G-Dragon – Wikipedia Tiếng Việt

G-Dragon
G-Dragon vào năm 2023.
SinhKwon Ji-yong18 tháng 8, 1988 (36 tuổi)Seoul, Hàn Quốc
Tên khácGD
Nghề nghiệp
  • Rapper
  • Ca sĩ
  • Nhạc sĩ
  • Nhà sản xuất thu âm
  • Doanh nhân
  • Nhà thiết kế thời trang
Tài sản40 triệu US$[1]
Websiteygbigbang.com/gdragon
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
  • Hip hop
  • K-pop
  • dance-pop
  • R&B
  • trap
Năm hoạt động1994–nay
Hãng đĩaYG Entertainment
Hợp tác với
  • Big Bang
  • YG Family
  • GD & TOP
  • GD X Taeyang
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul권지용
Hanja權志龍
Romaja quốc ngữGwon Ji-yong
McCune–ReischauerKwŏn Chiyong
Hán-ViệtQuyền Chí Long

Kwon Ji-yong (Tiếng Hàn: 권지용; Hanja: 權志龍; Hán-Việt: Quyền Chí Long, sinh ngày 18 tháng 8 năm 1988),[2] thường được biết đến với nghệ danh G-Dragon, là một nam rapper, ca sĩ, nhạc sĩ và nhà sản xuất thu âm người Hàn Quốc. Anh được mệnh danh là "Ông hoàng K-pop".[3][4][5][6] G-Dragon được đào tạo trong sáu năm, từ năm 12 tuổi, tại công ty giải trí YG Entertainment trước khi ra mắt vào năm 2006 với tư cách là thủ lĩnh nhóm nhạc Big Bang, một trong những nhóm nhạc nam bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới.[7]

Album solo đầu tay của anh Heartbreaker và ca khúc chủ đề cùng tên, phát hành năm 2009, là thành công về mặt thương mại, trở thành album bán chạy nhất của một nghệ sĩ solo Hàn Quốc vào thời điểm đó và giành giải Album của năm tại lễ trao giải thưởng Âm nhạc Châu Á Mnet 2009. G-Dragon cùng với thành viên cùng nhóm T.O.P phát hành album GD & TOP vào năm 2010. EP đầu tay của anh One of a Kind (2012), được giới phê bình đánh giá cao bao gồm ba đĩa đơn: "One of a Kind", "Crayon" và đĩa đơn quán quân "That XX". EP này đã giành được Bản thu âm của năm tại lễ trao giải thưởng âm nhạc Seoul 2013. Năm 2013, anh bắt đầu chuyến lưu diễn toàn thế giới đầu tiên của mình với tư cách là một nghệ sĩ solo, giúp anh trở thành nghệ sĩ solo Hàn Quốc đầu tiên lưu diễn các sân vận động mái vòm của Nhật Bản.[8] G-Dragon được trao giải Nghệ sĩ của năm tại lễ trao giải thưởng Âm nhạc Châu Á Mnet 2013 sau thành công của album thứ hai Coup d'Etat (2013). EP năm 2017 của anh, Kwon Ji Yong, gồm đĩa đơn quán quân "Untitled, 2014" và chuyến lưu diễn quảng bá Act III: M.O.T.T.E trở thành chuyến lưu diễn lớn nhất từng được thực hiện bởi một nghệ sĩ solo Hàn Quốc.[9]

Được công nhận rộng rãi vì tầm ảnh hưởng của anh đối với văn hóa, xu hướng thời trang và âm nhạc của giới trẻ Hàn Quốc,[10] G-Dragon được Forbes bình chọn là người dưới 30 tuổi có ảnh hưởng nhất trong làng giải trí và thể thao châu Á năm 2016.[11] G-Dragon đã viết và đồng sáng tác 23 ca khúc số một trên Gaon Digital Chart, hầu hết trong số đó anh cũng đồng sản xuất.[12][13]

Cuộc đời và sự nghiệp

1988–2008: Những năm đầu đời và khởi đầu sự nghiệp

Bài chi tiết: Big Bang (nhóm nhạc Hàn Quốc)
G-Dragon tại MTV Fast Forward, Thái Lan vào năm 2007

Kwon Ji-yong sinh ngày 18 tháng 8 năm 1988[2] tại Seoul, anh bắt đầu sự nghiệp của mình khi mới sáu tuổi với tư cách là thành viên của nhóm Little Roo'Ra.[14] Sau khi phát hành album Giáng sinh, hợp đồng của nhóm đã bị công ty chủ quản chấm dứt, đây là một "cú sốc" lớn đối với G-Dragon. Mặc dù anh đã thề với mẹ rằng anh "sẽ không [cố gắng trở thành ca sĩ] một lần nữa", anh được SM Entertainment chiêu mộ trong một chuyến đi trượt tuyết cùng gia đình.[15] Anh là thực tập sinh của SM trong 5 năm (từ 8–13 tuổi), chuyên về vũ đạo trước khi rời đi.[14]

Năm lớp ba, một người bạn đã giới thiệu Kwon với nhóm nhạc rap người Mỹ Wu-Tang Clan. Được truyền cảm hứng từ âm nhạc của họ, anh dần bộc lộ niềm yêu thích đọc rap và bắt đầu tham gia các lớp học.[14] Dưới sự hướng dẫn của People Crew,[16] anh tham gia phát hành album hip-hop tiếng Hàn Flex vào năm 2001, trở thành rapper trẻ tuổi nhất Hàn Quốc khi mới 13 tuổi. Mặc dù tự viết lời bài hát nhưng anh thừa nhận rằng tiếng Anh của mình khi ấy còn kém và câu chuyện đằng sau lời bài hát chỉ đơn thuần là "Tôi còn trẻ, nhưng tôi là người tuyệt nhất".[14] Ngoài ra, anh và Choi Seung-hyun là "bạn hàng xóm từ thời cấp hai", thường nhảy và rap cùng nhau trước khi Kwon chuyển đi.[17] Sean của bộ đôi hip-hop Jinusean đã nhận thấy tài năng của Kwon, anh đã giới thiệu Kwon cho CEO Yang Hyun Suk của hãng thu âm YG Entertainment. Sau khi ký hợp đồng với YG, Kwon đã dành năm đầu tiên làm dọn dẹp phòng thu cho các nghệ sĩ khác trong hãng thu âm và tiếp chai nước trong quá trình luyện tập vũ đạo.[14]

Kwon và một thực tập sinh khác, Dong Young-bae, ban đầu dự định ra mắt bộ đôi hip hop GDYB. Kwon đã chọn nghệ danh G-Dragon ("Ji" được phát âm giống từ "G", và Yong trong tiếng Hàn có nghĩa là "rồng").[15] Anh xuất hiện trong các album của nhiều nghệ sĩ khác và đã phát hành một số đĩa đơn với Dong dưới cái tên "GDYB". Sau khi YG Entertainment thay đổi kế hoạch và chọn một nhóm nhạc nam thay thế, Kwon đã liên hệ với Choi, người đã tham gia thử giọng.[17] G-Dragon, Dong (người chọn nghệ danh Taeyang) và Choi (người chọn nghệ danh T.O.P), cùng với ba thành viên khác (Jang Hyun-seung, Daesung và Seungri).

Quá trình thành lập của nhóm đã được ghi lại trên truyền hình,[18] nhưng trước khi ra mắt chính thức, Jang đã bị loại.[15] Sự ra mắt của nhóm nhạc năm người là một thành công vừa phải, với album đầu tay của họ bán được hơn 100.000 bản,[19] và bao gồm bài hát solo đầu tiên của G-Dragon, bản cover "This Love" của nhóm nhạc rock alternative Mỹ Maroon 5.[18] Việc phát hành EP Always vào năm 2007 là một sự khởi đầu âm nhạc so với các sản phẩm trước đó của họ và chứng kiến sự tham gia nhiều hơn của G-Dragon vào quá trình sản xuất.[20] Một số bài hát do anh sáng tác, bao gồm đĩa đơn chính "Lies" (Tiếng Hàn: 거짓말; Romaja: Geojitmal), trở thành bản hit đầu tiên của nhóm. Các EP sau của họ lần lượt tiếp nối thành công: Hot Issue bao gồm "Last Farewell" (Tiếng Triều Tiên: 마지막 인사; Romaja: Majimak Insa) và Stand Up bao gồm "Day by Day" (Tiếng Triều Tiên: 하루하루; Romaja: Haru Haru); cả hai đĩa đơn do anh sáng tác đều đứng đầu bảng xếp hạng.[21][22] Là người sản xuất phần lớn sản phẩm của Big Bang, G-Dragon tiếp tục tham gia sản xuất EP đầu tay Hot (2008) của Taeyang, sau đó anh thu âm "Part Two" cho đĩa đơn chính của EP "Only Look at Me".

