Enron - Kẻ Dối Trá Vĩ đại - VnExpress Kinh Doanh

Ngôi sao sáng

Năm 1985, Kenneth Lay sáp nhập Houston Natural Gas và InterNorth để thành lập công ty năng lượng Enron. Đầu những năm 1990, Lay góp phần vận động bán điện theo giá thị trường, nhờ vậy, những nhà giao dịch như Enron có thể bán năng lượng với giá cao hơn và gia tăng đáng kể lợi nhuận thu được.

Đến năm 1992, Enron đã lớn mạnh trở thành nhà buôn khí tự nhiên lớn nhất Bắc Mỹ. Tháng 11/1999, công ty khai trương website giao dịch EnronOnline để quản trị tốt hơn việc kinh doanh giao dịch các hợp đồng. Trong một nỗ lực nhằm đạt được tăng trưởng hơn nữa, Enron đã theo đuổi chiến lược đa dạng hóa.

Enron sở hữu và điều hành một loạt các tài sản bao gồm các đường ống dẫn khí, các nhà máy điện, các nhà máy bột giấy và giấy, các nhà máy nước, cùng với nhiều loại hình dịch vụ trên toàn cầu. Enron cũng kiếm thêm doanh thu bằng cách mua bán những hợp đồng trong cùng mảng sản phẩm và dịch vụ mà công ty có tham gia.

Giá cổ phiếu Enron tăng vùn vụt, từ đầu thập niên 1990 đến cuối năm 1998 đã nhảy vọt 311%, vượt trội so với tỷ lệ tăng trưởng của chỉ số S&P 500. Trong 2 năm bản lề thiên niên kỷ, giá cổ phiếu Enron tăng tiếp 56% và 87%, trong khi chỉ số S&P tăng 20% vào năm 1999 và giảm 10% vào năm 2000. Enron tiếp tục là ngôi sao sáng chói trên TTCK.

Tới ngày 31/12/2000, cổ phiếu Enron có giá 83,13USD/cổ phiếu và vốn hóa thị trường của công ty vượt mốc 60 tỷ USD, cao gấp 70 lần thu nhập và 6 lần giá trị sổ sách, cho thấy TTCK kỳ vọng nhiều vào triển vọng tương lai của Enron. Thêm vào đó, Enron 6 năm liền được cuộc khảo sát của Tạp chí Fortune đánh giá là “Công ty sáng tạo bậc nhất Hoa Kỳ”.

Vụ phá sản lớn nhất

Khi Jeffrey Skilling được thuê vào công ty và sau đó đảm nhận vị trí CEO Enron, dưới sự dung túng của Lay, Skilling đã tập trung vào việc đáp ứng những sự kỳ vọng của Phố Wall bằng cách phát triển một ban bệ điều hành che giấu hàng tỷ USD thua lỗ và nợ nần từ những thương vụ và dự án bị thất bại. Họ khai thác các kẽ hở kế toán, sử dụng các thể chế có mục đích đặc biệt (những “đối tác” do Enron kiểm soát) và các báo cáo tài chính không trung thực.

Họ thậm chí gây áp lực để Công ty kiểm toán Arthur Andersen (một trong 5 công ty kiểm toán lớn nhất thế giới) bỏ qua các vấn đề kế toán nhiều rủi ro ở Enron. Ngoài những lời tự đánh bóng về khả năng quản lý, Enron được quảng cáo rất hiệu quả qua Arthur Andersen và các nhà phân tích Phố Wall, nhờ vậy số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục.

Chi nhánh Houston của Arthur Andersen nhận 1 triệu USD/tuần còn tham gia cả việc tìm kiếm đối tác cho Enron. Số tiền kếch xù trên đã làm mờ mắt các nhân viên kiểm toán và họ dễ dàng bỏ qua nguyên tắc. Theo đó, những báo cáo tài chính không minh bạch đã không mô tả rõ ràng hoạt động và tình hình tài chính của Enron cho các cổ đông và giới phân tích, thay vào đó, chúng tô vẽ hiệu quả hoạt động của công ty. Vụ việc vỡ lở vào tháng 10/2001.

Cổ phiếu Enron từ đỉnh cao 90 USD vào giữa năm 2000 đã tuột dốc không phanh xuống chỉ còn chưa tới USD vào cuối tháng 11/2001. Ủy ban Chứng khoán và giao dịch Hoa Kỳ (SEC) bắt đầu điều tra. Đối thủ cạnh tranh Dynegy đề nghị mua lại Enron nhưng thương vụ bất thành và ngày 2/12/2001, Enron nộp đơn xin bảo hộ phá sản. Với tài sản lên tới 63,4 tỷ USD, đây là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ tính đến thời điểm đó.

Nhiều người trong ban điều hành Enron đã bị kết tội và tống vào tù. Trong đó, 2 lãnh đạo cao nhất Jeffrey Skilling và Kenneth Lay từ người hùng trở thành những “kẻ dối trá và lừa gạt vĩ đại”, đã khoa trương quá mức tình trạng sức khỏe của công ty và đưa công ty tới thảm cảnh phá sản, khiến cho nhà đầu tư mất hàng tỷ USD và khoảng 20.000 nhân viên Enron bị mất việc làm, nhiều người trong số họ mất luôn những khoản tiết kiệm cả đời vì đã góp vốn vào công ty.

Skilling và Lay bị buộc tội che giấu, làm những báo cáo giả và gian lận chứng khoán. Skilling còn bị kết tội giao dịch nội gián, phải chịu phạt 45 triệu USD và 24 năm tù. Về phần Lay, ông ta đã chết vì nhồi máu cơ tim trong lúc chờ đợi bản án dành cho mình. Công ty kiểm toán Arthur Andersen bị một tòa án quận kết tội cản trở tư pháp vì tiêu hủy giấy tờ liên quan đến vụ kiểm toán Enron.

Mặc dù sau đó tòa tối cao đã gỡ bỏ phán quyết của tòa án quận nhưng trên thực tế, Arthur Andersen đã phải đóng cửa vì mất hầu hết khách hàng. Điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ, Tổng giám đốc điều hành Arthur Andersen, ông Joe Berardino thừa nhận đã phạm sai lầm nghiêm trọng.

Tuy khẳng định rằng Arthur Andersen đã làm tất cả để hạn chế thấp nhất khả năng đổ vỡ của Enron, nhưng họ lại hủy hầu hết tài liệu có liên quan đến vụ việc, ngay cả khi Ủy ban Chứng khoán đã mở cuộc điều tra.

Trong lúc đó, nhân viên và các cổ đông Enron kiện tụng nhưng kết quả nhận được rất hạn chế mặc dù rõ ràng là họ đã mất hàng tỷ USD tiền lương hưu và thị giá cổ phiếu khi Enron sụp đổ. Vụ bê bối này đã đánh động nhà chức trách ban hành luật định mới Sarbanes-Oxley 2002 nhằm tăng cường tính chính xác báo cáo tài chính của các công ty đại chúng cũng như hoạt động của các công ty kiểm toán.

Vụ bê bối Enron đã đưa họ tới giải IgNobel “Sử dụng sáng tạo nhất những con số tưởng tượng” vào đầu năm 2002, nhưng không một cựu thành viên nào trong ban quản lý Enron chịu nhận giải thưởng khét tiếng này.

(Sài Gòn Đầu tư Tài chính)

Từ khóa » Enron Nổi Tiếng Về Vấn đề Gì