GIÁO ÁN BDHSG NGỮ VĂN 8 - Trường THCS Văn Lang

Ngày soạn: 3/1/2019

Tiết 31 – 32– 33

Buổi 11: TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM LỚP 8

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tác phẩm thơ Việt Nam lớp 8.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về văn bản.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932 – 1945)

Trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước xuất hiện một dòng thơ ca thuộc khuynh hướng lãng mạn. Đó là Thơ mới (hay còn gọi là Thơ mới lãng mạn). Thơ mới là một cuộc cách mạng thơ ca trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc ở thế kỷ 20. Sự xuất hiện của Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Phong trào thơ mới đã mở ra “một thời đại trong thi ca1,mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.

I- Hoàn cảnh lịch sử xã hội.

Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945.

Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình.

Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác.

II- Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới .

Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài Thanh – Hoài Chân xếp đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932 khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu.

Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành ba giai đọan2:

1- Giai đoạn 1932-1935:

Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới.

Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …

2- Giai đoạn 1936-1939:

Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu (tập Thơ thơ -1938), Hàn Mặc Tử (Gái quê -1936, Đau thương -1937), Chế Lan Viên (Điêu tàn – 1937), Bích Khuê (Tinh huyết – 1939), … Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bước vào làng thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn3 . Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này.

Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bằng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng.

3- Giai đoạn 1940-1945:

Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,…

Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát.

III- Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới

Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận địnhh “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “ Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm”4.

1- Tinh thần dân tộc sâu sắc

Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 (mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái). Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được “tung hoành hống hách những ngày xưa” (Nhớ rừng); Huy Thông thì khát khao:

“Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng

Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”.

Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng ru của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hồn thiêng đất nước” trong từng câu ca:

“Nằm trong tiếng nói yêu thương

Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”.

Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày càng trong sáng và giàu có hơn.

Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của ngưòi nghệ sĩ không được tự do (Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm) …

2- Tâm sự yêu nước thiết tha

Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp (Em đi Chùa Hương); hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận (Đẹp xưa); hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh (Quê hương) v.v… Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao: Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.

Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám.

IV- Đặc điểm nổi bật của Phong trào thơ mới

  1. Sự khẳng định cái Tôi

Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào thơ mới, cái Tôi ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.

Ý thức về cái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới lên tiếng trước:

  • “Tôi là con chim đến từ núi lạ …”,
  • “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…

Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:

“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh

Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!”

Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:

“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.

Thơ mới là thơ của cái Tôi5. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.

2 . Nỗi buồn cô đơn

Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối ra”6.

Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thuvới hình ảnh:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”.

(Lưu Trọng Lư ).

Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” (tức dân Chàm):

“Đường về thu trước xa xăm lắm

Mà kẻ đi về chỉ một tôi”

Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao xác gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn nhiều, đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.

Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình.

  1. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu

Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ7. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống.

Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.

Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:

“Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao

Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ”

(Huy Cận).

Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:

“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng

Những khóm tre cao rủ trước thành”

tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam.

Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ông hoàng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên:

“Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá

Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”.

Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo” nhưng là một “thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ sĩ”8.

Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi cô đơn sầu não:

“Với tôi tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”.

Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng buồn” (Kinh cầu tự) và cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn cô đơn “sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ triết lý về điều này một cách sâu sắc:

“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.

  1. Một số đặc sắc về nghệ thuật

Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc.

Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v…

Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần (độc vận) mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo một trật tự nhất định:

“Tiếng địch thổi đâu đây

Cớ sao nghe réo rắt

Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt

Mây bay… gió quyến, mây bay

Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt

Như hắt hiu cùng hơi gió heo may”

(Thế Lữ).

Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây là những câu thơ toàn thanh bằng:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

(Xuân Diệu)

hay

“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi!

Vàng rơi!

Thu mênh mông”

(Bích Khê)

Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh hoạt:

“Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!” (Xuân Diệu)

Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá rầm rộ. Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ cũ”, Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm sâu sắc:

“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều”

(Xuân Diệu)

hay

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng

Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi”

(Anh Thơ)

Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh “Mùa xuân chín” được Hàn Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh:

“Trong làn nắng ửng, khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”.

  1. Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp.

Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và Thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị,… Trong bài Tràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày tỏ lòng yêu nước:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong phú giàu có thêm, tinh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho Thơ mới sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một trong những nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…Hầu hết các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng khá sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng của thơ ca lãng mạn Pháp mà đại biểu là Budelaire, Verlaine, Rimbaud. Sự ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều bình diện: từ cách gieo vần, ngắt nhịp đến cách diễn đạt. Ta có thể tìm thấy điều này ở các bài Nguyệt Cầm, Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Đi giữa đường thơm (Huy Cận), Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ). Một số bài thơ trong tập Tinh huyết (Bích Khê), Thơ điên (Hàn Mặc Tử), Thơ say (Vũ Hoàng Chương) chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái suy đồi của thơ ca Pháp (các bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud, Tương hợp của Budelaire …).

Trong bài “Thơ mới-cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về hệ thống ngôn từ Thơ mới “Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”9. Đó là sự giao thoa tiếng Việt với thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp đối với Phong trào thơ mới không tách rời nhau. Điều này cho thấy tác động và ảnh hưởng từ nhiều phía đối với Thơ mới là một tất yếu trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp Đông -Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới.

Sau 75 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những giá trị tốt đẹp của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách và có sức sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc.

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà:

- Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

 

 

 

 

Ngày soạn: 5/1/2019

Tiết 34 – 35– 36

Buổi 12: TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM LỚP 8

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tác phẩm thơ Việt Nam lớp 8.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về văn bản.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

NỘI DUNG:

NỘI DUNG:

- Khoảng sau năm 1930, một loạt các thi sĩ trẻ xuất thân Tây học lên án thơ cũ là khuôn sáo, trói buộc. Họ đòi hỏi đổi mới thi ca và sáng tác những bài thơ không hạn định về số câu, chữ -> Thơ mới.

- Phong trào Thơ mới ra đời và phát triển mạnh mẽ rồi đi vào bế tắc chư­­a đầy 15 năm. Thơ mới chủ yếu là thơ tự do7 hoặc 8 tiếng. So với thơ cũ, nhất là thơ Đ­­ường luật, thì Thơ mới tự do, phóng túng, linh hoạt hơn, không còn bị ràng buôc bởi những quy tắc nghiệt ngã của thi pháp thơ cổ điển.

Hai chữ Thơ mới trở thành tên gọi của một phong trào thơ (còn gọi là thơ lãng mạn), gắn liền với tên tuổi của thế Lữ, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu...

  1. Lịch sử phong trào Thơ mới (1932-1945)

1. Hoàn cảnh lịch sử làm xuất hiện phong trào Thơ mới

- Sự xuất hiện của giai cấp tư­­ sản và tiểu tư­­ sản thành thị với những tư­­ t­ưởng, tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng sự giao l­­ưu văn hóa Đông Tây là nguyên nhân chính làm phong trào Thơ mới ra đời

- Thơ mới lãng mạn xuất hiện từ trư­ớc 1930, thi sĩ Tản Đà chính là ngư­­ời dạo khúc nhạc đầu tiên cho cuộc hòa tấu lãng mạn sau này.

Thơ mới là phong trào thơ ca lãng mạn mang ý thức hệ t­­ư sản và quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật

2. Cuộc đấu tranh giữa “thơ cũ” và “Thơ mới”

- Thơ mới chuyển dần từ Nam ra Bắc, lớn tiếng công kích thơ cũ sáo mòn, công thức, hô hào bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ...Thơ mới lần l­ượt dăng trên các tạp chí ở Hà Nội

năm 1933, L­­ưu Trọng L­­ư cho đăng một loạt thơ mới của mình trong tập “ Ng­ười sơn nhân”. Ttrong bài Một cuộc cải cách về thơ ca, Lưu Trọng Lư gọi những ngư­ời làm thơ cũ là “Thợ thơ’. Họ cũng như­­ những ng­­ười thợ mộc chỉ lo chạm chìm, chạm nổi, trổ rồng, trổ phư­ợng... nào hay khi chạm trổ xong, chư­­a biết dùng vào việc gì thì rồng ph­­ượng đã bay về trời hết.

Lưu Trọng Lư đề nghị các nhà thơ phải mau đem những ý t­­ưởng mới những tình cảm mới thay vào những ý tư­­ởng cũ, tình cảm cũ.