2009-2011: Phát triển sự nghiệp solo, Heartbreaker, và GD & TOP

Bài chi tiết: GD & TOP
"Heartbreaker" (2009) Đĩa đơn solo đầu tiên, "Heartbreaker" gây tranh cãi vì có giai điệu giống "Right Round" của fluor Rida Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Song song với Big Bang, G-Dragon cũng có một số hoạt động solo. Sau khi hỗ trợ Taeyang sản xuất album đầu tay Hot, anh cũng ghi âm phiên bản của riêng mình cho ca khúc chủ đạo của album là "Only Look At Me" (tiếng Triều Tiên: 나만바라봐; Romaja: Naman Barabwa), và đặt tên là "Only Look At Me Part 2". Phiên bản này chỉ được phát hành trên mạng. Cùng với Taeyang và T.O.P, G-Dragon cũng được giới thiệu trong ca khúc "Super Fly" nằm trong album Rush của ca sĩ Lexy. Tháng 5 năm 2009, anh hợp tác cùng nhóm nhạc Nhật W-inds trong single của họ mang tên "Rain Is Fallin'/Hybrid Dream"[23][24].

G-Dragon chính thức bắt đầu sự nghiệp solo với album đầu tay Heartbreaker, với sự tham gia của một số ca sĩ như Teddy của 1TYM, Taeyang, Kush, CL và Dara của 2NE1. Ban đầu album được lên kế hoạch phát hành trong tháng 4, nhưng sau đó đã dời sang tháng 8[25] để khớp với ngày sinh nhật thứ 21 của anh[26]. Album đánh dấu sự thay đổi hình tượng của G-Dragon với mái tóc được nhuộm vàng để phù hợp với ý tưởng chủ đạo. Cùng với sự thành công của ca khúc chủ đề cùng tên, album đạt được doanh số hơn 150.000 bản[27] và đoạt giải "Album của năm" tại giải thưởng Mnet Asian Music 2009[28]. Single thứ hai trích từ album là "Breathe" cũng lọt vào top 20[29] trong khi những ca khúc khác như "The Leaders", "A Boy", "Hello" và "She's Gone" tiếp tục có mặt trong các bảng xếp hạng khác nhau[30]. Album chứng tỏ được khả năng đa dạng của G-Dragon khi rất nhiều phong cách nhạc như R&B, hip-hop, rock và dance được tập hợp trong các ca khúc.

Được sự hậu thuẫn từ thành công của album, G-Dragon tổ chức concert solo đầu tiên[31] mang tên Shine A Light tại Olympic Park vào tháng 12 năm 2009.[32] Chương trình đã vấp phải nhiều tranh cãi vì những nội dung được cho là có tính chất khiêu dâm[31][33]. Bộ Y tế, Phúc lợi và Gia đình Hàn Quốc đã yêu cầu công tố viên chính phủ điều tra về việc G-Dragon hoặc YG Entertainment có vi phạm luật trong việc biểu diễn khiêu dâm trong chương trình hay không[34]. Ngày 15 tháng 3 năm 2010, G-Dragon đưược tuyên bố vô tội và không vi phạm bất cứ cáo buộc nào[35][36].

G-Dragon và T.O.P trong bức hình quảng bá cho album GD & TOP

Vào tháng 11 năm 2010, YG Entertainment phát hành album hợp tác của G-Dragon và thành viên cùng nhóm là T.O.P.[37] Trước ngày phát hành album, bộ đôi này đã tổ chức một buổi ra mắt toàn cầu cho album của họ tại Quảng trường Thời Đại ở Yeongdeungpo, Seoul, Hàn Quốc[38] và được phát trực tiếp trên YouTube.[39] Để quảng bá cho album, họ đã phát hành trước 3 single: "High High", "Knock Out" và "Oh Yeah".[40] 3 single này đều đạt được những thành công. "High High" dẫn đầu các bảng xếp hạng[41] trong khi "Oh Yeah" và "Knock Out" lần lượt đứng thứ 2 và thứ 3.[42][43] Album chính thức được phát hành vào đúng dịp Giáng sinh và xuất phát ở vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Gaon[44] với 200.000 lượt đặt trước[45] và cuối cùng đạt mức 130.000 bản.

Sau đó, anh kết hợp với Park Myung Soo tạo thành bộ đôi tên là "GG" và dự chương trình Infinity Challenge Seohae Ahn Highway Song Festival 2011. Họ đã phát hành bài hát "Fired Up" (바람났어) với sự góp mặt của Park Bom của 2NE1 vào ngày 6 tháng 2 năm 2011 và dẫn đầu trên tất cả các bảng xếp hạng tại Hàn Quốc.[cần dẫn nguồn]

Vào ngày 5 tháng 10 năm 2011, G-Dragon được thông báo là cho kết quả xét nghiệm dương tính đối với cần sa. Mặc dù kết quả xét nghiệm nước tiểu ban đầu của anh là âm tính, nhưng khi xét nghiệm mẫu tóc của anh thì kết quả đã hoàn toàn ngược lại. Cuối cùng G-Dragon đã thú nhận rằng anh đã dùng thuốc tại một câu lạc bộ đêm ở Nhật Bản khi đến đây tham dự một buổi hòa nhạc. G-Dragon cho biết: "Tôi đã hút một điếu thuốc mà ai đó đã đưa cho tôi trong câu lạc bộ. Mùi của nó khác với một điếu thuốc bình thường, vì vậy tôi hơi nghi ngờ rằng đó là cần sa, nhưng sự thật là tôi có hút thuốc đó".[46][47]

Scandal khiến cho các hoạt động quảng bá cùng Big Bang phải tạm dừng, còn YG Entertainment ra thông báo rằng họ sẽ cho anh thời gian để suy nghĩ lại về sai lầm của mình.[48] Bởi vì anh không bị truy tố nên may mắn không mất các hợp đồng quảng cáo nào và sau đó xuất hiện trở lại trước công chúng lần đầu sau scandal tại MTV EMA 2011 cùng Big Bang.

2012–2013: One of a Kind, chuyến lưu diễn toàn thế giới và Coup d'Etat

G-Dragon biểu diễn trong Alive World Tour vào tháng 9 năm 2012

Vào tháng 3 năm 2012, lịch trở lại của G-Dragon được thông báo là vào khoảng nửa cuối năm, chính xác là vào tháng 8 để trùng với sinh nhật của anh.[49] Cùng thời điểm đó, G-Dragon cùng với T.O.P kết hợp với nữ ca sĩ người Anh Pixie Lott trong album phát hành tại Nhật sắp ra mắt của cô.[50]

Ngày 24 tháng 8 năm 2012, G-Dragon phát hành video âm nhạc cho bài hát "One Of A Kind" trong mini album cùng tên của anh.[51] Bài hát sau đó đã mang về cho anh hai giải "Bài hát Hip-hop/Rap hay nhất của năm" tại Korean Music Awards và Rhythmer Awards. Ngày 1 tháng 9, anh phát hành single tiếp theo mang tên "That XX". Bài hát này ngay lập tức đứng đầu các bảng xếp hạng.[52] Mini album của anh được phát hành online vào ngày 15 tháng 9 và lên kệ ngày 18 tháng 9 năm 2012.[53] Vừa phát hành, album này đã ngay lập tức thành công ở Hàn Quốc. Tất cả bài hát đều chiếm giữ những vị trí đầu tiên trên các bảng xếp hạng chính. Album này cũng dẫn đầu Billboard World Album Chart và lọt vào Billboard 200 với vị trí 161.[54] Kết thúc năm 2012, album đã bán được 200.000 bản và trở thành album cá nhân có doanh số bán ra cao nhất kể từ album Heartbreaker cũng được phát hành bởi chính anh. Nhờ những thành công này, anh giành giải "Nghệ sĩ nam xuất sắc nhất" tại Mnet Asian Music Awards lần thứ 14 và sau đó là giải "Bản ghi âm của năm" cho One Of A Kind tại Seoul Music Awards lần thứ 22.

