trong lịch sử phát triển ngành đã xây dựng được chiến lược và quy hoạch tổng thể. Sự tăng trưởng không ngừng về khách du lịch đã mở rộng quy mô kinh doanh du lịch Việt Nam trên mọi lĩnh vực.Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định “phát triển du lịch thành một nền kinh tế mũi nhọn, phấn đấu sau năm 2010 Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch vụ du lịch  30 chất lượng...để góp phần tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ”. Ngày 30/11/2011, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 2473/QĐ-TTg phê duyệt “chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020” với việc phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng phát triển theo chiều sâu, đảm bảo chất lượng và hiệu quả khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh; phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cả trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển du lịch, phát huy tối đa tiềm năng lợi thế quốc gia về yếu tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng vùng miền trong cả nước, tăng cường liên kết du lịch. Ngày 19 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã thông qua luật số 09/2017/QH14 và tới ngày 01/01/2018 Luật Du lịch 2017 chính thức có hiệu lực với hy vọng tạo ra động lực mới cho ngành Du lịch phát triển. 2.2. Các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Pháp luật kinh doanh dịch vụ du lịch là một hệ thống tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch. 2.2.1. Điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ lữ hành nội địa Kinh doanh lữ hành (Tour operatorsbusiness) là việc doanh nghiệp doanh nghiệp đầu tư, thực hiện một hoặc một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình chuyển giao từ các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần, quảng cáo, và bán các chương trìnhnày trựctiếphay gián tiếpqua các trung gian tới việc tổ chức thực hiện cung ứng dịch vụ tới khách hàng. Tại khoản 9, Điều 3, Luật Du lịch 2017“kinh doanh dịch vụ lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiệnmột phầnhoặctoànbộ chương trìnhdulịch cho khách du lịch”[27]. Nói một cách ngắn gọn hơn, kinh doanh lữ hành chính là kinh doanh chương trình du lịch. Luật Du lịch 2017 chia kinh doanh lữ hành làm 2 loại là kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế: - Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa là doanh nghiệp xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa.  31 - Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế là doanh nghiệp xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế. - Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế được kinh doanh lữ hành nội địa. Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa không được kinh doanh lữ hành quốc tế.Trong kinh doanh lữ hành quốc tế, Luật Du lịch phân biệt hai loại hình: kinh doanh lữ hành đónkhách vào Việt Nam (inbound) và kinh doanh lữ hành đưa khách ra nước ngoài (outbound). Quy định này nhằm đẩy mạnh hơn nữa chuyên môn hóa trong kinh doanh lữ hành. Dưới góc độ pháp luật, Luật Du lịch đã tiếp cận khái niệm lữ hành ở phạm vi hẹp với mục đích chính phân biệt hoạt động lữ hành với các hoạt động du lịch khác như lưu trú, nhà hàng, vận chuyển…Cách tiếp cận này là hợp lý và cần thiết để điều chỉnh hoạt động lữ hành, kinh doanh lữ hành một cách phù hợp. Dịch vụ lữ hành bao gồm các hoạt động chính như:“làm nhiệm vụ giao dịch kí kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch”. Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa: Thương nhân có đủ các điều kiện quy định dưới đây được kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa: - Điều kiện về mặt chủ thể: Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 31, Luật Du lịch năm 2017 quy định, điều kiện chủ thể kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa “là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật doanh nghiệp”[27]. Theo khoản 7, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 có định nghĩa “doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng kí thành lập theo quy định của pháp luật”[25]. Theo quy định Luật Du lịch2005 không quy định việc cấp giấy phép kinh doanh lữ hành nội địa. Thời gian qua, tăng trưởng của phân khúc thị trường kinh doanh du lịch nội địa tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Thu nhập từ khách du lịch ngày càng cao, không kém thu nhập từ khách du lịch quốc tế, thậm chí còn cao hơn thu nhập từ khách du lịch quốc tế từ một số thị trường. Mặc dù vậy, những quy định về điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa còn dễ dàng, chưa bám sát thực tiễn, chưa có các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của khách  32 du lịch. Cụ thể: các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa không phải ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch và không cần có hướng dẫn viên du lịch. Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa chỉ phải gửi thông báo thời điểm hoạt động kèm theo phương án kinh doanh và chương trình du lịch nội địa tới Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịchnơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Song theo thống kê mới nhất của các Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước có chỉ có 1.528 trong tổng số trên 13.000 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa gửi thông báo hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch và duy trì các điều kiện kinh doanh và hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch nội địa. Việc phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa thiếu nghiêm túc trong việc chấp hành các quy định của pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra. Số lượng doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịchnội địa phát triển mạnh mặc dù nhiều doanh nghiệp trong số đó không đủ năng lực kinh doanh. Hiện nay, các cơ quan quản lý về du lịch ở địa phương chưa quản lý, kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp du lịch nội địa. Điều này đã nảy sinh khá nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp không đảm bảo điều kiện kinh doanh lữ hành nội địa, không thực hiện việc thông báo với cơ quan quản lý du lịch cấp tỉnh nhưng vẫn tổ chức thực hiện chương trình cho khách du lịch nội địa. Để khắc phục hạn chế của này, Luật Du lịch 2017 đã bổ sung quy định cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa nhằm đảm bảo quyền lợi khách du lịch, đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp. - Điều kiện về ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa được quy định tại điểm b, khoản 1, điều31, Luật Du lịch2017. “Mức ký quỹ kinhdoanhdịch vụ lữ hành nội địa100.000.000(Một trăm triệu đồng), doanhnghiệpthực hiện ký quỹbằngđồng Việt Nam tại ngânhàngthương mại, ngânhàng hợp tácxã hoặc chi nhánhngânhàng nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam và được hưởng lãi suất theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp và ngân hàng nhận ký quỹ phù hợp với quy định của pháp luật. Tiền ký quỹ phảiđược duy trì trongsuốtthời giandoanhnghiệpkinhdoanhdịch vụ lữ hành”[7]. - Điều kiện về yêu cầu đáp ứng trình độ chuyên môn: Người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành phải tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành về lữ hành;  33 trường hợp tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch nội địa. Theo Thông tư 06/2017/TT-BVHTTDL có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2018 quy định: “Người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành là người giữ một trong các chức danh sau: chủ tịch hội đồng quản trị; chủ tịch hội đồng thành viên; chủ tịch công ty; chủ doanh nghiệp tư nhân; tổng giám đốc; giám đốc hoặc phó giám đốc; trưởng bộ phận kinh doanh dịch vụ lữ hành. Chuyên ngành về lữ hành bao gồm một trong những chuyên ngành sau: quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; quản trị lữ hành; điều hành tour du lịch; marketing du lịch; du lịch; du lịch lữ hành; quản lý và kinh doanh du lịch” [36].Luật Du lịch 2005 quy định doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịchphải có người điều hành có kinh nghiệm trong lĩnh vực lữ hành; việc xác định điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch thông qua bản xác nhận của doanh nghiệp lữ hành du lịch hoặc quyết định thôi việc hoặc giấy tờ đóng bảo hiểm. Tuy nhiên quy định này chưa có hình thức kiểm tra tính xác thực của các giấy tờ này. Nhiều trường hợp các giấy tờ xác nhận trên không đúng sự thật, khi kiểm tra doanh nghiệp mới phát hiện được và thực tế đã phải thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành du lịchcủa công ty làm giả hồ sơ. Tới Luật Doanh nghiệp 2017, quy định này đã được xóa bỏ tạo điều kiện thuận lợi hơn khi đăng kí kinh doanh dịch vụ lữ hành. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa: Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa đóng vai trò trung gian trong hoạt động du lịch, tác động đến nhiều mối quan hệ pháp luật, việc quy định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp lữ hành là cần thiết, nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đối với các sản phẩm du lịch, với các đối tượng cung cấp dịch vụ du lịch khác cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch. Quyền của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa được quy định tại Điều 37 Luật Du lịch 2017 như sau: - Được Nhà nước bảo hộ hoạt động kinh doanh du lịch hợp pháp khi doanh nghiệp kinh doanh lữ hành được thành lập theo đúng pháp luật.Không ai được phép tước quyền kinh doanh hợp pháp, cấm đoán trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp được bình đẳng với nhau trước pháp luật.  34 - Xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các dịch vụ du lịch, chương trình du lịch cho khách du lịch theo phạm vi kinh doanh quy định trong giấy phép. Nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa cũng được quy định tại Điều 37 Luật Du lịch 2017 như sau: -Mua bảo hiểm cho khách du lịchtrong thời gian thực hiện chương trình du lịch, trừ trường hợp khách du lịch đã có bảo hiểm cho toàn bộ chương trình du lịch. Kinh doanh lữ hành du lịch là hoạt động mà đối tượng phục vụ là con người, trong đó, yếu tố bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng của khách du lịch được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, theo Luật Du lịch 2005 quy định về việc mua bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với khách du lịch quốc tế, chưa áp dụng đối với khách du lịch nội địa. Nhiều trường hợp sự cố, tai nạn xảy ra đã để lại hậu quả đáng tiếc trong khi năng lực giải quyết của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa còn hạn chế, không có các quy định bắt buộc (như ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch nội địa...) để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa. Việc không bắt buộc doanh nghiệp phải mua bảo hiểm cho khách du lịch nội địa càng làm cho việc xử lý các vấn đề rủi ro với khách du lịch nội địa trở nên khó khăn, không bảo đảm được quyền lợi của khách du lịch. Tại Chương V, Mục 1, Điều 37, Luật Du lịch 2017 có quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành như sau: “Các doanh nghiệp lữ hành phải có trách nhiệm mua bảo hiểm cho khách du lịch trong thời gian thực hiện chương trình du lịch, trừ trường hợp khách du lịch đã có bảo hiểm cho toàn bộ chương trình du lịch”.Như vậy, Luật Du lịch 2018 đã yêu cầu các doanh nghiệp lữ hành đều phải mua bảo hiểm du lịch cho khách hàng. Quy định này áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Công khai tên doanh nghiệp, số giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành trên biển hiệu tại trụ sở, chi nhánh, văn phòng giao dịch, trong hợp đồng lữ hành, trên ấn phẩm quảng cáo, và trong giao dịch điện tử. - Thông báo về việc thay đổi người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành, gửi hồ sơ về người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành thay thế cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép trong thời hạn 15 ngày kể từ khi thay đổi.  ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH_10214312052019ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH_10214312052019

More Related Content