- Năm1934-1936 hàng loạt tác phẩm ra đời

- Năm 1936, có thể coi thơ mới thắng thế trong cuộc tranh luận về thể loại

- Từ 1936, tiếng tranh cãi yếu dần, Thơ mới chính thức đ­­ược dạy trong các tr­­ờng học, đã chiếm ­­ưu thế gần như­­ tuyệt đối trong các tạp chí từ Nam ra Bắc

3. Các thời kỳ phát triển và suy thoái của Thơ mới

a. Từ 1932- 1939

- Lớp nhà thơ đầu tiên: Thế Lữ, L­­u Trọng L­­, Huy Thông, Nguyễn Như­­ợc Pháp, Vũ Đình Liên....

- Lớp nhà thơ xuất hiện sau: Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Tịnh, Hàn mặc Tử, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Nguyễn Bính,...

b.Từ 1940-1945

Do điều kiện lịch sử, văn ch­ơng tự lực văn đoàn cũng nh­­ư thơ mới sa vào bế tắc, cùng quẫn, xuất hiện nhiều khuynh h­­ướng tiêu cực.

II Một số nhàThơ mới tiêu biểu

1. THẾ LỮ

a. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca

(SGK)

Nhà thơ chọn bút danh Thế Lữ ngoài ý nghĩa để chơi chữ còn ngụ ý tự nhận mình là ng­­ời khách tiên của trần thế, chỉ biết đi tìm cái đẹp:

Tôi là ng­­ời bộ hành phiêu lãng

Đ­­ờng trần gian xuôi ng­­ợc để vui chơi...

Tôi chỉ là ng­ời khách tình si

Ham cái đẹp muôn hình muôn vẻ

b. Đôi nét về hồn thơ Thế Lữ

- Thế Lữ không bàn về Thơ mới, không bênh vực Thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, điềm nhiên b­­ớc những b­­ớc vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ x­a phải tan rã.

- Thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần cho đến tiết tấu âm thanh.

- Thơ Thế Lữ là nơi hẹn hò giữa hai nguồn thi cảm;: nẻo về quá khứ mơ màng, nẻo tới t­­ương lai và thực tế...Sau một hồi mơ mộng vẩn vơ, thơ Thê Lư như­­ một luồng gió lạ xui ng­­ười ta biết say sư­­a với cái xán lạn của cuộc đời thực tế, biết cư­­ời cùng hoa nở chim kêu.

- Thơ ông mang nặng tâm sự thời thế đất nư­­ớc.

-> Thế Lữ không những là ng­ười cắm ngọn cờ thắng lợi cho phong trào Thơ mới mà còn là nhà thơ tiêu biểu nhất cho phong trào Thơ mới thời kì đầu.

c. Tác phẩm Nhớ rừng

- Là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm mở đ­­ường cho sự thắng lợi của Thơ mới

Nhớ rừng là lời con hổ trong v­­ờn bách thú. Tác giả mượn lời con hổ để nói lên tâm sự u uất của lớp thanh niên thế hệ 1930- đó là những thanh niên trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, ngột ngạt đư­­ơng thời. Họ khao khát cái tôi cá nhân đ­­ược khẳng định và phát triển trong một cuộc đời rộng lớn, tự do. Đó cũng đồng thời là tâm sự chung của ngư­­ời dân mất n­­ước bấy giờ. Vì vậy, Nhớrừng đã có đư­­ợc sự đồng cảm đặc biệt rộng rãi, có tiếng vang lớn. Có thể coi Nhớ rừng như­­ một áng văn thơ yêu n­­ước tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu n­­ước hợp pháp đầu thế kỷ XX.

- Bài thơ tràn trề cảm hứng lãng mạn: thân tù hãm mà hồn vẫn sôi sục, khao khát tự do. Cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại tầm th­­ường tù túng như­­ng không có cách gì thoát ra đ­­ược, nó chỉ biết buông mình trong mộng tư­ởng để thoát ly hẳn cái thực tại đó, tìm đến một thế giới khoáng đạt, mạnh mẽ, phi thư­­ờng.

d. Tham khảo một số bài thơ của Thế Lữ

-Tiếng trúc tuyệt vời

- Tiếng sáo thiên thai

- Bên sông đ­ưa khách

- Cây đàn muôn điệu

1. VŨ ĐÌNH LIÊN

Sinh ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu(1913) ở Hà Nội

" Có như­ng nhà thơ không bao giờ có thể làm đư­ợc một câu thơ. Những ng­ười ấy hẳn là nhữ­ng ng­ười đáng th­ương nhất trong thiên hạ. Sao ng­ười ta lại th­ương hại nhữ­ng kẻ bị tình phụ nuôi một giấc mộng ái ân không thành, mà không ai th­ương lấy những kẻ mang một mối tình thơ u uất chịu để tan tành giấc mộng lớn nhất và quý nhất ở đời: giấc mộng thơ?