Tháng 1 năm 2013, để quảng bá cho album của mình, anh bắt tay vào thực hiện G-Dragon 2013 1st World Tour, trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên có chuyến lưu diễn quanh 4 sân vận động mái vòm ở Nhật Bản và nghệ sĩ solo Hàn Quốc thứ hai có chuyến lưu diễn thế giới (sau Bi Rain). Buổi diễn đầu tiên bắt đầu vào ngày 30 tháng 3 năm 2013 tại Seoul. Những buổi diễn ở Nhật bắt đầu vào tháng 4 và thêm nhiều thành phố khác được xác nhận đưa vào địa điểm biểu diễn sau đó. Sau khi kết thúc chuyển lưu diễn, G-Dragon trở lại phòng thu để hoàn tất album thứ hai của mình. YG Entertainment sau đó thông báo rằng nghệ sĩ từng giành giải Grammy Missy Elliott sẽ góp mặt trong album.[55] Elliott đã công bố trên Twitter rằng cô góp giọng vào 2 bài "Chugalug" và "Niliria" ("Chugalug" không được phát hành) và đều được sản xuất bởi Teddy P.[56][57]

Bìa album Coup D'Etat

Vào tháng 9 năm 2013, G-Dragon phát hành album phòng thu thứ hai mang tên Coup D'Etat. Trước khi phát hành album đã có hơn 300.000 đơn đặt hàng (chỉ tính riêng tại Hàn). Album bao gồm 14 ca khúc, trong đó có 4 ca khúc chủ đề ("Black", "Who You?", "Crooked" và "Niliria"), được chia làm 3 phần với phần 1 ra mắt online vào ngày 2 tháng 9, phần 2 vào ngày 5 tháng 9 và phần cuối cùng sẽ nằm trong bản cứng của album, lên kệ vào ngày 13 tháng 9. Album có sự tham gia hợp tác của các nghệ sĩ và nhà sản xuất tên tuổi như Missy Elliott, Diplo, Baauer, Boys Noize, Sky Ferreira, Siriusmo, Zion.T, Lydia Paek và ca sĩ cùng hãng đĩa, Jennie Kim. G-Dragon và Missy Elliott biểu diễn ca khúc "Niliria" tại lễ hội âm nhạc KCON 2013 ở Los Angeles. Các ca khúc trong Coup D'Etat liên tục đứng đầu trên các bảng xếp hạng âm nhạc trong nước. Tổng số bảy ca khúc trong album lần lượt đứng từ vị trí thứ nhất tới thứ bảy trên các bảng xếp hạng của Mnet ngay sau khi ra mắt,[58] trong khi sáu bài hát trong Coup D'Etat cũng có mặt trong top 10 bảng xếp hạng đĩa đơn của Gaon với "Who You?" ở vị trí số một.[59] Album cũng đứng đầu các bảng xếp hạng của iTunes ở một số quốc gia.[60][61] Video âm nhạc cho bài hát "Coup D'Etat" được tải lên YouTube vào ngày 1 tháng 9 trong khi video của "Crooked" cũng ra mắt không lâu sau đó vào ngày 4 tháng 9. Thành công của Coup D'état giúp cho G-Dragon nhận tổng cộng bốn giải thưởng tại Mnet Asian Music Awards lần thứ 15: "Nghệ sĩ nam xuất sắc nhất", "Video âm nhạc hay nhất" cho "Coup D'etat", "Màn trình diễn nhảy xuất sắc nhất" cho "Crooked" và giải thưởng quan trọng nhất, "Nghệ sĩ của năm".[62] Anh sau đó tiếp tục mang về cho mình giải thưởng World's Best Entertainer và World's Best Album tại World Music Awards 2014.[63]

2014–2016: Lưu diễn, GD X TAEYANG

G-Dragon cùng Big Bang bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh châu Á, đi qua Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Malaysia và Trung Quốc.[64][65] Anh cũng tham gia chuyến lưu diễn "YG Power Tour" của YG Entertainment thu hút hơn 400.000 khán giả tại bảy thành phố ở châu Á.[66][67]

Vào ngày 17 tháng 11 năm 2014, anh được thông báo sẽ góp mặt trong dự án hip hop của YG Entertainment. Vào ngày 21 tháng 11, anh chính thức cùng Taeyang hợp tác phát hành đĩa đơn "Good Boy" và đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng World Digital Songs của Billboard, giúp họ trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc thứ ba làm được điều này sau PSY và 2NE1.[68] Tại Hàn Quốc hơn 1,1 triệu bản của bài hát được tiêu thụ. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2014 anh cũng hợp tác với Skrillex trong ca khúc "Dirty Vibe" cho album Recess.[69]

Vào tháng 9 năm 2014, G-Dragon kết hợp với nhà chế tác đá quý Chow Tai Fook (周大福) và khai trương bộ sưu tập do chính anh thiết kế.[70][71] Vào hè năm 2015 G-Dragon khai trương một buổi triển lãm nghệ thuật mang tên PEACEMINUSONE: Beyond the Stage.[72] Buổi triển lãm trưng bày trên 200 sản phẩm nghệ thuật của 12 nghệ sĩ trong và ngoài Hàn Quốc như Michael Scoggins, Sophie Clements và James Clar.[73] G-Dragon nói rằng anh chuẩn bị cho buổi triển lãm này trong hơn một năm, với mục đích kết hợp hội họa hiện đại và văn hóa pop với nhau. Anh nói rằng: "Tôi muốn là cầu nối đưa các họa sĩ trong nước tới với công chúng, những người chưa biết nhiều về hội họa hay cảm thấy hội họa khó tiếp cận".[74] Buổi triển lãm được tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc từ ngày 6 tháng 6 cho đến ngày 23 tháng 8 và cũng sẽ dừng chân tại Thượng Hải và Singapore.[75] Anh trở thành gương mặt đại diện cho Airbnb ở thị trường châu Á vào tháng 8 năm 2015.[76]

G-Dragon biểu diễn tại Infinite Challenge Yeongdong Expressway Song Festival vào năm 2015.

Cùng năm đó anh tham gia chương trình Infinite Challenge với Taeyang. Họ cùng với Hwang Kwanghee của nhóm ZE:A phát hành đĩa đơn "Mapsosa", ca khúc đạt vị trí thứ hai trên Gaon Digital Chart.[77] Anh cũng góp giọng trong bài hát "Temple" trong album đầu tay Aa của Baauer cùng với rapper M.I.A.[78]

2017–nay: Kwon Ji Yong, thực hiện nghĩa vụ quân sự

G-Dragon là nghệ sĩ khách mời trong bài hát "Complex" của Zion.T cho album OO (2017) của anh[79], đạt vị trí thứ hai trên Gaon Digital Chart.[80] Anh cũng là rapper khách mời cho đĩa đơn chính của IU "Palette", nằm trong album cùng tên của cô[81], đứng đầu bảng xếp hạng Gaon trong hai tuần liên tiếp.[82] Sau khi kết thúc các hoạt động quảng bá cùng Big Bang, G-Dragon bắt đầu chuẩn bị phát hành album mới, cùng với một chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới.[83]