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH_10214312052019

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ TÂM ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội- 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ TÂM ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG Hà Nội- 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quý Trọng. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những số liệu trong bài phục vụ cho việc phân tích, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thị Tâm
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH ........................................................................................7 1.1. Khái quát về du lịch và hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch..............................7 1.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch và lý do việc quy định điều kiện kinh doanh với hoạt động du lịch.........................................................................................................17 1.3. Khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch24 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH.................................28 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Du lịch Việt Nam..............................28 2.2. Các quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch ..............................................30 2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại tỉnh Ninh Bình .....................................................................................................................................44 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA TỈNH NINH BÌNH ...................................................................................58 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch............................................................................................................................58 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam.............................................................................................................................61 3.3. Các giải pháp nâng cao hiểu quả thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch tại Việt Nam................................................................................................................65 KẾT LUẬN .......................................................................................................................69 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................70
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương BQL Ban quản lý GDP Tổng sản phẩm quốc nội GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn ISO Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Organization for Standardization) PATA Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương TCDL Tổng cục du lịch TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TNHH Trách nhiệm hữu hạn USD Đô la Mỹ UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNWTO Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization) WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nền kinh tế Thế giới đang chuyển sang giai đoạn“hậu công nghiệp”, phát triển theo hướng chuyển dịch cơ cấu sang ngành dịch vụ. Trong đó du lịch là một trong những ngành chiếm tỉ trọng lớn trong ngành dịch vụ. Ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước trên Thế giới nhưng vai trò của nó thì không thể phủ nhận. Du lịch là một ngành “công nghiệp không khói”, mang lại thu nhập GDP lớn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra toàn Thế giới. Sau hơn 20 năm, ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi diện mạo từng bước khẳng định tầm vóc trong nền kinh tế quốc dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy giao lưu văn hóa làm cho nhân dân thế giới hiểu biết thêm về đất nước con người Việt Nam, tranh thủ được sự thiện cảm và sự đồng tình ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đóng góp tích cực trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Kinh doanh dịch vụ du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp, có hiệu quả về cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Có thể nói rằng không có ngành kinh tế nào đi tắt đón đầu, đuổi kịp trình độ phát triểncủa các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về kinh tế nhanh bằng ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang có sự quan tâm đặc biệt đếnngành“công nghiệp không khói” này. Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ kinh doanh dịch vụ và quản lý nhà nước về du lịch, tạo một môi trường pháp lý kinh doanh lành mạnh, đa dạng, mở cửa cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch. Luật Du lịch năm 2005 đã hết hiệu lực và thay thế bằng Luật Du Lịch 2017 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2017 đã có những thay đổi đáng kể, theo kịp được với những thay đổi của thực tiễn trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Trong các thành phố du lịch thì Ninh Bình được xem là một điểm đến lý tưởng với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi, có các tiềm năng và thế mạnh để phát triển
  • 7. 2 các loại hình dịch vụ du lịch, đóng góp không nhỏ trong việc tăng nguồn thu ngân sách. Tài nguyên du lịch của Ninh Bình tương đối phong phú, đa dạng bao gồm hệ thống núi đá vôi, rừng, hồ, các di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng. Đây chính là điều kiện rất tốt để phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch, có sức hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Phát huy lợi thế đó, trong những năm qua, Ninh Bình đã tập trung đầu tư phát triển du lịch đồng bộ trên cả ba nội dung: xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, xây dựng hệ thống cơ sở và đội ngũ nhân viên ngành du lịch. Ngày 13/07/2009, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU về phát triển du lịch Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Với sự quan tâm chỉ đạo sát sao và được đầu tư thích đáng, các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch đã phát triển một cách nhanh chóng. Tuy nhiên trong giai đoạn chuyển giao giữa luật cũ và luật mới vẫn bộc lộ những hạn chế gây ra khó khăn không nhỏ đến sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng. Thực tế trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về kinh doanh dịch vụ du lịch đặc biệt là trong kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú tại tỉnh Ninh Bình cần đặt ra các vấn đề cần làm rõ những cơ sở lý luận và luận cứ thực tiễn để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Với những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liênquan đến đề tài Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn về kinh doanh dịch vụ du lịch mà trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Minh Đức (2007) “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du lịch tỉnh Sơn La trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thị Mai Phước năm 2007: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010) “Xử lý vi phạm hành chính trong lịch vực du lịch’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học Phạm Văn Minh (2015) “Hoạt động kinh doanh lữ hành
  • 8. 3 theo luậtdu lịch 2005 từ thực tiễn thànhphố Hà Nội”; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị Hiền năm 2012 “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Vietsovpetro”(2012)... Ngoài ra, qua nghiên cứu các bài viết, tạp chí liênquan tác giả còn tiếp cận được một số bài báo đăng trên các tạp chí như Hoàng Thị Lan Hương (2010), "Một số bất cập trong hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch", đăng trên Tạp chí Du lịch Việt Nam số 11; hay một số bài viết trên các tờ báo điện tử, chẳng hạn như bài viết "Những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh lưu trú du lịch khi luật du lịch thực thi” của tác giả Đỗ Thị Hồng Xoan...Các công trình nghiên cứu, các bài viết tạp chí trên phần lớn mới chỉ tập trung vào phân tích sự quản lý nhà nước trong kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật trong kinh doanh du lịch nói chung, hoặc so sánh đánh giá sự thay đổi giữa pháp lệnh Du lịch 1999 và Luật Du lịch 2005, các cam kết khi gia nhập WTO đối với dịch vụ kinh doanh du lịch. Dưới góc độ luật học, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu này chưa đi sâu phân tích pháp luật về điều kiện kinh doanh điều chỉnh trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch một cách cụ thể đặc biệt là khi Luật Du lịch mới đã có hiệu lực vào ngày 01/01/2018. Dù vậy, các nghiên cứu này là những tài liệu tham khảo quan trọng, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu sâu hơn các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch nói riêng. Chính vì vậy, tác giả cho rằng đây là đề tài rất sát thực, không trùng lập với các đề tài trước đó, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý ở cấp luận văn thạc sĩ luật học đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hội nhập hiện nay. Bên cạnh đó, qua việc đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tại địa bàn tỉnh Ninh Bình để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch thời gian tới.
  • 9. 4 Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tập trung vào hai loại hình kinh doanh dịch vụ lữ nội địa và lưu trú tại Việt Nam hiện nay. - Phân tích đánh giá nội dung, kết quả đạt được cũng như khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại địa bàn tỉnh Ninh Bình. - Đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện cũng như thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. Đồng thời luận văn đánh giá, nhận xét thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Bình những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh qua hai loại hình kinh doanh dịch vụ là lữ hành nội địa và lưu trú du lịch theo pháp luật Việt Nam hiện nay qua thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình. Bên cạnh đó, luận văn sẽ phân tích, đánh giá khái quát về thực trạng áp dụng pháp luật, xác định định hướng, giải pháp hoàn thiện cũng như thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành và kinh doanh lưu trú tại Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
  • 10. 5 - Phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. - Phương pháp so sánh: So sánh những quy định của Luật Du lịch 2005 và Luật Du lịch 2017 qua đó làm rõ về những yếu tố cấu thành các điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch. - Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các văn bản pháp luật khác nhau, các nhận định của các chuyên gia, các công trình nghiên cứu trước đó, cũng như tổng hợp các số liệu về kinh doanh dịch vụ du lịch. - Phương pháp lịch sử: Nhìn lại quá trình thay đổi, cải cách về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. Từ các phương pháp trên, tác giả có được kết quả để đánh giá và nghiên cứu những nội dung cơ bản của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Từ việc tiếp cận các thông tin trên cơ sở tham khảo các bài viết lý luận, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014, Luật Du lịch 2017 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan, đồng thời so sánh, phân tích, đánh giá từ thực tiễn áp dụng, tác giả sẽ đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam, góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch trên địa bàn một tỉnh, lấy Ninh Bình làm điển hình. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, tư liệu bổ sung cho các cơ quan và cá nhân trong những buổi hội thảo, tập huấn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam, đồng thời cũng là kênh thông tin cho những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có thể tham khảo để dễ dàng tiếp cận, tham gia vào thị trường kinh doanh du lịch tại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu rộng như hiện nay.
  • 11. 6 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Danh mục tài liệu viết tắt, phần chính của luận văn gồm có 03 chương với những nội dung cơ bản sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch từ thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch của tỉnh Ninh Bình.