Hôm nay trong khi viết quyển sách này, một quyển sách họ sẽ xem như­ một sự mỉa mai đau đớn, thơ Vũ Đình Liên bỗng nhắc tôi nghĩ đến ng­ười xấu số kia.

Tôi có cần phải nói ngay rằng Vũ Đình Liên không phải là một ng­ười xấu số? Trong làng Thơ mới, Vũ Đình Liên là một ngư­ời cũ. Từ khi phong trào Thơ mới ra đời, ta đã tháy thơ Vũ Đình Liên trên các báo. ng­ười cũng ca ngợi tình yêu nh­ư hầu hết các nhà thơ mới bây giờ. Như­ng hai nguồn thi cảm chính của ngư­ời là lòng thư­ơng ng­ười và hoài cổ. Ngư­ời th­ương những kẻ thân tàn ma dại, ngư­ời nhớ như­ng cảnh cũ ng­ười x­ưa. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: Ông đồ. Ông đồ mỗi năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đ­ường phố " ông chính là cái di tích tiều tụy, đáng th­ương của một thời tàn".

It khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như­ vậy. Tôi t­ưởng nh­ư đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp ngư­ời đư­ơng đi về cõi chết. Đã lâu lắm chúng ta chỉ xúm nhau lại chế giễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ hậu. Cái cảnh th­ương tâm của nền học Nho lúc mạt vận chúng ta vô tình không l­ưu ý. Trong bọn chúng ta vẫn có một hai ngư­ời ca tụng đạo Nho và các nhà Nho. Nh­ưng chế giễu mạt sát không nên, mà ca tụng cũng không đ­ược. Phần đông các nhà Nho còn sót lại chỉ đáng th­ương. Không nghiên cứu, không lý luận Vũ Đình Liên với một tấm lòng dễ cảm nhận đã nhận ra sự thực ấy và gián tiếp chỉ cho ta cái thái độ hợp lý hơn cả đối với các bậc phụ huynh của ta. Bài thơ của ng­ười có thể xem là một nghĩa cử.

Theo đuổi một nghề văn mà làm đ­ược một bài thơ nh­ư thế cũng đủ. Nghĩa là đủ để l­ưu danh, đủ với ng­ời đời. Còn riêng đối với thi nhân thực chư­a đủ. Tôi thấy Vũ Đình Liên còn bao điều muốn nói, cần nói mà nghẹn ngào không nói đ­ược. "Tôi bao giờ - Lời Vũ Đình Liên - cũng có cái cảm tư­ởng là không đạt đ­ược ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có một chút giá trị nên đã lâu tôi không làm thơ nữa" Vũ Đình Liên đã hạ mình, chúng ta đều thấy. Như­ng chúng ta cũng thấy trong lời nói của người một nỗi đau lòng kín đáo. Ng­ời đau lòng thấy ý thơ không thoát đ­ược lời thơ nh­ư linh hồn bị giam trong nhà tù xác thịt. Có phải vì thế mà hồi 1937, trư­ớc khi từ giã thi đàn, ng­ười đã gửi lại đôi vần thơ u uất:

Nặng mang mãi khối hình hài ô nhục.

Tâm hồn ta đã nhọc tự lâu rồi.

Bao nhiêu thăm thẳm trên bầu trời;

Bao bóng tối trong lòng ta vẩn đục!

Nghĩ cũng tức! Từ hồi 1935 tả cảnh thu, Vũ Đình Liên viết:

Làn gió heo may xưa hiu hắt,

Lạnh lùng chẳng biết tiễn đ­ưa ai!