Đĩa đơn "Bullshit" là đĩa đơn chính trước khi chính thức phát hành EP thứ hai cùng tên của anh.[84] Do ảnh hưởng từ vụ bê bối cần sa của thành viên cùng nhóm T.O.P và tiêu đề ca khúc gây tranh cãi, "Untitled, 2014" được phát hành nhằm xoa dịu dư luận.[85] Từ bỏ phương pháp phát hành nhạc trên CD truyền thống, Kwon Ji Yong được phát hành ở định dạng ổ USB flash vào ngày 8 tháng 6, vấp phải sự chỉ trích từ Gaon, vốn từ chối coi đây là album chính thức. Gaon đã thay đổi quyết định của mình vào cuối năm đó, chấp nhận EP này là hợp pháp.[86] EP đứng đầu bảng xếp hạng iTunes tại 46 quốc gia, nhiều nhất so với bất kỳ một album Hàn Quốc nào, bao gồm cả bảng xếp hạng iTunes của Mỹ. Kwon Ji Yong cũng đứng đầu bảng xếp hạng album iTunes toàn thế giới và iTunes châu Âu, giúp anh trở thành nghệ sĩ solo Hàn Quốc đầu tiên làm được điều này.[87] Tại Hoa Kỳ, Kwon Ji Yong đã trở thành album bán chạy nhất của anh chỉ trong một ngày, lần thứ ba lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200 và quán quân đầu tiên trên Heatseeksers Albums. Ngoài ra, EP trở thành album đứng đầu bảng xếp hạng thứ ba của anh và là đĩa đơn đầu tiên của một nghệ sĩ solo Hàn Quốc có nhiều tuần đứng đầu Billboard World Albums.[88][89] Tại Trung Quốc, album đã vượt mốc 760.000 bản được bán ra trong một ngày trên QQ Music, trang web âm nhạc lớn nhất quốc gia này.[90] Sáu ngày sau khi phát hành, album đã vượt qua một triệu bản bán ra, trở thành album nhanh nhất làm được điều này và là album bán chạy nhất của một năm cho đến nay.[91] Chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới thứ hai của anh, Act III: M.O.T.T.E, bắt đầu tại Sân vận động World Cup Seoul vào ngày 10 tháng 6 năm 2017 và đi qua 29 thành phố trên khắp châu Á, Bắc Mỹ, châu Âu và châu Đại Dương.[92][93][94][95] Chuyến lưu diễn này là chuyến lưu diễn lớn nhất của một nghệ sĩ Hàn Quốc tại Hoa Kỳ và Châu Âu và là chuyến lưu diễn lớn nhất từng được thực hiện bởi một nghệ sĩ solo Hàn Quốc, thu hút 654.000 người trên toàn thế giới tham dự.[9][96][97] Một bộ phim tài liệu hậu trường về chuyến lưu diễn đã được YouTube Premium phát hành vào tháng 9 năm 2018.[98]

G-Dragon bắt đầu thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc trong hai năm vào ngày 27 tháng 2 năm 2018, anh gia nhập trại huấn luyện của Sư đoàn Bộ binh 3 ở tỉnh Gangwon với tư cách là một người lính tại ngũ, nơi anh sẽ xuất ngũ vào ngày 26 tháng 10 năm 2019, sau khi hoàn thành nghĩa vụ.[99] Ngày 26 tháng 10 năm 2019, G-Dragon chính thức xuất ngũ.[100]

Ngay sau khi xuất ngũ, G-Dragon hợp tác với Nike vào tháng 11 năm 2019 cho ra mắt giày Nike Air Force 1 Para-Noise.[101]

2020 - nay: Xuất ngũ, rời YG Entertaiment

Ngày 26/10/2019, G-Dragon chính thức xuất ngũ.[102] Ngay sau khi xuất ngũ, G-Dragon đã trở thành nhạc sĩ Hàn Quốc đầu tiên hợp tác với Nike vào tháng 11 năm 2019 cho Nike Air Force 1 Para-Noise.[103]

Ngày 4 tháng 5 năm 2020, G-Dragon ký hợp đồng làm người mẫu cho thương hiệu đồ uống nổi tiếng Chapai tại Nongpushan, Trung Quốc.[104] Vào ngày 4 tháng 4 năm 2022, G-Dragon trở lại với Bigbang khi họ phát hành bài hát đầu tiên sau 4 năm, "Still Life".[105]

Vào ngày 1 tháng 1 năm 2023, G-Dragon thông báo anh sẽ chuẩn bị một album trở lại.[106] Vào tháng 6 năm đó, YG nói rằng hợp đồng của G-Dragon đã hết hạn, tuy nhiên họ sẽ hợp tác với anh ấy trong các hoạt động như quảng cáo trong khi thảo luận thêm về việc gia hạn hợp đồng.[107][108] Vào ngày 20 tháng 12, có thông báo rằng G-Dragon đã chính thức rời YG Entertainment.[109] Cùng ngày, Galaxy Corporation chính thức thông báo họ đã chính thức ký hợp đồng với G-Dragon, với kế hoạch anh sẽ trở lại vào năm 2024.[110]

Phong cách âm nhạc

"Người ta không thể tạo ra một thứ âm nhạc chuẩn mực một khi người nghệ sĩ cảm thấy rằng âm nhạc là công việc. Khi người ta làm việc cùng âm nhạc, [dù là] biểu diễn hay chỉ đơn thuần tận hưởng nó, ... điều đó vẫn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thứ âm nhạc đó ... Càng làm việc nhiều, tôi càng cảm thấy tôi đang cùng một lúc học hỏi và hoàn thiện bản thân hơn." —G-Dragon[111][112]
"Haru Haru" (2008) Haru Haru, một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Big Bang[113] do chính G-Dragon sáng tác Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Lấy cảm hứng âm nhạc từ Wu-Tang Clan, G-Dragon tham gia vào album hip hop Flex vào năm 2001 khi mới 12 tuổi, bắt đầu sự nghiệp nghệ sĩ của mình.[14] Trong những ngày đầu của Big Bang, ban nhạc được biết đến chủ yếu với thể loại nhạc hip hop, dù sau đó họ bắt đầu chuyển hướng sang nhạc điện tử và tạo ra một xu hướng âm nhạc mới tại Hàn Quốc.[114] Nhờ tiếp xúc với nhiều thể loại âm nhạc khác nhau khi hoạt động cùng với Big Bang, G-Dragon kết hợp các thể loại dance, hip hop, R&B trong abum Heartbreaker.[115] Trong quá trình sản xuất album GD & TOP, G-Dragon lựa chọn sử dụng âm nhạc nhiều tính hip hop hơn, mặc dù anh cũng thừa nhận rằng R&B, acoustic, nhạc điện tử cũng có ảnh hưởng không hề nhỏ.[39]

Trước khi bắt đầu sự nghiệp solo, anh tham gia nhiều vào các album của Big Bang khi viết và soạn nhạc cho phần lớn các ca khúc.[116] Kể từ khi trở thành nghệ sĩ solo, G-Dragon duy trì một sự kiểm soát chặt chẽ lên âm nhạc của mình và nhận xét rằng "mỗi một cảm xúc [khi sáng tạo âm nhạc] đều rất khác nhau",[112] Trong nỗ lực trở nên khác biệt so với các nghệ sĩ khác, G-Dragon đã "tìm tòi, khám phá mọi góc cạnh và tạo nên những câu chuyện khác nhau" với mỗi phần trong âm nhạc của anh.[112] Anh thừa nhận rằng mặc dù phần lời có lẽ là phần lôi cuốn nhất trong các bài hát của anh, anh vẫn muốn mọi khía cạnh trong các bài hát đó được mọi người ghi nhớ.[112]

Đóng góp của G-Dragon vào âm nhạc của anh nhận được nhiều lời khen cũng những ý kiến phê bình. Tờ Korea Times gọi anh là "ca sĩ, nhạc sĩ thiên tài" bởi lời bài hát anh sáng tác "giống như một câu chuyện thực sự vậy".[116] Mặc dù vậy anh cũng bày tỏ rằng anh không thể thoải mái với danh hiệu mà mọi người đặt cho mình.[117] Nhưng nỗ lực tạo ra giai điệu mới cho âm nhạc của anh giúp anh được coi là một trong những người sáng tác nhạc hay nhất năm 2008.[116] Lời rap cũng đưa anh tới vị trí số bốn trong cuộc bình chọn xem ai là rapper "thần thánh nhất" ("Most God-like") tại Nhật.[118] Anh cũng đứng đầu danh sách "Thần tượng hoạt động tích cực nhất" của Forbes Hàn Quốc[119] cũng như có mặt trong danh sách "Korea 2030 Power Leaders."[119][120] Ca sĩ Lee Seung-cheol cũng coi G-Dragon là một trong những nghệ sĩ trẻ mà anh trông đợi.[121]