  • 12. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH 1.1. Khái quát về du lịchvà hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch Khoa học phát triển luôn phải gắn liền với việc xây dựng hệ thống các khái niệm. Bởi lẽ, khái niệm vừa là kết quả của tư duy khoa học vừa là phương tiện để để tư duy. Do đó khi nghiên cứu pháp luật về điềukiện kinh doanh dịch vụ du lịch chúng ta phải hiểu về những khái niệm cơ bản được sử dụng phổ biến và rộng rãi trong du lịch. 1.1.1. Khái niệm về du lịch Từ giữa thế kỉ XIX, du lịch phát triển mạnh và ngày nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa xã hội của các quốc gia. Đối với các nước đang phát triển du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của các quốc gia. Trước thực tế phát triển của du lịch, việc nghiên cứu thảo luận để đi đến thống nhất một số khái niệm cơ bản về du lịch, trong đó khái niệm về du lịch là một đòi hỏi cần thiết. Thuật ngữ “du lịch” được bắt nguồn từ tiếng Pháp: “Tour” nghĩa là đi vòng quanh, là cuộc dạo chơi, còn “ touriste”là người dạo chơi. Trong tiếng Anh “to tour” có nghĩa là đi dã ngoại đến một nơi nào đó. Mặt khác, theo nhà sử học Trần Quốc Vượng “du lịch” là từ Hán-Việt, có thể coi là từ ghép giữa “du” là đi chơi với “lịch” là sự lịch lãm, hiểu biết. Có quan niệm cho rằng, du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa[37]. Tại Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa–Canada (6/1991) đã đưa ra định nghĩa:“Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mục đích của chuyến
  • 13. 8 đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”[11]. Từ cách tiếp cận các khái niệm trên, các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch gồm: - Khách du lịch; - Các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho khách du lịch; - Chính quyền sở tại; - Cộng đồng dân cư địa phương; Xem xét dưới khía cạnh kinh tế theo như đánh giá của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Varna, Bulgarie: “Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội được lặp đi lặp lại đều đặn chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hóa của các đơn vị kinh tế riêng biệt, độc lập - đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất kĩ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống nghỉ ngơi với mục đích thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thầncủa những người lưu trú ngoàinơi ở thường xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hóa, chính trị, kinh tế…) mà không có mục đích lao động kiếm lời”[11]. Như vậy, khái niệm du lịch theo quy định của Việt Nam có phạm vi khá hẹp, với bốn mục đích chính là tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng. Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2017 đưa ra định nghĩa tại khoản 1 Điều 3 như sau:“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”[27]. Từ các khái niệm trên tác giả cho rằng có rất nhiều khái niệm về du lịch và đều được định nghĩa theo nghĩa rộng, không phải tất cả các hoạt động đi lại khỏi nơi cư trú đều là du lịch, việc du lịch được giới hạn lại bởi không gian, thời gian, mục đích như tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghĩ dưỡng ở nơi khác, có thời gian cụ thể, khi hết thời gian này thì chủ thể tham gia du lịch sẽ trở lại nơi xuất phát bán đầu (nơi thường trú). Các hoạt động như đi xa vì công việc, đi chữa bệnh, đi du học... đều
  • 14. 9 không phải là du lịch. Khái niệm du lịch theo quy định của pháp luật của Việt Nam được giới hạn hẹp hơn với 4 mục đích chính là tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng. Hay nói cách khác du lịch phát sinh từ nhu cầu của người đi, thực hiện sự di chuyển ra ngoài nơi cư trú thường xuyên, từ nơi này đếnnơi khác bằng bất kỳ phương tiện nào với mục đích tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghĩ dưỡng có thời gian cụ thể và có sự trở về nơi xuất phát ban đầu. 1.1.2. Nhận diện kinh doanh dịch vụ du lịch 1.1.2.1. Khái niệm Trước khi tìm hiểu về hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, có thể thấy “kinh doanh” là thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống kinh tế của các nước trên Thế giới cũng như ở Việt Nam. Khái niệm “kinh doanh” chính thức đã được pháp luật Việt Nam sử dụng từ năm 1990 trong Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 1999, khái niệm “kinh doanh” một lần nữa được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp như sau: “Kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”[19]. Luật Doanh nghiệp 2014 đưa ra khái niệm cụ thể hơn về kinh doanh như sau:“Kinh doanh là việc thực hiện liên tụcmột, một số hoặctất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”[25]. Theo đó, kinh doanh bao hàm cả các hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa, các hoạt động sản xuất, gia công, đầu tư hay các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi. Cách hiểu này khá tương đồng với khái niệm thương mại được nêu ra trong Luật Thương mại sửa đổi năm 2005khi quy định hoạt động thương mại “là hoạtđộng nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”[22]. Như vậy, hiện nay khái niệm kinh doanh được hiểu như là hoạt động thương mại theo nghĩa rộng. Vào những thế kỉ trước, người ta chỉ quan niệm hoạt động du lịch là một hoạt động mang tính chất văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí, hiểu biết của con người, hoạt động du lịch vốn không được coi là hoạt động kinh tế, không mang tính chất kinh doanh và ít được đầu tư phát triển. Ngày nay, du lịch được xem là một ngành
  • 15. 10 kinh tế tổng hợp quan trọng, bao gồm các hoạt động khá đa dạng từ dịch vụ phòng nghỉ, ăn uống, mua bán đồ lưu niệm, hàng hóa,… các dịch vụ này được gọi chung là hoạt động du lịch. Trên cơ sở tổng hợp lý luận và thực tiễn hoạt động du lịch tại Việt Nam trong thời gian nhiều năm trở lại đây, Luật Du lịch 2017 đã định nghĩa hoạt động du lịch “là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên qua đến du lịch”[27]. Hoạt động của khách du lịch nghĩa là việc di chuyển và lưu trú tạm thời của người đi du lịch đến một nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ để tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật…Các tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch là những người tổ chức lưu trú, ăn uống, hướng dẫn tham quan, vận chuyển đưa đón du khách, kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ khác… nhằm mục tiêu sinh lợi; Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh việc phát triển ngành du lịch thì cũng kéo theo các loại hình dịch vụ liên quan. Theo định nghĩa của ISO 9001:1991 dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Dịch vụ có thể được tiến hành nhưng không gắn liềnvới sản phẩm vật chất [11]. Theo Điều 38, Luật Du lịch năm 2005 quy định kinh doanh du lịch là kinh doanh dịch vụ bao gồm các ngành, nghề sau đây: - “Kinh doanh lữ hành; - Kinh doanh lưu trú du lịch; - Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; - Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch; - Kinh doanh dịch vụ du lịch khác”. Khi Luật Du lịch 2017 được ban hành và có hiệu lực 01/01/2018 thì không còn riêng một điều luật quy định cụ thể các hình thức kinh doanh dịch vụ du lịch thay vào đó tại Chương V Luật Du lịch 2017 có quy định các mục về từng hình thức kinh doanh du lịch bao gồm: (1) Kinh doanh dịch vụ lữ hành (2) Kinh doanh vẫn tải khách du lịch
  • 16. 11 (3) Kinh doanh lưu trú du lịch (4) Kinh doanh dịch vụ du lịch khác (như dịch vụ ăn uống, dịch vụ mua sắm, dịch vụ thể thao, dịch vụ vui chơi, giải trí, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ liên quan khác phục vụ khách du lịch). Căn cứ vào chức năng, tính chất hoạt động, ngành nghề (2),(3),(4)được xếp vào nhóm các nhà cung ứng dịch vụ du lịch, còn (1) được xếp vào nhóm nhà phân phối sản phẩm du lịch. Như vậy, có thể hiểu các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch bao gồm các hình thức sau: Thứ nhất, dịch vụ lữ hành Dịch vụ lữ hành gồm các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao dịch kí kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”[11]. Trong đó tồn tại song song hai hoạt động phổ biến sau: - Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thành lập các chương trình du lịch trọn gói, hay từng phần; quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch. Vì vậy hoạt động kinh doanh lữ hành có các đặc trưng sau: + Sản phẩm lữ hành có tính chất tổng hợp: sản phẩm lữ hành là sự kết hợp của nhiều loại dịch vụ như: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống… của các nhà sản xuất riêng lẻ thành một sản phẩm mới hoàn chỉnh. + Chương trình du lịch không thể chuyển quyền sở hữu. Từ việc chỉ được sử dụng hàng hóa dịch vụ nào đó đồng nghĩa với việc khách hàng không có quyền sở hữu cơ sở hạ tầng dùng để sản xuất dịch vụ đó. Pháp luật du lịch phải điều chỉnh các ngành nghề kinh doanh du lịch một cách riêng biệt, có cơ quan quản lý trực tiếp vì tính trừu tượng, phi vật chất của sản phẩm du lịch... Từ các lý do trên mà nhà nước, chính phủ đã kịp thời điều chỉnh hoạt động của các nhà kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh lữ hành nói riêng để nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển ngành du lịch cả nước. Theo quy định của pháp luật điều chỉnh, các doanh nghiệp cung cấp