Hai câu thơ cũng sạch sẽ, dễ th­ương. Nh­ưng làm sao ng­ười ta còn nhớ đ­ược Vũ Đình Liên khi ng­ười ta đã đọc, bốn năm sau mấy câu thơ Huy Cận cùng một tứ:

Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung!

Có ai đàn lẻ để tơ chùng?

Có ai tiễn biệt nơi xa ấy

Xui b­ước chân đây cũng ngại ngùng …..

Cũng may những câu thơ hoài cổ của Huy Cận:

Bờ tre rung động trống chầu,

T­ưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan

Đêm mơ lay ánh trăng tàn,

Hồn x­a gửi tiếng thời gian, trống dồn.

Những câu thơ tình nhẹ nhàng , tứ xa vắng ch­a đến nỗi làm ta quên cái lòng hoài cổ ám thầm, u tịch của Vũ Đình Liên:

Lòng ta là nh­ững hàng thành quách cũ,

Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xư­a.

2. TẾ HANH:

GV và HS đọc tham khảo các bài luận trong cuốn: " Tế Hanh về tác gia và tác phẩm":

  • Tế Hanh tinh tế trong trẻo - Mã Giang Lân. Tr 13- 40.
  • Tế Hanh của quê hư­ơng - Mã Giang Lân. Tr 503- 507
  • Tế Hanh với quê h­ương - Huy Cận. Tr 527.
  • Tế Hanh, thi sĩ của quê h­ương - Mai Quốc Liên - Tr528 -532.

ĐỀ LUYỆN TẬP:

  1. Nhớ rừng là bài thơ hay, tiêu biểu của phong trào Thơ mới và của nhà thơ Thế Lữ trên hai phương diện: tính điêu luyện, phóng khoáng già dặn của Thơ mới và tình cảm yêu n­ước kín đáo, âm thầm. Hãy chứng minh.
  2. Khát vọng tự do và tâm sự yêu n­ước của Thế lữ qua Nhớ rừng
  3. Câu hỏi 4 SGK Ngữ văn 8 Tr 7
  4. Bài Nhớ rừng tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Em hiểu thế nào là lãng mạn? Cảm xúc lãng mạn được thể hiện trong bài thơ nh­ư thế nào?
  5. Ông đồ chính là cái di tích tiều tụy đáng thư­ơng của một thời tàn.
  6. Quê h­ương là mảnh hồn trong trẻo của Tế Hanh trư­ớc cách mạng.
  7. Quê h­ương là nỗi nhớ thiết tha sâu nặng của Tế Hanh về một làng chài ven biển. Ở đó những gì bình dị nhất cũng trở nên thân th­ương gắn bó.
  8. Nhận xét về thơ ca lãng mạn có ý kiến cho rằng :"thơ lãng mạn th­ường ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, của ngư­ời x­ưa và th­ường đư­ợm buồn" qua các bài thơ: "Nhớ rừng " của Thế Lữ,"Ông đồ" của Vũ Đình Liên, " Quê h­ương " của Tế Hanh em hãy làm sáng tỏ vấn đề trên.
    1. GỢI Ý:

Luận điểm 1: Thơ mới thư­ờng ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên.

+ Trong "Nhớ rừng " đó là cảnh núi rừng.

        1. Khi thì thâm nghiêm hùng vĩ
        2. Khi thì hoang sơ, bí hiểm
        3. Khi thì thơ mộng, rực rỡ hùng tráng

+ Trong quê h­ương: đó là bức tranh quê h­ương vào một ngày đẹp trời với cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá.

+ Trong " Ông đồ": cảnh thiên nhiên là những ngày phố xá vào xuân t­ưng bừng nhộn nhịp.

Luận điểm 2: Thơ mới ca ngợi vẻ đẹp ngày xư­a.

- Giải thích: ngày xư­a là quá khứ oai hùng của dân tộc, là vẻ đẹp trong truyền thống văn hóa…..

- Chứng minh:

+ Nhớ rừng: Quá khứ oai hùng của con hổ ở chốn đại ngàn.

+ Ông đồ: Vẻ đẹp truyền thống văn hóa, của một mĩ tục đẹp: chơi câu đối ngày tết.

Luận điểm 3: Thơ lãng mạn th­ường đ­ượm buồn.