Hình ảnh trước công chúng

G-Dragon trong bộ đồ diễn khi lưu diễn cùng Big Bang tại Alive Tour năm 2012

Được coi là thành viên "ăn mặc thời trang nhất" nhóm,[122] vai trò của G-Dragon trong việc ảnh hưởng lên các xu hướng thời trang tại Hàn Quốc mang về cho anh các giải thưởng như "Biểu tượng phong cách của năm 2008"[122] và giải thưởng cho "Những người đàn ông có ảnh hưởng nhất năm 2008" do tạp chí Arena tài trợ.[123] Biểu tượng thời trang Kang Dong Won cũng thừa nhận những ảnh hưởng nhất định của G-Dragon và gọi anh là một "fashionista" (chuyên gia về thời trang).[124] Vào năm 2013, G-Dragon có mặt trong Style Icon Top 10 và sau đó giành giải Style Icon of the Year Award 2013. Anh là ca sĩ đầu tiên nhận được giải thưởng này một cách trọn vẹn.[125] Nhân vật truyền hình nổi tiếng Kim Jun Hee, khi nói tại "Follow Me Season 2" của Fashion N, đã bày tỏ sự ngưỡng mộ của cô dành cho G-Dragon, nói rằng "G-Dragon không chỉ có thị hiếu về thời trang, mà còn có thể sáng tác nhạc như một thiên tài vậy."[126]

Khi quảng bá cho Heartbreaker, việc đổi kiểu tóc và nhuộm vàng rất được lòng của người hâm mộ và trở thành một trong những kiểu tóc nổi bật của năm 2009.[127] Mặc dù vậy G-Dragon cũng thừa nhận rằng cá nhân anh phải tỉnh táo trong vai trò một người làm âm nhạc, nhấn mạnh rằng "tôi đã thay đổi nhiều trong đó có cả giọng hát bởi tôi ý thức rõ về công việc của mình khi phải đứng trước người khác."[111] Nhờ ý thức được rằng hình ảnh trước công chúng là rất quan trọng khi quảng bá âm nhạc của mình, G-Dragon cho rằng "điều mà công chúng nhìn nhận [về ngoại hình của tôi] phụ thuộc vào tôi nên đó sẽ là lỗi của tôi nếu tôi biểu lộ nhầm ý muốn của mình."[111] Mặc dù thành công cả khi solo cũng như trong vai trò trưởng nhóm của Big Bang, G-Dragon thừa nhận rằng anh không biết mình nổi tiếng đến mức nào cho tới khi anh tham gia chuyến lưu diễn thế giới của Big Bang.[128] Anh cũng hết sức phản đối việc các ca sĩ trở thành "sản phẩm" của nền công nghiệp giải trí.[129] Anh sau đó được góp mặt trong danh sách "50 lý do vì sao Seoul là thành phố tốt nhất" của CNN.[39]

Tranh cãi

G-Dragon bị Sony Music cáo buộc đạo nhạc khi ca khúc "Heartbreaker" và "Butterfly" được cho là giống với "Right Round" của fluor Rida và "She's Electric" của nhóm Oasis[116][130]. Tuy nhiên, EMI, đơn vị giữ bản quyền đối với "Right Round" cho rằng giữa hai ca khúc không có điểm nào giống nhau.[131] Sony Hàn Quốc đã không cho phép G-Dragon tiếp tục quảng bá những ca khúc này khi chưa có hành động bồi thường thiệt hại. Ngày 21 tháng 9 năm 2009, tạp chí Sisa, một chương trình mới của đài MBC, dẫn nguồn tin từ những quan chức của Sony rằng họ đã gửi cho YG Entertainment thư cảnh cáo về việc vi phạm tác quyền này. Người đại diện pháp lý của Sony cũng cho biết: "Thật khó để có quyết định chính xác đối với những tranh cãi trong âm nhạc". Tuy nhiên, họ đã quyết định rằng giữa các ca khúc có sự giống nhau và tiếp sau đó họ đã gửi thư cảnh cáo đến đơn vị sản xuất và các nhạc sĩ hòa âm. Họ cũng không cho phép YG Entertainment quảng bá những ca khúc này. Cả Big Bang lẫn đồng nghiệp cùng công ty là 2NE1 đều bị đặt dưới những cáo buộc vi phạm tương tự[132]. Tuy nhiên, YG Entertainment cho rằng không có bất kì quyết định nào có tính pháp lý được đưa ra và rằng "lá thư" mà YG nhận được từ Sony không được xem là một hành động có tính pháp lý; công ty này cũng thông báo họ vẫn chưa nhận được bất cứ sự phản hồi trực tiếp nào từ những nhà sản xuất tại Hoa Kỳ về vấn đề này[133].

Vào ngày 6 tháng 3 năm 2010, YG Entertainment thông báo rằng họ đã đích thân liên hệ với người đại diện của fluor Rida để mời anh góp mặt trong album live của G-Dragon, Shine a Light và fluor Rida đã đồng ý.[134] Sự việc được xem như kết thúc khi bản song ca Heartbreaker của G-Dragon và fluor Rida chính thức được phát hành. Không bao lâu sau G-Dragon được mời tham gia vào show của fluor Rida và nhận được nhiều lời khen từ rapper da màu này.

Danh sách đĩa nhạc

Bài chi tiết: Danh sách đĩa nhạc của G-Dragon Xem thêm: Danh sách đĩa nhạc của Big Bang
  • Heartbreaker (2009)
  • Coup d'Etat (2013)
  • Coup d'Etat + One of a Kind & Heartbreaker (2013)

Giải thưởng

Bài chi tiết: Danh sách giải thưởng và đề cử của G-Dragon Xem thêm: Danh sách giải thưởng và đề cử của Big Bang