  • 17. 12 chương trình du lịch phải cung cấp đầy đủ thông tin dịch vụ, công khai giá cả dịch vụ cũng nhấn mạnh lợi ích mà dịch vụ mang lại. Doanh nghiệp lữ hành hoạt động trong khuôn khổ pháp lý phù hợp mà nhà nước quy định sẽ đem tới cho khách du lịchnhững sản phẩm tốt nhất, đảm bảo quyền lợi của đôi bên. + Các công ty lữ hành sẽ là trung gian liên kết các sản phẩm du lịch thành một sản phẩm du lịch trọn gói. Khách hàng chọn sản phẩm du lịch này sẽ đương nhiên chọn các dịch vụ được liên kết trong gói dịch vụ này. Nội dung đặc trưng và cơ bản nhất của hoạt động kinh doanh lữ hành đó chính là kinh doanh các chương trình du lịch trọn gói. Các công ty lữ hành nghiên cứu thị trường và tổ chức các chương trình du lịch. Các tổ chức tìm hiểu về sở thích, thị hiếu, quỹ thời gian nhàn rỗi, thời điểm và nhu cầu, đặc điểm tiêu dùng, khả năng thanh toán của du khách cùng với việc nghiên cứu các yếu tố về du lịch trên thị trường (nghiên cứu về tài nguyên du lich, khả năng tiếp cận các điểm hấp dẫn du lịch, khả năng đón tiếp của nơi đến du lịch) và các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trên thị trường để tiến hành sản xuất các chương trình du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sau khi xây dựng và tính toán xong giá một chương trình du lịch các doanh nghiệp cần tiến hành quảng cáo và chào bán (bán trực tiếp nghĩa là các doanh nghiệp lữ hành trực tiếp bán các chương trình du lịch của mình cho khách hàng hoặc doanh nghiệp quan hệ trực tiếp với khách hàng thông qua các hợp đồng bán hàng hoặc thông qua các hợp đồng ủy thác để nhận bán chương trình du lịch của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành cho khách du lịch để hưởng hoa hồng. Khi thực hiện chương trình du lịch theo hợp đồng đã kí kết thì doanh nghiệp cần có những chuẩn bị nhất định về: hướng dẫn viên, các thông tin về đoàn khách, các lưu ý về hành trình và các yếu tố cần thiết khác. Vì vậy hướng dẫn viên phải là người có khả năng làm việc độc lập, có trình độ nghiệp vụ, phải có những kiến thức hiểu biết lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế, luật pháp và những hiểu biết nhất định về tâm lý khách hàng, về y tế…để ứng xử và quyết định kịp thời các yêu cầu của khách và đảm bảo chương trình du lịch được thực hiện đúng hợp đồng. Cuối cùng, các doanh nghiệp thanh quyết toán hợp đồng và rút kinh nghiệm về thực hiện hợp đồng. Sau khi chương trình du lịch kết thúc, doanh nghiệp lữ hành cần làm thủ tục thanh quyết toán hợp đồng trên cơ sở quyết
  • 18. 13 toán tài chính và giải quyết các vấn đề phát sinh con tồntại, tiếnhành rút kinh nghiệm về thực hiện hợp đồng. - Kinh doanh đại lý lữ hành (Travel Sub-agency Business) là việc thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng. Thứ hai, dịch vụ lưu trú du lịch Kinh doanh lưu trú du lịch là hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú của khách du lịch. Dịch vụ này được thực hiện tại các cơ sở lưu trú du lịch, gồm: Khách sạn; Biệt thự du lịch; Căn hộ du lịch; Tầu thủy lưu trú du lịch; Bãi cắm trại du lịch; Nhà nghỉ du lịch; Nhà ở có phòng cho khách thuê; và các cơ sở lưu trú du lịch khác[27]. Thứ ba, kinh doanh vận tải khách du lịch (Transportation) Kinh doanh vận tải khách du lịch là việc“cung cấp dịch vụ vận tải đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa, đường bộ chuyên phục vụ khách du lịch theo chương trình du lịch tại các khu du lịch, điểm du lịch”[27]. Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ, với một khoảng cách xa. Do vậy khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng, không thể không đề cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau như: Ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay… Thực tế cho thấy ít có doanh nghiệp du lịch (trừ một số tập đoàn du lịch trên thế giới) có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch. Phần lớn trong các trường hợp, khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển. Đây cũng là một loại hình kinh doanh có điều kiện. Thứ tư, dịch vụ du lịch khác. Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình dịch vụ ăn uống, mua sắm, thể thao, vui chơi giải trí; tuyên truyền, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ liên quan khác phục vụ khách du lịch... Cùng với xu
  • 19. 14 hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp du lịch dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. Như vậy, từ những phân tích trên có thể khẳng định: Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch, thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ [14]. Cụ thể, đó là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. 1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch: Thứ nhất: Kinh doanh du lịch mang đầy đủ tính chất của một ngành thương mại dịch vụ. Du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người, nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng nhu cầu sinh lý và nhu cầu tinh thần. Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội, làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như chất lượng cuộc sống con người ngày càng được cải thiện. Từ đó, hoạt động du lịch đã trở thành một nền kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển và đang phát triển, tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên. Sản phẩm và quá trình sản xuất của nó vừa mang những đặc điểm chung của dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng của dịch vụ du lịch. Thứ hai: Du lịch là một loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch. Dịch vụ du lịch thường là những dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ sung. Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ mà nhà cung ứng du lịch cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn các nhu cầu cơ bản không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng… Dịch vụ bổ sung là những dịch vụ cung cấp cho khách nhằm thỏa mãn các nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung của khách du lịch. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ
  • 20. 15 đời sống nhằm thỏa mãn các nhu cầu cao cấp của con người, làm cho con người sống ngày càng phong phú hơn. Thứ ba: Tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch Tính thời vụ trong hoạt động du lịch có thể hiểu là những thay đổi lặp đi lặp lại hằng năm của cung cầu du lịch. Tính thời vụ của hoạt động du lịch bị ảnh hưởng bởi các nhân tố tự nhiên, nhân tố xã hội- kinh tế - tâm lý, nhân tố mang tính tổ chức - kĩ thuật.Các nhân tố trên thông thường vừa tác động riêng lẻ, vừa tác động đồng thời, trong thực tế mùa du lịch thường chịu ảnh hưởng của một vài nhân tố cùng một lúc. Vì vậy cũng cần hiểu rõ các mối liên hệ và ràng buộc qua lại giữa các yếu tố ảnh hưởng tới độ dài mùa của từng loại hình du lịch. Từ đó để tìm ra được mọi khả năng kéo dài mùa kinh doanh du lịch hoạt động trong cả năm, nâng cao chất lượng phục vụ và tăng nguồn thu cho doanh nghiệp du lịch. Thứ tư: Đối tượng phục vụ của ngành du lịch luôn di động và phức tạp Do khách hàng rất muốn chăm sóc như là những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hóa và không đồng nhất. Vì vậy, cảm giác của sự tin tưởng, mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn so với khi mua bán những hàng hóa khác. Mức độ hài lòng của khách hàng phụ thuộc vào sự sẵn sàng và khả năng phục vụ của nhân viên, thái độ và sự giao tiếp với khách hàng còn quan trọng hơn cả những tiêu chí kĩ thuật. Vì vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản xuất với khách hàng. Thứ năm: Kinh doanh du lịch là ngành kinh tế tổng hợp. Du lịch được coi là một ngành kinh tế kinh doanh tổng hợp: sản xuất, trao đổi hàng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và các nhu cầu khác của khách du lịch. Do tính chất tổng hợp của kinh doanh du lịch mà hoạt động này chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của rất nhiều ngành kinh tế. Tiểu thủ công nghiệp cung cấp cho du lịch các đồ lưu niệm làm cho các sản phẩm du lịch phong phú hơn, hải quan, công an kiểm soát và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bưu chính viễn thông giúp quảng bá cho du lịch, giáo dục giúp thay đổi nhận thức của người dân về du lịch, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao…
  • 21. 16 Thứ sáu: Việc tiêudùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trongcùng một thời gian và không gian Đây là một đặc điểm quan trọng, thể hiện sự khác biệt giữa các dịch vụ và hàng hóa. Người ta có thể sản xuất ở một nơi khác và một thời gian khác với nơi bán và nơi tiêu thụ còn đối với dịch vụ du lịch thì không như vậy. Trong du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ tới cho khách hàng mà tùy vào nhu cầu của bản thân, khách hàng tự tìm tới nơi cung cấp dịch vụ du lịch. Chính vì vậy, du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm trước, nó là một sản phẩm trừu tượng mà họ chưa một lần tiêu dùng nó. Dịch vụ du lịch luôn đồng hành với sản phẩm vật chất nhưng không thay đổi tính phi vật chất của mình. Từ đặc điểm này, nên các nhà cung ứng dịch vụ du lịch phải cung cấp đầy đủ các thông tin nhấn mạnh tính lợi ích của dịch vụ mà không đơn thuần là mô tả dịch vụ, từ đó làm cho du khách quyết định mua dịch vụ của mình. Vì vậy khi xây dựng các điểm du lịch cần chú ý tới các điều kiện tự nhiên (như địa hình, địa chất, thủy văn, khí hậu, tài nguyên, môi trường sinh thái…) và điều kiện xã hội (dân số, dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung ứng lao động, cơ sở hạ tầng…) nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Đồng thời phải tiến hành các hoạt động xúc tiến và quảng bá mạnh mẽ để thu hút khách đến với du lịch. Cuối cùng: Du lịch chỉ phát triển trong môi trường hòa bình và ổn định Du lịch là lĩnh vực nhạy cảm với những vấn đề chính trị, xã hội. Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh, sự bất ổn về chính trị sẽ ngăn cản các hoạt động du lịch. Hòa bình, ổn định chính là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch[13]. Ví dụ tiêu biểu như vụ khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ, khủng bố tại đảo Bali- Indonêxia, sự kiện “ đảo chính” ở Thái Lan… đã làm cho ngành du lịch các nước này lao đao sau nhiều năm mới phục hồi. Mặt khác, tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi trường …cũng là những nhân tố rất quan trọng tác động tới kinh doanh du lịch.