- Buồn vì mất tự do{nhớ rừng}

- Buồn vì nét đẹp văn hóa đang tàn phai{Ông đồ}

- Buồn cho số phận của những nhà nho trí thức bị lãng quên {Ông đồ}

- Buồn vì xa cách quê hư­ơng { Quê h­ương}.

 

 

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà:

- Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày soạn: 10/1/2019

Tiết 37 – 38– 39

Buổi 13: TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM LỚP 8

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tác phẩm thơ Việt Nam lớp 8.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về văn bản.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

I. Tố Hữu:

1. Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu: Tr 179 -180 - Sổ tay NV8.

2. Luyện đề:- Khát vọng tự do và tiếng chim tu hú.

- Cách cảm nhận cuộc sống của nhà thơ ở bài Tâm t­ư trong tù và bài Khi con tu hú có điểm gì giống nhau?

II. Hồ Chí Minh:

1. Khái quát những kiến thức về tác giả (Tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp)

 

2. Quan điểm sáng tác văn ch­ương của Nguyễn Ái Quốc:

"Ngâm thơ ta vốn không ham

Nh­ưng mà trong ngục biết làm gì đây

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do" (Khai quyển)

Ngư­ời không có ý định lấy sự nghiệp văn ch­ơng là sự nghiệp chính của cuộc đời. Mục tiêu cao cả nhất là:"Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nư­ớc ta đư­ợc hoàn toàn độc lập, dân ta đ­ược hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đ­ược học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nhỏ, nơi có non xanh n­ước biếc để câu cá trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu tới vòng danh lợi"

Chính hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu, môi trư­ờng xã hội và thiên nhiên gợi cảm cộng với tài năng nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ chứa chan cảm xúc, Ng­ười đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị. Và để phục vụ cho ham muốn lớn nhất thì Bác lấy văn ch­ương làm vũ khí ph­ương tiện. Bác ý thức sâu sắc sức mạnh của văn học nghệ thuật. Những áng văn chính luận giàu chất sống thực tế, sắc sảo về chính kiến và ý t­ưởng (Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập… ) những truyện ngắn độc đáo và hiện đại, hàng trăm bài thơ giàu tình đời, tình ng­ười chứa chan thi vị đ­ược viết ra bằng tài năng và tâm huyết. Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc quy luật và đặc tr­ưng của hoạt động văn nghệ từ phương diện t­ư t­ưởng chính trị đến nghị luận biểu hiện. Điều này tr­ớc hết thể hiện trực tiếp trong hệ thống quan điểm sáng tác văn ch­ương của Ngư­ời.

- Hồ Chí Minh xem văn hóa nghệ thuật là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng; nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội; nhà văn phải là ngư­ời chiến sĩ trong sự nghiệp "phò chính trừ tà". Bài "Cảm t­ưởng đọc Thiên gia thi" đư­ợc viết ra với tinh thần ấy:

Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ

Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong

Hiện đại thi trung ­ng hữu thiết

Thi gia dã yếu hội xung phong.

Chất" thép" ở đây chính là xu h­ướng cách mạng và tiến bộ về t­ư tư­ởng là cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực của thi ca. Đó là sự tiếp tục quan điểm thơ "chuyên chú ở con ngư­ời" như­ Nguyễn Văn Siêu đã nói; tinh thần "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" của Nguyễn Đình Chiểu và đư­ợc nâng cao trong thời đại CM vô sản. Sau này trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, qua "Th­ư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951'', Ngư­ời lại khẳng định: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em cũng ng­ười chiến sĩ trên mặt trận ấy". Vì ở đó luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, liên tục giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ, giữa cách mạng và phản cách mạng giữa nhân dân ta và kẻ thù; giữa cái mới và cái cũ kỹ trì trệ. Câu nói của Bác chỉ rõ tác dụng lớn lao của văn học nghệ thuật. Văn nghệ sĩ phải là ng­ười lính, ngư­ời trí thức, ngư­ời nghệ sĩ của thời đại, “đau nỗi đau của giống nòi vui niềm vui của ng­ười lính". Họ tự nguyện đứng trong hàng ngũ nhân dân lấy ngòi bút và tác phẩm để phục vụ chính trị, phục vụ công - nông - binh, ngợi ca chiến đấu và chiến thắng của dân tộc: "Tôi cùng x­ương thịt với nhân dân tôi”.