Tham khảo

  1. ^ Deml, Jessica (25 tháng 5 năm 2018). G Dragon Net Worth 2018. The Gazette Review. tr. 34.
  2. ^ a b Russell, Mark (29 tháng 4 năm 2014). K-Pop Now!: The Korean Music Revolution. Tuttle Publishing. tr. 34. ISBN 978-1-4629-1411-1.
  3. ^ “K-Pop's G Dragon Eager For Challenge Of Solo Tour”. Pollstar. 20 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ Peng, Elizabeth (31 tháng 7 năm 2017). “G-Dragon, the Undisputed King of K-Pop, Takes New York”. Vogue (bằng tiếng Anh). Conde Nast. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ Chakraborty, Riddhi (14 tháng 7 năm 2017). “I Traveled All the Way to Bangkok to Watch the King of K-Pop Live and it Was Totally Worth it”. Rolling Stone India. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  6. ^ Edwina Mukasa (2013). “G-Dragon – K-pop's golden boy”. Dazed Media. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021. G-Dragon, is one of the most powerful artists within the K-pop industry and the current King of K-pop
  7. ^ Spangler, Todd (26 tháng 4 năm 2017). “K-Pop Superstars BigBang Go Camping in YouTube Red's First Korean Show”. Variety.com. Penske Media Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  8. ^ Arnoldo, Claudia (3 tháng 5 năm 2013). “G-Dragon adds Hong Kong and Japan concert dates to solo world tour”. Asia Pacific Arts. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  9. ^ a b Herman, Tamar (25 tháng 4 năm 2017). “G-Dragon Announces 2017 Act III, M.O.T.T.E World Tour”. Billboard.
  10. ^ Lochanski, Tess (27 tháng 6 năm 2017). “"korean style is about moving fast" -- g-dragon discusses the sound of korea's future”. i-D. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  11. ^ “30 Under 30 2016 Asia: ENTERTAINMENT & SPORTS”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  12. ^ Lord, Richard (18 tháng 7 năm 2017). “Ahead of G-Dragon's Hong Kong show, we talk to him about new album, touring solo, and who Kwon Ji-yong really is”. South China Morning Post. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  13. ^ “Gaon Digital Chart - Untitled, 2014”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  14. ^ a b c d e f Park, So-Youn (1 tháng 3 năm 2006). :新스타고백 지드래곤③연습생시절, 1년간 죽어라 청소만. Yahoo Korean News (bằng tiếng Hàn). Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  15. ^ a b c Kim, So-ra (7 tháng 7 năm 2006). '준비된 그룹' 빅뱅, 대폭발 예고. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). Chosun Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  16. ^ [新스타고백]지드래곤③연습생시절, 1년간 죽어라 청소만. asiae.co.kr. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  17. ^ a b 新스타고백지드래곤⑤아이돌그룹 활동, 망설였다 (bằng tiếng Hàn). Asiae News. 2 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  18. ^ a b “Big Bang Profile”. KBS World. Korean Broadcasting System. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  19. ^ 무제 문서. 18 tháng 5 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  20. ^ “Big Bang's Showcase & First Fan Meeting”. Arirang TV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  21. ^ Kim, Hyung-woo (21 tháng 1 năm 2008). 빅뱅 쥬크온차트 8주 연속 1위 기염, JOO도 2주만에 7위 진입. Newsen (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  22. ^ “Big Bang's 'Day by Day' Sweeps J-POP Charts for Four Weeks”. KBS World. Korean Broadcasting System. 8 tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  23. ^ (tiếng Hàn) “'빅뱅' 지드래곤, 日그룹 '윈즈' 앨범 참여..뮤비도 출연”. Thể thao Triều Tiên. 8 tháng 5 năm 2009. Truy cập 12 tháng 1 năm 2010.
  24. ^ (tiếng Trung) “G-Dragon与W-inds合作日本同台演出获好评” (bằng tiếng Trung). Sina. 19 tháng 5 năm 2009. Truy cập 12 tháng 1 năm 2010.
  25. ^ (tiếng Anh) Kim, Lynn. G-Dragon Vol. 1 - Heartbreaker Yes Asia. Truy cập 2 tháng 1 năm 2010.
  26. ^ (tiếng Anh) G-Dragon nhóm Big Bang phát hành album solo Lưu trữ 2010-06-09 tại Wayback Machine KBS World. Truy cập 2 tháng 1 năm 2010.
  27. ^ (tiếng Anh) Seo Tai-ji Tops Album Sales. The Korea Times 18 tháng 9 năm 2009. Truy cập 29 tháng 9 năm 2009.
  28. ^ Han Sang, Hee (22 tháng 11 năm 2009). “Music Awards Has Fresh Yet Disappointing Start”. Thời báo Hàn Quốc. Truy cập 13 tháng 12 năm 2009.
  29. ^ Han Sang, Hee (28 tháng 10 năm 2009). “G-Dragon Shines on First Album”. Korean Times. Truy cập 5 tháng 11 năm 2009.
  30. ^ (tiếng Anh) Kim, Lynn. G-Dragon chinh phục bảng xếp hạng âm nhạc Hàn Quốc Asiae. 7 tháng 9 năm 2009. Truy cập 29 tháng 9 năm 2009.
  31. ^ a b “Singer G-Dragon Faces Obscenity Probe”. The Chosun Ilbo. 11 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2009.
  32. ^ Han Sang, Hee (13 tháng 10 năm 2009). “G-Dragon to Hold 1st Solo Concert”. The Korea Times. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2009.
  33. ^ “G-Dragon's Suggestive Concert Creates Stir”. Korea Times. 8 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2009.
  34. ^ Hicap, Jonathan M. (19 tháng 12 năm 2009). “Fans defend G-Dragon against concert controversy” (bằng tiếng Anh). Manila Bulletin Publishing Corporation. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
  35. ^ Hicap, Jonathan M. (8 tháng 1 năm 2010). “G-Dragon fans file petition over concert fiasco”. Manila Bulletin Publishing Corporation. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
  36. ^ Lee, Jae-hoon (ngày 15 tháng 4 năm 2010). “'선정성 재판' G드래곤 콘서트, 영화도 12세可” (bằng tiếng Hàn). Nate.com. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
  37. ^ “G-Dragon and Top to Release Duet Album in December”. KBS World. ngày 30 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  38. ^ Kim, Jessica (ngày 15 tháng 12 năm 2010). “Big Bang T.O.P, G-Dragon pose at album showcase”. 10Asiae. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  39. ^ a b c Yoon, Hee-Seong (ngày 15 tháng 12 năm 2010). “G-Dragon and T.O.P hold world premiere showcase for duo unit”. 10Asiae. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  40. ^ Hong, Lucia (ngày 24 tháng 12 năm 2010). “Big Bang unit G-Dragon and T.O.P release third title track”. 10Asiae. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  41. ^ “Big Bang duo on TV today”. The Korea JoongAng Daily. ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  42. ^ Kim, Heidi (ngày 6 tháng 1 năm 2011). “IU "Good Day" stays atop Gaon chart for 4th week”. 10Asiae. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  43. ^ Kim, Heidi (ngày 4 tháng 1 năm 2011). “IU's "Good Day" takes charge of Mnet chart for 4th week”. 10Asiae. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  44. ^ “Gaon Chart Search: GD & TOP” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2010.
  45. ^ '발매 D-2' GD·탑 유닛 첫앨범, 선주문만 '20만장' (GD&TOP's album receives 200,000 pre-orders)” (bằng tiếng Hàn). Daum. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  46. ^ JONATHAN M. HICAP. “YG Entertainment affected by G-Dragon's marijuana scandal”. mb.com.ph. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng 11 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày lưu trữ= (trợ giúp)
  47. ^ ngày 13 tháng 10 năm 2011 (ngày 13 tháng 10 năm 2011). “Japanese Public Opinion Criticizes G-Dragon”. Soompi. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  48. ^ “YG Entertainment in state of emergency [NEWS”. bigbangupdates. ngày 5 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  49. ^ Vitalsign. “G-Dragon's solo comeback scheduled for August”. Allkpop.com. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  50. ^ leesa86. “GD&TOP to feature in English singer Pixie Lott's new Japanese release”. Allkpop.com. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  51. ^ “G-Dragon releases MV for "One of A Kind"”. allkpop. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2012.
  52. ^ “G-Dragon achieves a perfect all-kill with "That XX"”. Allkpop. ngày 31 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2012.
  53. ^ “G-Dragon - First Mini Album Tracklist”. YG Life. ngày 3 tháng 9 năm 2012.
  54. ^ “G-Dragon Enters the Billboard 200 and Places First on the Billboard World Album Chart - M NET”. Global.mnet.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2012.
  55. ^ “Big Bang G-Dragon to Make Solo Comeback this August, 'Missy Elliot to Feature'”. KpopStarz. ngày 25 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2013.
  56. ^ “Twitter / MissyElliott: @IFIWereMagneto it was 2 records...”. Twitter. ngày 23 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2013.
  57. ^ “Twitter / MissyElliott: @TracyCozette funny I did a...”. Twitter. ngày 23 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2013.
  58. ^ “G-DRAGON'S NEW SONG "SWEEPING THE CHART" UPON BEING RELEASED”. yg-life.com. YG Entertainment. ngày 5 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  59. ^ “GAON Weekly Single Chart”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2022.
  60. ^ “G-DRAGON TOPPING 8 COUNTRIES' ITUNES CHARTS... BEGINNING TV APPEARANCE AT "SKETCHBOOK"”. yg-life.com. YG Entertainment. ngày 4 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  61. ^ “Big Bang G-Dragon Tops 7 Countries iTunes Charts with New Album, 'COUP D'ETAT'”. KpopStarz. KpopStarz.com. ngày 3 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  62. ^ “Winners from the '2013 MAMA'!”. Allkpop. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2013.
  63. ^ “G-Dragon wins 'World's Best Entertainer' and 'World's Best Album' awards”. AllKpop. ngày 18 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2014.
  64. ^ “G-Dragon, Taeyang and Seungri fan meeting in Taiwan”. http://hanryu-iace.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015. Liên kết ngoài trong |nhà xuất bản= (trợ giúp)