  • 22. 17 1.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịchvà lý do quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịchdu lịch. 1.2.1. Khái niệm điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Trong xu thế phát triểncủa nền kinh tế thị trường, việc mở rộng hành lang pháp lý trong kinh doanh luôn được ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên Thế giới. Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh tại Điều 57“Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”[18]. Nhiều nghiên cứu cho rằng, quyền tự do kinh doanh có nhiều ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì đây là sự tự do trong hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất của cải vật chất cho xã hội, mà hoạt động kinh tế giữ một vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định hay ảnh hưởng các mặt hoạt động của quốc gia[3]. Tuy nhiên quyền tự do kinh doanh luôn gắn liền với một hệ thống pháp luật cụ thể, một quốc gia nhất định và trong một nước có pháp luật tự do nghĩa được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm[2]. Trong bối cảnh đó quan niệm về tự do kinh doanh và giới hạn quản lý của nhà nước đối với sự phát triển của thị trường luôn có những bước phát triển mới. Và với mỗi giai đoạn phát triển, pháp luật lại có những thay đổi trong việc nhận định lại nội hàm của quyền tự do kinh doanh. Một lẽ đương nhiên khi quyền tự do kinh doanh của cá nhân được mở rộng, pháp luật phải thay đổi cách thức và nội dung quản lý nhà nước đối với thị trường[32]. Sau gần 30 năm kể từ ngày đổi mới, đây chính là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Việt Nam ghi nhận và tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân được thể chế hóa trong Hiến Pháp. Mặc dù còn hạn chế ở phạm vi tự do kinh doanh, khi các chủ thể kinh doanh chỉ được “tự do” kinh doanh trong lĩnh vực mà pháp luật cho phép, song so với các quan điểm quản lý kinh tế vào thời kì trước, đây cũng đã được xem là bước tiến đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đã chủ động ghi nhận quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cụ thể của quyền con người. Đến Hiến pháp 2013, quyền tự do kinh doanh đã có một bước tiến mới, thông thoáng hơn, cởi mở hơn khi quy định tại Điều 33 “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” [23]. Hiến pháp 2013 đãđặt đúng vị trí quyền con người như là chế định cơ bản, bao gồm các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa,
  • 23. 18 xã hội, phù hợp với mong muốn của người dân, tương thích với thế giới văn minh thời kì hội nhập, với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia. Nói cách khác, để giới hạn quyền tự do kinh doanh, Nhà nước cần phải có cơ sở pháp lý minh bạch, rõ ràng, thể hiện cam kết của Nhà nước Việt Nam đối với toàn dân, với quốc tế trong thời kì đổi mới và hội nhập sâu rộng. Hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 đã được xây dựng với phương thức tiếp cận theo hướng đơn giản hóa điều kiện và thủ tục đăng kí kinh doanh, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết, tự chủ trong hoạt động của doanh nghiệp. Tại khoản 1, Điều 7, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định doanh nghiệp có quyền được “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” [25]. Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành cho phép doanh nghiệp được quyền lựa chọn để kinh doanh tất cả các ngành, nghề; trừ một số ngành nghề có thể gây ảnh hưởng xấu tới an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục được liệt kê trong danh mục ngành nghề cấm kinh doanh. Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh không phải là tuyệt đối, nó cũng như nhiều quyền khác, phải tuân theo nguyên tắc “Quyền của cá nhân, tổ chức này không được gây phương hại đến quyền của cá nhân, tổ chức khác” và vì vậy trong một số trường hợp phải được giới hạn. Việc giới hạn quyền tự do kinh doanh phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản, phù hợp với thế giới văn minh, theo hướng Nhà nước “tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền tự do kinh doanh” chứ không phải Nhà nước quản lý quyền đó theo hướng “quản được đến đâu thì cho phép mở rộng quyền đến đó”. Các nguyên tắc giới hạn quyền tự do kinh doanh phải đảm bảo vì mục đích chính đáng, bảo đảm sự phù hợp giữa giới hạn quyền và mục đích đặt ra, cuối cùng phải đảm bảo được sự công bằng giữa lợi ích thu được với giới hạn quyền[14]. Luật Đầu tư 2014 đã cụ thể hóa nguyên tắc hạn chế quyền tự do kinh doanh với Điều 6 “nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành nghề mà Luật này không cấm”[24]. Chế định pháp luật về điều kiện kinh doanh hiện nay đã có nhiều điểm mới mang tính đột phá, đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm tháo gỡ
  • 24. 19 các hạn chế, bất cập của luật cũ, tiếp tục hướng tới việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với các thông lệ quốc tế. Để tìm hiểu về khái niệm điều kiện kinh doanh, trước tiên cần phải hiểu được khái niệm về điều kiện. Theo Từ điển Tiếng Việt, điều kiện là “cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra”[17]. Như vậy, có thể hiểu điều kiện chính là những yếu tố tiên quyết, mang tính quyết định đối với sự xuất hiện của một sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó. Khái niệm về điều kiện kinh doanh được quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005, “Điều kiệnkinh doanhlà yêucầu mà doanhnghiệpphảicó hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”[20]. Tuy nhiên tới Luật Doanh nghiệp 2014 không nêu ra định nghĩa hay khái niệm về điều kiện kinh doanh hoặc những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà thay vào đó đã được cụ thể hóa trong Luật Đầu tư 2014 tại khoản 1 Điều 7”Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [24]. Như vậy, điều kiện kinh doanh được hiểu là những yêu cầu nhà nước đặt ra buộc các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng được khi thực hiện kinh doanh trong những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 7, Luật Đầu tư cũng liệt kê và tổng hợp các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện bao gồm 243 ngành, nghề kinh doanh đồng thời các điềukiện kinh doanh phải được quy định tại “các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, các nhân kháckhôngđược ban hànhquy định về điều kiệnđầu tư kinh doanh” [24]. Hình thức áp dụng của điều kiện đầu tư kinh doanh được quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 118/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư như sau: “1) Giấy phép kinh doanh; 2) Giấy chứng nhận đủ điều kiệnkinh doanh;3) Chứng chỉ hànhnghề; 4) Chứng nhậnbảo hiểm trách nhiệm
  • 25. 20 nghề nghiệp; 5) Xác nhận vốn pháp định; 6) Các hình thức văn bản khác theo quy định của pháp luật ngoài các hình thức điều kiện trên; 7) Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinhtế phảiđáp ứng để thực hiện hoạt độngđầu tư kinh doanhmà khôngcần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức văn bản”[5]; Các quy định nhằm tạo hiệu quả và tối ưu hóa việc nhà nước quản lý hoạt động kinh tế, tạo lập nên một khung pháp lý để các chủ thể kinh doanh được đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Thông qua các chế định pháp luật về điều kiện kinh doanh, Nhà nước có thể điều tiết được hoạt động sản xuất - kinh doanh, giữ được sự phát triển ổn định bền vững cho nền kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là yêu cầu mà các tổ chức, cá nhân phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh dịch vụ du lịch được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thể hiện bằng các hình thức theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Lý do quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Hiến pháp 2013 đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh là quyền con người và là một trong những quyền cơ bản của công dân. Song đối với việc kinh doanh trong một số ngành, nghề nhất định mặc dù tinh thần “được tự do kinh doanh” nhưng các chủ thể kinh doanh cần đáp ứng được các điều kiện nhất định đối với ngành, nghề đó. Ngày nay, sự phát triển du lịch đem lại hiệu quả kinh tế cao do nó khai thác những giá trị tài nguyên sẵn có cả về tự nhiên và nhân văn. Trong quá trình khai thác những tài nguyên du lịch không bị mất đi nếu biết bảo tồn gìn giữ và cũng không gây ô nhiễm môi trường như một số ngành kinh tế khác. Kinh doanh dịch vụ du lịch cũng như bao ngành nghề khách đều phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó, kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa và lưu trú du lịch là một ngành nghề đặc thù, tác động đến nhiều lợi ích chung của cộng đồng cũng như tác động đến nhiều doanh nghiệp kinh doanh du lịch khác. Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh cũng như hài hòa các quyền lợi khác như kinh tế, an ninh, trật tự xã hội, môi trường, danh lam thắng cảnh việc đăng ký kinh doanh lữ hành và lưu trú cần phải đảm bảo điều kiện do pháp luật quy định. Tạo ra các điều kiện kinh doanh lữ hành và
  • 26. 21 lưu trú du lịch là cần thiết, chính vì thế mà Luật Du lịch 2017 có quy định về điềukiện kinh doanh lữ hành tương ứng với 3 mô hình kinh doanh lữ hành là kinh doanh lữ hành nội địa(khoản 1, Điều31),kinh doanh lữ hành quốc tế(khoản 2, Điều 31)và kinh doanh đại lý lữ hành (Điều40) cũng như kinh doanh lưu trú du lịchtại Điều 49. Pháp luật quy định về các điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch dựa trên tính đặc thù cũng như vai trò của ngành du lịch: - Đối với kinh tế: Hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của một đất nước, một vùng, một địa phương thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Đồng thời, thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp (như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi…). Du lịch luôn đòi hỏi hàng hóa chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức góp phần phát triển thị trường sản xuất hàng hóa. Mặt khác, thị trường du lịch rất rộng lớn với nhu cầu hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng, khả năng thanh toán của khách hàng khá cao. Thị trường du lịch hoạt động trong không gian lãnh thổ như thị trường nội địa, nhưng thị trường này lại có khả năng “xuất khẩu tại chỗ” thu vào ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Sự phát triển của du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác. - Đối với chính trị: Du lịch góp phần củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, tăng cường sự hiểu biết về đất nước, con người lịch sử truyền thống dân tộc, về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước mà du khách đến thăm. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau, các hoạt động kinh doanh du lịch theo chủ đề được thực hiện, kêu gọi hàng triệu triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