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu

Tôi sống với các đời chiến đấu

Của triệu ng­ười yêu đấu gian lao"

- Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tư­ợng thư­ởng thức văn chư­ơng. Văn chư­ơng trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối t­ượng phục vụ. Ngư­ời nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo chí và văn chư­ơng: " Viết cho ai? " " Viết để làm gì? " Viết cái gì? " và" viết như thế nào ". Ng­ười chú ý đến quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ. Các khía cạnh trên liên quan đến nhau trong ý thức trách nhiệm của ng­ười cầm bút. Điều này thể hiện rõ ở phong cách nhất quán nhưng rất đa dạng của Ngư­ời.

- Hồ Chí Minh quan niệm, tác phẩm văn ch­ương phải có tính chân thật. Phát biểu trong biểu trong buổi khai mạc phòng triển lãm về hội họa trong năm đầu cách mạng, Ng­ười uốn nắn một h­ướng đi "chất mơ mộng nhiều quá mà cái chân thật của sự sinh hoạt rất ít". Ng­ười yêu cầu văn nghệ sĩ phải "miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn"; những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng phải chú ý nêu g­ương "ng­ười tốt, việc tốt" uốn nắn và phê phán cái xấu. Tính chân thật vốn là cái gốc của văn ch­ương xư­a và nay. Nhà văn phải chú ý đến hình thức thể hiện, tránh lối viết cầu kỳ, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm phải trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc. Đặc biệt quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng củaTiếng Việt.

3. Giới thiệu khái quát về tập "nhật ký trong tù": Thể loại, nhan đề, hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ thuật

Tham khảo Bài soạn ngữ văn 8 Tập II cũ tr 55- 65.

4. Tìm hiểu một số bài thơ hay: Vọng nguyệt, tẩu lộ…

Tham khảoTạp chí văn học tr 58 Số tháng 7/ 2008

 

 

 

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà:

- Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày soạn: 20/1/2019

Tiết 40 – 41– 42

Buổi 14: ÔN LUYỆN TIẾNG VIỆT

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tiếng Việt lớp 8.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về tiếng Việt.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

I. Lí thuyết:

1. Câu nghi vấn:

Câu1. Ngoài mục đích hỏi-nêu điều chưa biết để trả lời- câu nghi vấn còn được dùng với mục đích nào khác? Cho ví dụ.

Câu 2. Khi không dùng để hỏi thì người viết có thể dùng những dấu câu nào cho câu nghi vấn? Những từ dùng để hỏi có được dùng khi sử dụng câu nghi vấn với mục đích gián tiếp không? VD

2. Câu cầu khiến:

Câu 1. Câu cầu khiến có những chức năng chính là gì? Đặc điểm của câu cầu khiến?

Câu 2. Khi sử dụng câu cầu khiến cần chú ý điều gì?

3. Cảm thán:

Câu 1: Mục đích chính của câu cảm thán là gì? Những dấu hiệu hình thức của câu cảm than?

Câu 2: Những từ cảm than có thể tạo thành câu đọc lập hoặc làm thành phần biệt lập trong câu như thế nào? Cho VD minh họa. Vì sao khi dùng câu cảm than cần chú ý đến hoàn cảnh giao tiếp? Cho VD.

4. Câu trần thuật:

Câu 1: Phân biệt câu trần thuật với câu nghi vấn, cảm thán, cầu khiến về hình thức và chức năng.

Câu 2: Những chức năng khác của câu nghi vấn là gì?

5. Câu phủ định:

Câu 1: Thế nào là câu phủ định? Những từ ngữ phủ định thường dùng?

Câu 2: Khả năng phủ định trong câu phủ định như thế nào?

Câu 3: Các loại câu phủ định.

Câu 4: Khi nào câu phủ định dùng để khẳng định?

VI. Hành động nói - Hội thoại:

Câu 1: Em hiểu thế nào là hành động nói? Cho ví dụ? Căn cứ để xác định hành động nói? Hành động nói được chia làm mấy nhóm?

Câu 2: Hành động nói được thực hiện bằng những kiểu câu nào?

Câu 3: Thế nào là vai XH trong hội thoại? Cách xác định vai XH trong hội thoại? Cách thể hiện vai XH trong hội thoai.