  65. ^ “Big Bang G-Dragon, Taeyang and Seungri To Hold First Fan Meeting 'Thinking Of You' in Malaysia”. kpopstarz. ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  66. ^ “YG Entertainment to Step Up Its Game”. Kpop Starz. ngày 17 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  67. ^ “YG Family successfully completes their "2014 Galaxy Tour" in Taiwan!”. Koreaboo. ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  68. ^ Benjamin, Jeff (ngày 1 tháng 12 năm 2014). “G-Dragon & Taeyang's 'Good Boy' Debuts at No. 1 on World Digital Songs”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2015.
  69. ^ “DJ Skrillex's New Album Featuring G-Dragon And CL Ranks 4th On Hoa Kỳ Billboard Chart”. Kpopstarz. ngày 28 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2014.
  70. ^ “Chow Tai Fook x G-Dragon Jewellery Collection”. http://senatus.net. ngày 9 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015. Liên kết ngoài trong |nhà xuất bản= (trợ giúp)
  71. ^ “G-Dragon collaborates with HK jeweller to produce limited edition collection”. Asia One. ngày 19 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  72. ^ “G-Dragon Unveils 'PEACEMINUSONE' Exhibit In Seoul”. Kpop Starz. ngày 30 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  73. ^ “G-Dragon to hold art exhibition”. Asia One. ngày 26 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  74. ^ “Big Bang's G-Dragon Says He Curated Seoul Museum Of Art Exhibition For People 'Unfamiliar With Art Or Who Find Art Unapproachable'”. Kpop Starz. ngày 9 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  75. ^ “G-Dragon art exhibition opens in Seoul”. Channel News Asia. ngày 11 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  76. ^ “G-Dragon Is Now An Airbnb Host”. Nylon Singapore. ngày 20 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2015.
  77. ^ “′Infinity Challenge′ Addresses Song Festival Spoilers”. mwave. CJ DigitalMusic. ngày 29 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  78. ^ “M.I.A. & G-Dragon Team Up on Baauer's 'Temple' From His Debut Album 'Aa'”. Billboard. ngày 17 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
  79. ^ “[Exclusive]G-DRAGON to Feature on ZION.T's New Song”. YG Life.
  80. ^ [가온차트_2017년 01월간] 에일리, '첫눈처럼 너에게 가겠다' 가온차트 1월 종합1위. Korea Music Content Industry Association (KMCIA). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
  81. ^ Herman, Tamar (21 tháng 4 năm 2017). “IU Releases Coming-of-Age Single 'Palette,' Feat. G-Dragon”. Billboard.
  82. ^ 2017년 17주차 Digital Chart. Gaon Digital Chart. Korea Music Content Industry Association (KMCIA). 29 tháng 4 năm 2017.
  83. ^ “[Exclusive] GD&TAEYANG confirmed to come back as solo artists... BIGBANG is coming again”. YG Life. 7 tháng 12 năm 2016.
  84. ^ “[Official Announcement] Title of G-DRAGON's New Album is "KWON JIYONG", and the Title Song is "BULLSHIT"”. YG Life.
  85. ^ “(LEAD) G-Dragon switches new album's title song amid T.O.P scandal”. Yonhap News. 8 tháng 6 năm 2017.
  86. ^ Yoon, Min-sik (26 tháng 12 năm 2017). “G-Dragon's USB EP is legitimate: Gaon”. Korea Herald.
  87. ^ Guerra, Joey (20 tháng 7 năm 2017). “K-pop star G-Dragon explores celebrity, identity at Houston show”. Houston Chronicle.
  88. ^ Benjamin, Jeff (21 tháng 6 năm 2017). “G-Dragon Tops World Albums Chart for 2nd Week to Nearly Double Total U.S. Sales”. Billboard.
  89. ^ Benjamin, Jeff. “G-Dragon's 'Kwon Ji Yong' Earns His Best U.S. Sales Week Yet in Just 1 Day”. Billboard K-Town (bằng tiếng Anh).
  90. ^ Kim, Jae Seong (12 tháng 6 năm 2017). 지드래곤, 음원 발표 하루 만에 중국서 번 돈이.... JoongAng Daily.
  91. ^ Jie, Ye-eun (15 tháng 6 năm 2017). “G-Dragon's 'Kwon Ji Yong' going strong in China”. The Korea Herald.
  92. ^ GD, 세 번째 솔로 콘서트 개최...YG "날짜 확정無" [공식입장]. Naver. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2017.
  93. ^ Yang, Jin-young (31 tháng 3 năm 2013). [단독] 빅뱅 지드래곤, 6월10일 4년 만에 솔로 콘서트 개최...상반기 컴백 임박. NEWSPIM.
  94. ^ “Official site: G-DRAGON 2017 WORLD TOUR <ACT III, M.O.T.T.E>”. YG Entertainment. 25 tháng 4 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
  95. ^ “G-Dragon adds five European cities to on-going solo concert tour”. Yonhap News Agency.
  96. ^ BIGBANGのG-DRAGON、2017年ソロワールドツアーの東京ドーム公演DVD&Blu-rayが2月7日リリース決定!. kstyle.com (bằng tiếng Nhật). 28 tháng 12 năm 2017.
  97. ^ Sung, Mi Kyung (21 tháng 9 năm 2017). 지드래곤, 日 공연서 군입대 언급.."빅뱅 투어 후 긴 공백". OSEN.
  98. ^ Herman, Tamar (23 tháng 8 năm 2018). “G-Dragon Tour Documentary 'Kwon Ji Yong Act III: Motte' Heading to YouTube Premium”. Billboard.
  99. ^ Kim, Hye Sun (14 tháng 2 năm 2018). 지드래곤, 27일 현역 입대 확정 "조용히 입소"(공식). Naver.
  100. ^ “지드래곤, 3천팬 응원 속 전역..."군인 아닌 본업으로 돌아가 충실히 임하겠다" [종합]” (bằng tiếng Hàn). XSportsNews. 26 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2020.
  101. ^ “지드래곤 x 나이키 에어 포스 1 '파라-노이즈'는 어떤 스니커인가?”.
  102. ^ “지드래곤, 3천팬 응원 속 전역..."군인 아닌 본업으로 돌아가 충실히 임하겠다" [종합]” (bằng tiếng Hàn). XSportsNews. 26 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2019.
  103. ^ “지드래곤 x 나이키 에어 포스 1 '파라-노이즈'는 어떤 스니커인가?”. 22 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2020.
  104. ^ “G-DRAGON of BIGBANG Selected as a Model for a Chinese Brand... Conquers Local Billboards”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2020.
  105. ^ “BigBang make K-pop comeback with single Still Life, their first in 4 years”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). 6 tháng 4 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2022.
  106. ^ “뿔뿔이 흩어진 빅뱅, 지드래곤X태양 6년만 솔로 기지개[뮤직와치]”. Newsen. 1 tháng 1 năm 2023.
  107. ^ “YG "지드래곤과 전속계약 만료...별도 계약 통해 협력 중" [공식]”. Naver. 6 tháng 6 năm 2023.
  108. ^ “지드래곤, '피지컬:100' 제작사와 전속계약? "공식답변 불가"”. Naver. 5 tháng 12 năm 2023.
  109. ^ “[단독]'마약 누명' 벗은 지드래곤, 갤럭시 안간다...YG 복귀 유력”. Sports Seoul. 20 tháng 12 năm 2023.
  110. ^ “지드래곤, 갤럭시行 확정..."YG 덕에 지금의 권지용 있어, 내년 컴백" [엑's 현장]”. XSports News. 20 tháng 12 năm 2023.
  111. ^ a b c Kang, Myoung-Seok. “Big Bang G-Dragon Pt. 1”. 10Asiae. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  112. ^ a b c d Kang, Myoung-Seok. “Big Bang G-Dragon Pt. 2”. 10Asiae. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  113. ^ “Big Bang unveils Japanese version of 'Haru Haru'”. Allkpop. ngày 30 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2012.
  114. ^ Kim, Wong-Yeon (ngày 28 tháng 2 năm 2008). “Big Bang, Brown Eyed Girls, Jewelry... The trend of J-pop 'Electronica'” (bằng tiếng Hàn). Star News. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2008.
  115. ^ “新스타고백 지드래곤⑫"솔로앨범, 저한테는 도박이었죠"” (bằng tiếng Hàn). 10Asiae. ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2010.
  116. ^ a b c d Lee, Sung-moo (ngày 28 tháng 10 năm 2009). “Is Plagiarism a New Genre?”. The Korea Times. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2009.
  117. ^ '빅뱅' G드래곤 "내가 천재라고? 천만에"” (bằng tiếng Hàn). The Kyunghyang Shinmum. ngày 8 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2011.
  118. ^ Kim, Hyun (ngày 30 tháng 1 năm 2011). “지드래곤, 日 `신이라 생각하는 래퍼` 4위 에미넴도 제쳐” (bằng tiếng Hàn). Daily News. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2011.
  119. ^ a b Jonathan M. Hicap. “G-Dragon tops Forbes Korea's ranking of most hardworking idols”. mb.com.ph. Lưu trữ bản gốc 11 Tháng 10 2012. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày lưu trữ= (trợ giúp)
  120. ^ “G-Dragon chosen by Forbes Korea as one of the TOP 40 Korea 2030 Power Leaders”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2015.
  121. ^ “Lee Seung Chul Praises G-Dragon 'I Think He's the Best'”.
  122. ^ a b Kang, Jiyong (ngày 27 tháng 11 năm 2007). “빅뱅 G드래곤 "의상 전공에 욕심있다"” (bằng tiếng Hàn). SSTV. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2008.
  123. ^ “지드래곤, 2008 'A-어워즈' 스타일 부문 수상” (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 10 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2009.
  124. ^ “강동원 "보헤미안 스타일 올 가을 유행 예감"[포토엔]” (bằng tiếng Hàn). Newsen. ngày 19 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
  125. ^ “G-Dragon Receives Grand Prize, First Such Case for Solo Singer”. OSEN via YG Life. ngày 25 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2014.
  126. ^ “Kim Jun Hee Praises G-Dragon for His Fashion Taste and Musical Skills”. Soompi. ngày 25 tháng 10 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2013.
  127. ^ “강동원 "보헤미안 스타일 올 가을 유행 예감"[포토엔]” (bằng tiếng Hàn). Newsen. ngày 21 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
  128. ^ Sun, Rebecca (ngày 29 tháng 1 năm 2014). “K-Pop Star G-Dragon on His Growing Global Influence: 'I Didn't Realize How Famous I Was' (Q&A)]”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2014.
  129. ^ “GDㆍ탑이 밝힌 '불화설'과 '스캔들'” (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 4 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010.
  130. ^ (tiếng Anh) YG Hits Sony Over Plagiarism Allegations. The Korea Times. 25 tháng 9 năm 2009. Truy cập 29 tháng 9 năm 2009.
  131. ^ (tiếng Hàn) 지드래곤, '표절이라 단정하기엔 섣부른 판단!'. 한경닷컴. 21 tháng 8 năm 2009. Truy cập 2 tháng 10 năm 2009
  132. ^ (tiếng Hàn) 경고장 발송’ 소니, 오늘(21일) 지드래곤 표절관련 입장발표. Newsen. 21 tháng 9 năm 2009. Truy cập 21 tháng 9 năm 2009
  133. ^ (tiếng Hàn) "표절 경고장 불쾌"…양현석 뿔났다 Lưu trữ 2012-07-17 tại Archive.today. donga.com. 25 tháng 9 năm 2009. Truy cập 2 tháng 10 năm 2009
  134. ^ Heo, Minyoung (ngày 17 tháng 9 năm 2010). “지드래곤 "거 봐? 표절 아니지"” (bằng tiếng Hàn). DongA News. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2010.