  • 27. 22 Do vậy, năm 1979, Đại hội của UNWTO đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới. - Đối với văn hóa, xã hội: Du lịch là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội của con người, có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống cho nhân dân. Du lịch góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế vùng có hoạt động du lịch và giảm quá trình đô thị hóa. Dựa vào việc tài nguyên du lịch tự nhiên có ở các vùng hẻo lánh, xa xôi, vùng ven biển…Việc khai thác đưa những tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phải đầu tư về mọi mặt giao thông, bưu điện, kinh tế văn hóa, xã hội… Do vậy mà việc phát triểndu lịch sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội giữa các vùng trong cả nước, giảm đi sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng đó, đồng thời góp phần làm giảm đi sự tập trung dân cư ở những trung tâm dân cư. Thông qua việc sử dụng các dịch vụ du lịch, khách du lịch sẽ thường xuyên tiếp xúc với người dân địa phương làm tăng thêm tình đoàn kết hữu nghị. Du lịch còn làm phong phú thêm khả năng thẩm mỹ, sự hiểu biết của con người khi họ được tham quan các kho tàng mỹ thuật, di tích lịch sử văn hóa. Bên cạnh đó, du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống của dân tộc từ đó có ý nghĩa rất to lớn đối với việc khai thác và bảo tồn các di sản văn hóa của dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội. - Đối với môi trường sinh thái: Vai trò sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và hoạt động của con người. Việc đẩy mạnh hoạt động du lịch tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định lại đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Lúc này con người phải đặt ra vấn đề trong việc bảo vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
  • 28. 23 Môi trường và xã hội trong lĩnh vực du lịch luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Làm du lịch và bảo vệ môi trường là hai hoạt động gần gũi, tương hỗ liên quan với nhau. Môi trường có ổn định, có lành mạnh thì du lịch mới tạo đà phát triển. Bên cạnh những lợi ích to lớn của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta thì du lịch vẫn còn tồn tại những điểm tiêu cực buộc nhà nước phải đặt ra những điều kiện cho hoạt động kinh doanh du lịch để nhằm mục đích quản lý, kiểm tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy rằng việc phát triển du lịch quốc tế một cách thụ động qua tải dẫn đến việc làm mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, gây áp lực cho việc lạm phát. Ngành du lịch mang tính thời vụ do đó ảnh hưởng rất lớn tới việc sử dụng lao động, tạo ra sự mất cân đối do tính thời vụ trong hoạt động du lịch. Ngoài ra, du lịch làm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến tài nguyên của đất nước do khai thác quá mức hoặc không hợp lý. Sức chứa của nhiều địa bàn du lịch đã quá tải. Ô nhiễm nước và không khí do nước thải, tràn dầu, do chất thải, khí thải của phương tiện vận tải như tàu thuyền, ôtô, xe máy, nuôi trồng thủy sản. Rừng bị tàn phá để đầu tư xây dựng các khu du lịch, để cung cấp nguyên vật liệu và đáp ứng nhu cầu ẩm thực. Từ đó gây ảnh hưởng tới tính đa dạng sinh học. Phá hủy nơi cư trú (trênmặt đất hoặc biển) do giải phóng mặt bằng hoặc quy hoạch xây dựng hạ tầng, cơ sở dịch vụ. Xáo trộn cuộc sống hoang dã hủy hoại thực vật do đi lại và phương tiện. Di sản thiên nhiên và văn hóa cũng như tính đa dạng của các nền văn hóa đang tồn tại tạo ra lực hấp dẫn to lớn đôi khi tạo nên sự phát triển tùy ý, không được kiểm soát của các dịch vụ du lịch đe dọa tới tính toàn vẹn của tự nhiên và ý nghĩa của di sản. Mặt khác, du lịch phát triển nhanh nhưng quản lý yếu kém sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Nhiều tệ nạn xã hội, các loại hình kinh doanh không lành mạnh trong nhà hàng, khách sạn cũng ngày càng tăng. Du lịch là con đường mà các thế lực phản động thường hay sử dụng để tuyên truyền, kích động phá hoại chế độ chính trị xã hội, kinh tế, văn hóa. Đội lốt các du khách để xâm nhập sâu vào đất nước móc nối, xây dựng các cơ sở, tổ chức phản động. Đồng thời du lịch cũng gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở các điểm du lịch. Pháp luật du lịch phải điều chỉnh các ngành nghề kinh doanh du lịch một cách riêng biệt, có cơ quan quản lý trực tiếp bởi vì tính trừu tượng, phi vật chất của sản phẩm du lịch. Du
  • 29. 24 lịch mang tính thời vụ, khách du lịch không ổn định, khi tới mùa du lịch, lượng khách du lịch tới các khu du lịch tăng đột biến. Khách du lịch đi lẻ với tâm lý ngẫu hứng, thiếu thông tin cũng như sự không tập trung của nguồn khách lẻ đã dẫn tới khó khăn trong việc quản lý khách du lịch của nhà nước, khó khăn trong việc cung cấp sản phẩm du lịch cũng như an ninh khu vực. Sản phẩm du lịch được tạo ra từ sự kết nối các sản phẩm du lịch khác một cách khoa học, một chương trình du lịch tác động đến nhiều doanh nghiệp khác như lưu trú, ăn uống, vận chuyển..., tác động đến di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh... cũng như tác động đến khách du lịch, đất nước Việt Nam trong mắt khách du lịch.. Trong một sản phẩm du lịch như vậy, rất nhiều quan hệ phát sinh dễ dẫn đến nhiều tranh chấp phức tạp. Từ những lý donhư trên đòi hỏi cần có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch để phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng vận động chung của thị trường, nâng cao được hiệu quả của hoạt động du lịch một mặt đảm bảo lợi ích của các chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch, mặt khác đảm bảo quyền lợi của khách du lịch cũng như lợi ích chung của quốc gia, của dân tộc. 1.3. Khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch 1.3.1. Khái niệm Pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là hệ thống tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch và hoạt động quản lý của nhà nước đốivới đăng kí kinh doanh dịch vụ du lịch. Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch: - Quan hệ giữa ngành chủ quản với các doanh nghiệp du lịch; - Quan hệ giữa doanh nghiệp du lịch với khách, giữa các doanh nghiệp du lịch với nhau; - Quan hệ nội bộ của các doanh nghiệp du lịch; - Quan hệ giữa nước đón tiếp du lịch với khách du lịch nước ngoài; - Quan hệ giữa nước phát sinh nguồn khách (nước gửi khách) và nước đón tiếp khách;
  • 30. 25 - Quan hệ giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động du lịch; Nguồn của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là tất cả các văn bản pháp luật có các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt động kinh doanh du lịch. Nguồn quan trọng và chủ yếu của pháp luật du lịch phải kể tới Luật Du lịch số 09/2017/QH14 được Quốc hội khóa 14 kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2017 (Luật có hiệu lực ngày 01/01/2018). Luật này quy định về “tài nguyên du lịch và các hoạt động du lịch; quyền và nghĩa vụ của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, cộng đồng dân cư có hoạt động liên quan tới du lịch; quản lý nhà nước về du lịch”[27]. Trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, Bộ luật Dân sự 2015 có rất nhiều quy định về: giao dịch dân sự, quyền nghĩa vụ của các bên, hợp đồng…; Luật Doanh nghiệp 2014 có những quy định về thành lập doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp…; Luật kinh doanh bảo hiểm 2010 có chứa các quy định về bảo hiểm cho khách du lịch trong nước và quốc tế; Luật giao thông đường bộ 2008 có quy phạm về điều kiện của xe ô tô vận chuyển khách du lịch, ngoài ra trong các luật khác, các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ; các Bộ ban hành cũng có chứa các quy phạm pháp luật liên quan đến điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch. 1.3.2. Nội dung Kinh doanh dịch vụ du lịch được vận hành theo hướng cơ chế thị trường đã tạo ra môi trường kinh doanh đa dạng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mặt khác, du lịch được coi là một ngành kinh tế kinh doanh tổng hợp: sản xuất, trao đổi hàng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và các nhu cầu khác của khách du lịch. Do tính chất tổng hợp của kinh doanh du lịch mà hoạt động này chịu ảnh hưởng của sự phát triểncủa rất nhiều ngành kinh tế.. Khi hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch phát triển đa dạng ở nhiều vùng, miền, với nhiều loại hình và nhiều đối tượng tham gia thì Luật Du lịch ra đời quy định chi tiết điều kiện kinh doanh đốivới từng loại hình dịch vụ du lịch. Với đặc điểm thị trường du lịch, các điều kiện về kinh doanh dịch vụ du lịch, bao gồm: 1) Chủ thể
  • 31. 26 kinh doanh: gồm các tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập, chấp nhận cho đầu tư kinh doanh; 2) Ký quỹ doanh nghiệp: phải phù hợp với quy định của pháp luật; 3) Cơ sở vật chất tối thiểu đáp ứng các tiêu chuẩn về: Phòng cháy chữa cháy, về cơ sở hạ tầng; 4) Điều kiện về trình độ chuyên môn của người quản lý; 5) Một số các loại điều kiện khác như an toàn phòng chống cháy nổ, trật tự an ninh, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… Mỗi một nhóm, mỗi một loại hình kinh doanh dịch vụ du lịchlại được áp dụng các loại điều kiện kinh doanh riêng. Nhìn chung, các quy định pháp luật tuy có một số khác biệt trong các thời kỳ khác nhau theo từng giai đoạn của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới nhưng vẫn nhất quán với quan điểm điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch thường cấu thành bởi những yếu tố: - Điều kiện đối với chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch: Điều kiện về chủ thể đối với kinh doanh lữ hành là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. Theo khoản 7, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2014 :“Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” [25]. Theo quy định của tại Điều 6 của Luật Thương mại 2005, thương nhân bao gồm “tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Đối với nhóm kinh doanh dịch vụ du lịch lưu trú, vận tải du lịch hoặc các dịch vụ khác thì điều kiện về chủ thể kinh doanh theo Luật Du lịch 2017 đã mở rộng đến các “tổ chức và cá nhân”. - Điều kiện về ký quỹ trong kinh doanh dịch vụ du lịch: Tiền kí quỹ là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự [25]. Số tiền ký quỹ sử dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh lữ hành. Điều kiện về ký quỹ được áp dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa vì xét thấy tính chất và mức độ rủi ro của hoạt động này đối với các đối tượng khác, đặc biệt là khách du lịch. Việc ký quỹ nhằm mục đích chính là đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ đối với khách du lịch, tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi của khách du lịch.
