Dữ Liệu điện Tử Là Gì? - Luật Hoàng Anh

Chứng cứ trong vụ án hình sự là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Việc công nhận dữ liệu điện tử có giá trị làm chứng cứ trong hoạt động tố tụng nhưng chúng không phải hoàn toàn đáng tin cậy. Để xem xét dữ liệu điện tử có giá trị làm chứng cứ hay không, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải xem xét rất nhiều các yếu tố khác nhau như: Cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác (Khoản 3 Điều 99 BLTTHS). Bên cạnh đó, dữ liệu điện tử cũng như các loại nguồn chứng cứ khác, giá trị của chứng cứ ở mức độ nào là do cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá, quyết định trong từng trường hợp cụ thể.

BLTTHS đã ghi nhận dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ tại điểm c khoản 1 Điều 87. Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử (Khoản 1 Điều 99 BLTTHS). Về bản chất, dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử, có thể phục hồi, phân tích, tìm được dữ liệu, kể cả trong trường hợp dữ liệu đó đã bị xóa, bị ghi đè, dưới dạng ẩn, đã mã hóa và làm cho có thể đọc được, nhìn thấy được, ghi lại, sử dụng làm chứng cứ.

1. Cơ sở pháp lý

Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) dữ liệu điện tử được quy định như sau:

“Điều 99. Dữ liệu điện tử

1. Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử.

2. Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.

3. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.”

2. Quy định của BLTTHS về dữ liệu điện tử

Đây là điều luật mới được quy định trong BLTTHS 2015. Thành tựu của cuộc các mạng khoa học công nghệ được áp dụng rộng rãi trong mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là công nghệ thông tin; tội phạm cũng lời dụng để gây án, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng đã khai thác thông tin, tài liệu trong lĩnh vực này. BLTTHS 2015 đã bổ sung nguồn chứng cứ là tài liệu.

Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử.

Dữ liệu điện tử liên quan đến lĩnh vực chuyên môn sâu được thu thập theo đúng quy định từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông trên đường truyền hoặc các nguồn điện tử khác.

BLTTHS đã cụ thể hóa hoạt động thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử tại Điều 107, cụ thể như sau: (1) Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Việc niêm phong, mở niêm phong được tiến hành theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. (2) Khi thu thập, chặn thu, sao lưu dữ liệu điện tử từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. (3) Khi nhận được quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thực hiện phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử. (4) Việc phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử chỉ được thực hiện trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, giám định phải chuyển sang dạng có thể đọc, nghe hoặc nhìn được. (5) Phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng theo quy định của Bộ luật này. Khi xuất trình chứng cứ là dữ liệu điện tử phải kèm theo phương tiện lưu trữ dữ liệu hoặc bản sao dữ liệu điện tử.

Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử phải được thông qua giám định kỹ thuật số và điện tử, được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc đường truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.

Việc thu thập, bảo quản, giám định phải thực hiện theo đúng quy định của tố tụng hình sự và Luật Giám định tư pháp. Đây là quy định mới, tiến bộ bởi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, nên phương tiện, dữ liệu điện tử cần thu giữ ngày càng đa dạng; Dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ mới được quy định trong tố tụng hình sự và là tài liệu chứng cứ khoa học có giá trị cao trong chứng minh tội phạm, nên phải được thu giữ, niêm phong chặt chẽ, tránh tiêu cực xảy ra.

Luật Hoàng Anh

Từ khóa » Các Dữ Liệu điện Tử Là Gì