Liên kết ngoài

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về G-Dragon.
  • Website chính thức
  • G-Dragon trên Instagram
  • G-Dragon trên Twitter Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • x
  • t
  • s
Big Bang
  • G-Dragon
  • Taeyang
  • T.O.P
  • Daesung
  • Seungri
Album
Tiếng Hàn
  • Bigbang Vol.1
  • Remember
  • MADE
Tiếng Nhật
  • Number 1
  • Big Bang
  • Big Bang 2
  • Alive
  • Made Series
EP
Tiếng Hàn
  • Always
  • Hot Issue
  • Stand Up
  • Tonight
  • Alive
Tiếng Nhật
  • For the World
  • With U
  • Special Final in Dome Memorial Collection
Album tổng hợp
  • The Best of Big Bang
  • The Best of Big Bang 2006-2014
Lưu diễn
  • Alive Galaxy Tour
  • Japan Dome Tour
  • MADE World Tour
Bài viết liên quan
  • GD & TOP
  • YG Entertainment
  • Universal Music Group
  •  Thể loại Thể loại
  •  Trang Commons Commons
  • Danh sách đĩa nhạc
  • Giải thưởng và đề cử
  • Lưu diễn solo
  • Lưu diễn
  • x
  • t
  • s
G-Dragon
  • Danh sách đĩa nhạc
  • Danh sách video
  • Danh sách phim
  • Bài hát sáng tác
  • Giải thưởng và đề cử
Album phòng thu
Tiếng Hàn
  • Heartbreaker
  • Coup d'Etat
Tiếng Nhật
  • Coup d'Etat + One of a Kind & Heartbreaker
Đĩa mở rộng
  • One of a Kind
  • Kwon Ji Yong
Album hợp tác
  • GD & TOP
Chuyến lưu diễn
  • Shine a Light
  • One of a Kind World Tour
  • Act III, M.O.T.T.E
Đĩa đơn
  • "Heartbreaker"
  • "Breathe"
  • "Butterfly"
  • "A Boy"
  • "That XX"
  • "Michi Go"
  • "Niliria"
Hợp tác
  • "Rain Is Fallin"
  • "High High"
  • "Dirty Vibe"
  • "Good Boy"
Liên quan
  • Big Bang
  • GD & TOP
  • GD X Taeyang
  • YG Entertainment
  •  Thể loại Thể loại
  •  Trang Commons Commons
  • x
  • t
  • s
YG Entertainment
Điều hành
  • Yang Hyun-suk (người sáng lập)
  • Yang Min-suk (đồng CEO)
  • Hwang Bo-kyung (đồng CEO)
Nghệ sĩ
Solo
  • Eun Ji-won
  • G-Dragon
  • Kang Seung-yoon
  • Mino
  • Jennie
  • Jinu
  • Lee Su-hyun
  • Rosé
  • Lisa
  • Lee Chan-hyuk
  • Jisoo
Nhóm nhạc
  • Sechs Kies
  • Big Bang
  • AKMU
  • Winner
  • Blackpink
  • Treasure
  • BabyMonster
Nhóm nhỏ
  • GD & TOP
  • GD X Taeyang
Công ty con
The Black Label
  • Zion.T
  • Somi
  • Loren
  • Vince
  • Taeyang
  • Park Bo-gum
YGX
  • Viini
  • Leejung Lee
Diễn viên
  • Cha Seung-won
  • Choi Ji-woo
  • Claudia Kim
  • Jang Hyun-sung
  • Jang Ki-yong
  • Jin Kyung
  • Jung Hye-young
  • Kal So-won
  • Gang Dong-won
  • Kim Hee-ae
  • Kim Ji-soo
  • Kyung Soo-jin
  • Lee Soo-hyuk
  • Lee Sung-kyung
  • Park So-yi
  • Seo Jeong-yeon
  • Son Na-eun
  • Yoo In-na
  • Yoo Seung-ho
  • Lee Ho-jung
Nhà sản xuất
  • Teddy Park
  • Choice37
  • Future Bounce
Cựu nghệ sĩ
  • Jinusean
  • 1TYM
  • Wheesung
  • Big Mama
  • Lexy
  • Gummy
  • Se7en
  • Masta Wu
  • Minzy
  • Park Bom
  • 2NE1
  • Nam Tae-hyun
  • Stephanie Lee
  • Koo Hye-sun
  • Jung Eugene
  • Lee Jong-suk
  • Katie Kim
  • Psy
  • Epik High
  • Hyoni Kang
  • Code Kunst
  • Tablo
  • Go Joon-hee
  • Seungri
  • Oh Sang-jin
  • Yoo Byung-jae
  • Kim Hee-jung
  • B.I
  • One
  • CL
  • Im Ye-jin
  • Kim Sae-ron
  • Lee Hi
  • Wang Ji-won
  • Taebin
  • Hi Suhyun
  • MOBB
  • Nam Joo-hyuk
  • Ahn Young-mi
  • Blue.D
  • Sandara Park
  • Son Ho-jun
  • Anda
  • T.O.P
  • Hwang Seung-eon
  • Jo Hye-joo
  • Bang Ye-dam
  • Daesung
  • iKon
Chuyến lưu diễn
  • Power World Tour
Bài viết liên quan
  • Danh sách đĩa nhạc
  • YGKPlus
  • Thể loại Thể loại
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BNF: cb16515151f (data)
  • ISNI: 0000 0001 2054 1208
  • LCCN: no2015058020
  • MBA: b4f66d7f-3282-404e-a682-97374d63b5ab
  • NLK: KAC201620308
  • VIAF: 171492549
  • WorldCat Identities (via VIAF): 171492549

Từ khóa » G Rồng