  • 32. 27 - Điều kiện về yêu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn cơ sở vật chất, kỹ thuật, phòng cháy chữa cháy, trật tự an toàn xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm, trình độ chuyên môn… Đối với từng hình thức kinh doanh dịch vụ du lịch sẽ có các điều kiện kinh doanh tương ứng, phù hợp với yêu cầu về các tiêu chuẩn cơ sở vật chất, kĩ thuật theo thiết kế công trình, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường. Người quản lý hay hướng dẫn viên du lịch phải có bằng cấp, trình độ chuyên môn, kiến thức về du lịch, y tế, nghiệp vụ quản lý. Ngoài ra đối với kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống phải xin cấp phép về an toàn phòng chống cháy nổ,vệ sinh an toàn thực phẩm… Tiểu kết chương Một là vai trò của du lịch có ý nghĩa hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, đời sống, xã hội. Từ việc phân tích, đánh giá về tính chất, đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh du lịch; những rủi ro, tác động trong kinh doanh dịch vụ du lịch, qua đó nhìn nhận việc quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là sự cần thiết và tất yếu khách quan. Hai là, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đang trên đà hội nhập quốc tế, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ du lịch, đòi hỏi các quy định pháp luật về điềukiện kinh doanh dịch vụ du lịch cũng từng bước phát triển với xu hướng mở rộng hành lang pháp lý để các chủ thể kinh doanh khác nhau có thể gia nhập thị trường. Bên cạnh đó, tác giả Luận văn cũng đã nêu ra những điều kiện đăng kí kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014, Luật Du lịch 2017 đã có nhiều điểm mới, quy định chi tiết và phù hợp với xu thế phát triển. Sự thay đổicác quy định của pháp luật không chỉ là sự kế thừa những quy định cũ mà còn phát triển theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân, tổ chức, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước.
  • 33. 28 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH 2.1. Lịch sử hình thành và phát triểnpháp luật Du lịch Việt Nam Kinh doanh dịch vụ du lịch được vận hành theo hướng cơ chế thị trường đã tạo ra môi trường kinh doanh đa dạng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Ngày 16/03/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty du lịch Việt Nam. Giai đoạn 1971-1978 làthời kì hoạt động du lịch được mở rộng. Có thể nói, đây là giai đoạn “tập dượt”của du lịch Việt Nam để bước vào hoạt động kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh du lịch quốc tế một cách bài bản. Tuy còn nhiều hạn chế về mặt quản lý nhà nước nhưng đây là giai đoạn vô cùng quan trọng để ngành du lịch có được cái nhìn đầy đủ hơn về bản chất kinh doanh du lịch, về tính liên ngành trong hoạt động kinh doanh du lịch và sự kết hợp giữa mở rộng kinh doanh du lịch với đảm bảo an ninh quốc phòng như một nguyên tắc hoạt động của ngành, đặc biệt trong du lịch tiếp cận quốc tế. Giai đoạn 1979-1991, Tổng cục Du lịchthực hiện hai chức năng chính là quản lý nhà nước và quản lý trực tiếpchỉ đạo hoạt độngkinh doanh du lịch đốivới một số công ty trực thuộc. Tuy nhiên, cả hai chức năng mà Tổng cục Du lịchđảm nhiệm đềurất hạn chế, chưa có đủ điều kiện để phát triển. Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 (từ 27/7 – 12/08/1991)đãban hành Nghị quyết chuyển chức năng quản lý nhà nước về du lịchvà đổi tên một số Bộ, theo đó chức năng quản lý nhà nước về du lịch được chuyển sang Bộ Thương mại và đổi tên Bộ thương mại thành Bộ Thương mại- Du lịch. Giai đoạn 1992-2005, du lịch có bước phát triển mạnh mẽ với vị thế của một ngành kinh tế. Cách đây 38 năm, Hội nghị Du lịch thế giới họp tại Manila Philippin (1980) đã đưa ra tuyên bố Manila về du lịch, trong điều 2 đã khẳng định “Trước ngưỡng cửa của thế kỉ 21 và trước những triển vọng của những vấn đề đang đặt ra đối với nhân loại, đã đến lúc cần thiết và phải phân tích bản chất của du lịch, chủ yếu đi sâu vào bề rộng mà du lịch đã đạt được kể từ khi người lao động được quyền nghỉ phép năm, đã chuyển hướng du lịch từ một phạm vi hẹp của thú vui sang phạm
  • 34. 29 vi lớn của cuộc sống kinh tế xã hội. Phần lớn đóng góp của du lịch vào nền kinh tế quốc dân và thương mại quốc tế đang làm cho nó trở thành yếu tố quan trọng cho sự phát triển của thế giới. Vai trò thiết thực của du lịch trong hoạt động kinh tế quốc dân, trong trao đổi quốc tế và trong sự cân bằng cán cân thanh toán, đang đặt du lịch vào vị trí trong số các ngành hoạt động kinh tế thế giới quan trọng nhất”[11]. Nhận thấy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của du lịch, trong văn kiện của các kì Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định đẩy mạnh phát triển du lịch, tạo bước đột phá để phát triển vượt bậc khu vực dịch vụ, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Quan điểm của Đảng đối với phát triển du lịch được cụ thể hóa trong giai đoạn phát triển mới, theo đó du lịch được khẳng định là“ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước” theo (Nghị quyết 45/CP ngày 22/06/1993) và “phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước, nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa…góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước” theo (Chỉ thị 46/CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí thư TW Đảng). Ngày 08/02/1999 UBTV Quốc hội khóa X đã thông qua Pháp lệnh Du lịch. Đây có thể coi là bước tiếnquan trọng đối với ngành du lịch. Pháp lệnh du lịch ra đời gồm có 9 chương, 56 điều quy định một cách cơ bản nhất về hoạt động kinh doanh du lịch, khách sạn, vận tải du lịch…Ngày 14/06/2005 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI Luật Du lịch đã được thông qua và có hiệu lực ngày 01/01/2006. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của Du lịch Việt Nam sau hơn 45 năm xây dựng và phát triển ngành du lịch. Cùng với Luật Du lịch, nhiều chính sách hỗ trợ phát triển du lịch đã được xây dựng và ban hành. Giai đoạn 2005-2017làkhoảng thời gian Du lịch Việt Nam đã khẳng định được vai trò của ngành kinh tế với việc lần đầu tiên trong lịch sử phát triển ngành đã xây dựng được chiến lược và quy hoạch tổng thể. Sự tăng trưởng không ngừng về khách du lịch đã mở rộng quy mô kinh doanh du lịch Việt Nam trên mọi lĩnh vực.Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định “phát triển du lịch thành một nền kinh tế mũi nhọn, phấn đấu sau năm 2010 Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch vụ du lịch
  • 35. 30 chất lượng...để góp phần tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ”. Ngày 30/11/2011, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 2473/QĐ-TTg phê duyệt “chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020” với việc phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng phát triển theo chiều sâu, đảm bảo chất lượng và hiệu quả khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh; phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cả trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển du lịch, phát huy tối đa tiềm năng lợi thế quốc gia về yếu tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng vùng miền trong cả nước, tăng cường liên kết du lịch. Ngày 19 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã thông qua luật số 09/2017/QH14 và tới ngày 01/01/2018 Luật Du lịch 2017 chính thức có hiệu lực với hy vọng tạo ra động lực mới cho ngành Du lịch phát triển. 2.2. Các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Pháp luật kinh doanh dịch vụ du lịch là một hệ thống tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch. 2.2.1. Điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ lữ hành nội địa Kinh doanh lữ hành (Tour operatorsbusiness) là việc doanh nghiệp doanh nghiệp đầu tư, thực hiện một hoặc một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình chuyển giao từ các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần, quảng cáo, và bán các chương trìnhnày trựctiếphay gián tiếpqua các trung gian tới việc tổ chức thực hiện cung ứng dịch vụ tới khách hàng. Tại khoản 9, Điều 3, Luật Du lịch 2017“kinh doanh dịch vụ lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiệnmột phầnhoặctoànbộ chương trìnhdulịch cho khách du lịch”[27]. Nói một cách ngắn gọn hơn, kinh doanh lữ hành chính là kinh doanh chương trình du lịch. Luật Du lịch 2017 chia kinh doanh lữ hành làm 2 loại là kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế: - Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa là doanh nghiệp xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa.
  • 36. 31 - Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế là doanh nghiệp xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế. - Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế được kinh doanh lữ hành nội địa. Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa không được kinh doanh lữ hành quốc tế.Trong kinh doanh lữ hành quốc tế, Luật Du lịch phân biệt hai loại hình: kinh doanh lữ hành đónkhách vào Việt Nam (inbound) và kinh doanh lữ hành đưa khách ra nước ngoài (outbound). Quy định này nhằm đẩy mạnh hơn nữa chuyên môn hóa trong kinh doanh lữ hành. Dưới góc độ pháp luật, Luật Du lịch đã tiếp cận khái niệm lữ hành ở phạm vi hẹp với mục đích chính phân biệt hoạt động lữ hành với các hoạt động du lịch khác như lưu trú, nhà hàng, vận chuyển…Cách tiếp cận này là hợp lý và cần thiết để điều chỉnh hoạt động lữ hành, kinh doanh lữ hành một cách phù hợp. Dịch vụ lữ hành bao gồm các hoạt động chính như:“làm nhiệm vụ giao dịch kí kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch”. Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa: Thương nhân có đủ các điều kiện quy định dưới đây được kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa: - Điều kiện về mặt chủ thể: Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 31, Luật Du lịch năm 2017 quy định, điều kiện chủ thể kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa “là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật doanh nghiệp”[27]. Theo khoản 7, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 có định nghĩa “doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng kí thành lập theo quy định của pháp luật”[25]. Theo quy định Luật Du lịch2005 không quy định việc cấp giấy phép kinh doanh lữ hành nội địa. Thời gian qua, tăng trưởng của phân khúc thị trường kinh doanh du lịch nội địa tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Thu nhập từ khách du lịch ngày càng cao, không kém thu nhập từ khách du lịch quốc tế, thậm chí còn cao hơn thu nhập từ khách du lịch quốc tế từ một số thị trường. Mặc dù vậy, những quy định về điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa còn dễ dàng, chưa bám sát thực tiễn, chưa có các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của khách
  • 37. 32 du lịch. Cụ thể: các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa không phải ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch và không cần có hướng dẫn viên du lịch. Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa chỉ phải gửi thông báo thời điểm hoạt động kèm theo phương án kinh doanh và chương trình du lịch nội địa tới Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịchnơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Song theo thống kê mới nhất của các Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước có chỉ có 1.528 trong tổng số trên 13.000 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa gửi thông báo hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch và duy trì các điều kiện kinh doanh và hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch nội địa. Việc phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa thiếu nghiêm túc trong việc chấp hành các quy định của pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra. Số lượng doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịchnội địa phát triển mạnh mặc dù nhiều doanh nghiệp trong số đó không đủ năng lực kinh doanh. Hiện nay, các cơ quan quản lý về du lịch ở địa phương chưa quản lý, kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp du lịch nội địa. Điều này đã nảy sinh khá nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp không đảm bảo điều kiện kinh doanh lữ hành nội địa, không thực hiện việc thông báo với cơ quan quản lý du lịch cấp tỉnh nhưng vẫn tổ chức thực hiện chương trình cho khách du lịch nội địa. Để khắc phục hạn chế của này, Luật Du lịch 2017 đã bổ sung quy định cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa nhằm đảm bảo quyền lợi khách du lịch, đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp. - Điều kiện về ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa được quy định tại điểm b, khoản 1, điều31, Luật Du lịch2017. “Mức ký quỹ kinhdoanhdịch vụ lữ hành nội địa100.000.000(Một trăm triệu đồng), doanhnghiệpthực hiện ký quỹbằngđồng Việt Nam tại ngânhàngthương mại, ngânhàng hợp tácxã hoặc chi nhánhngânhàng nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam và được hưởng lãi suất theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp và ngân hàng nhận ký quỹ phù hợp với quy định của pháp luật. Tiền ký quỹ phảiđược duy trì trongsuốtthời giandoanhnghiệpkinhdoanhdịch vụ lữ hành”[7]. - Điều kiện về yêu cầu đáp ứng trình độ chuyên môn: Người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành phải tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành về lữ hành;
  • 38. 33 trường hợp tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch nội địa. Theo Thông tư 06/2017/TT-BVHTTDL có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2018 quy định: “Người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành là người giữ một trong các chức danh sau: chủ tịch hội đồng quản trị; chủ tịch hội đồng thành viên; chủ tịch công ty; chủ doanh nghiệp tư nhân; tổng giám đốc; giám đốc hoặc phó giám đốc; trưởng bộ phận kinh doanh dịch vụ lữ hành. Chuyên ngành về lữ hành bao gồm một trong những chuyên ngành sau: quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; quản trị lữ hành; điều hành tour du lịch; marketing du lịch; du lịch; du lịch lữ hành; quản lý và kinh doanh du lịch” [36].Luật Du lịch 2005 quy định doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịchphải có người điều hành có kinh nghiệm trong lĩnh vực lữ hành; việc xác định điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch thông qua bản xác nhận của doanh nghiệp lữ hành du lịch hoặc quyết định thôi việc hoặc giấy tờ đóng bảo hiểm. Tuy nhiên quy định này chưa có hình thức kiểm tra tính xác thực của các giấy tờ này. Nhiều trường hợp các giấy tờ xác nhận trên không đúng sự thật, khi kiểm tra doanh nghiệp mới phát hiện được và thực tế đã phải thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành du lịchcủa công ty làm giả hồ sơ. Tới Luật Doanh nghiệp 2017, quy định này đã được xóa bỏ tạo điều kiện thuận lợi hơn khi đăng kí kinh doanh dịch vụ lữ hành. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa: Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa đóng vai trò trung gian trong hoạt động du lịch, tác động đến nhiều mối quan hệ pháp luật, việc quy định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp lữ hành là cần thiết, nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đối với các sản phẩm du lịch, với các đối tượng cung cấp dịch vụ du lịch khác cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch. Quyền của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa được quy định tại Điều 37 Luật Du lịch 2017 như sau: - Được Nhà nước bảo hộ hoạt động kinh doanh du lịch hợp pháp khi doanh nghiệp kinh doanh lữ hành được thành lập theo đúng pháp luật.Không ai được phép tước quyền kinh doanh hợp pháp, cấm đoán trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp được bình đẳng với nhau trước pháp luật.
  • 39. 34 - Xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các dịch vụ du lịch, chương trình du lịch cho khách du lịch theo phạm vi kinh doanh quy định trong giấy phép. Nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa cũng được quy định tại Điều 37 Luật Du lịch 2017 như sau: -Mua bảo hiểm cho khách du lịchtrong thời gian thực hiện chương trình du lịch, trừ trường hợp khách du lịch đã có bảo hiểm cho toàn bộ chương trình du lịch. Kinh doanh lữ hành du lịch là hoạt động mà đối tượng phục vụ là con người, trong đó, yếu tố bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng của khách du lịch được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, theo Luật Du lịch 2005 quy định về việc mua bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với khách du lịch quốc tế, chưa áp dụng đối với khách du lịch nội địa. Nhiều trường hợp sự cố, tai nạn xảy ra đã để lại hậu quả đáng tiếc trong khi năng lực giải quyết của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa còn hạn chế, không có các quy định bắt buộc (như ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch nội địa...) để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa. Việc không bắt buộc doanh nghiệp phải mua bảo hiểm cho khách du lịch nội địa càng làm cho việc xử lý các vấn đề rủi ro với khách du lịch nội địa trở nên khó khăn, không bảo đảm được quyền lợi của khách du lịch. Tại Chương V, Mục 1, Điều 37, Luật Du lịch 2017 có quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành như sau: “Các doanh nghiệp lữ hành phải có trách nhiệm mua bảo hiểm cho khách du lịch trong thời gian thực hiện chương trình du lịch, trừ trường hợp khách du lịch đã có bảo hiểm cho toàn bộ chương trình du lịch”.Như vậy, Luật Du lịch 2018 đã yêu cầu các doanh nghiệp lữ hành đều phải mua bảo hiểm du lịch cho khách hàng. Quy định này áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Công khai tên doanh nghiệp, số giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành trên biển hiệu tại trụ sở, chi nhánh, văn phòng giao dịch, trong hợp đồng lữ hành, trên ấn phẩm quảng cáo, và trong giao dịch điện tử. - Thông báo về việc thay đổi người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành, gửi hồ sơ về người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành thay thế cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép trong thời hạn 15 ngày kể từ khi thay đổi.
Download

Từ khóa » Slide Luật Du Lịch