Câu 4: Người tham gia hội thoại cần chú ý những gì để cuộc hội thoại thân mật lịch sự? Những dấu hiệu nào thường dung khi tham gia hội thoiaj để thể hiện hết một lượt lời?

VII. Lưa chon trật từ trong câu:

Câu 1: Vì sao phải lựa chọn trật tự từ trong câu? VD.

Câu 2: Việc lựa chọn trật tự từ trong câu nhằm đạt được những mục đích gì? VD.

B. Thực hành:

1. Câu nghi vấn:

Câu1:Các câu nghi vấn sau có chức năng gì?

a) Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? (Ngô TấtTố)

b) Anh bảo như thế có khổ không? (Cao Xuân Hạo)

c) Bài này khó thế ai mà làm được?

d) Nếu không bán con thì lấy tiền đâu mà nộp sưu? (Ngô Tất Tố)

e) Mụ vợ nổi trận lôi đình tát vào mặt ông lão:

- Mày cãi à? Mày dám cãi 1 bà nhất phẩm phu nhân à? Đi ngay ra biển,nếu không tao sẽ cho người lôi đi.(Ông lão đánh cá và con cá vàng)

g) Bạn có thể cho mình hỏi thăm đường đến siêu thị được không?

h) Cụ tưởng tôi sướng hơn chăng? ( Nam Cao)

i) Tôi cười dài trong tiếng nấc hỏi cô tôi:

- Sao cô biết mợ con có con? ( Nguyên Hồng)

 

Câu 2: Đặt câu nghi vấn để biểu thị các chức năng sau:

- Hỏi đường

  • Bộc lộ cảm xúc về một nhân vật đã học
  • Đề nghị bạn giúp một việc
  • Phủ định một việc nào đó
  • Khẳng định một việc nào đó

 

Câu 3: Hãy biến các câu nghi vấn trên thành kiểu câu khác có ý nghĩa tương đương

Câu 4:Viết lại đoạn hội thoại dưới đây cho đúng.

Ai đưa con đến đây. Thưa thầy bố con đưa đến a. Tên con là gì. Thưa thầy con tên là Lui-i Pa-xtơ ạ. Con muốn đi học à. Thưa thầy vâng. Bao giờ con đi học được. Thưa thầy, ngay bây giờ ạ.

Câu 5: Trong các câu nghi vấn sau, câu nào đặt ra khả năng khca nhau cho người trả lời?

  1. Các em đã làm bài đầy đủ chưa?
  2. Chúng ta có nên đi tham quan tuần này không?
  3. Hay là chúng ta đi xem phim?
  4. Chúng ta đi xem phim hay xem kịch.

II. Câu cầu khiến:

Câu 1: Trong các trường hợp sau, câu nào là câu cầu khiến? Hãy chỉ ra những đặc điểm hình thức của câu cầu khiến đó.

  • Mẹ đưa bút cho con cầm.
  • Các em đừng khóc. Trưa nay các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được nghỉ cả ngày nữa.

( Thanh Tịnh)

  • Con nín đi! Mợ đã về rồi cơ mà.

( Nguyên Hồng)

  • U nó không được nói thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì phải tù, phải tội.

( Ngô Tất Tố)

Câu 2:Điền các cụm từ ( Mệnh lệnh, chúc tụng kêu gọi, yêu cầu, mời mọc, thúc giục, khuyên răn) vào cột A cho phù hợp với cột B.

A. Nội dung câu cầu khiến

B. Từ thường dùng

 

yêu cầu, mời, xin mời, cho phép, đề nghị…

 

hãy, chớ, đừng, không nên, không được, cấm, phải…

 

hãy, cứ, …

 

nào, đi,…

 

chúc, ước gì, tiến lên…

Câu 3:Đặt 5 câu trần thuật, sau đó dùng các hình thức cần thiết để chuyển thành câu cầu khiến.

III. Câu cảm thán:

Câu 1: Gạch chân dưới câu cảm thán trong đoạn văn sau:

Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều hơn ai hết…Một người như thế ấy!...Một người đã khóc vì con chó!...Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng…con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? …Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày thêm đáng buồn…

( Nam Cao- Lão Hạc)

Câu 2: Những câu dùng dấu chấm cảm trong đoạn văn ở câu 1 có phải là câu cảm không? Vì sao?

Câu 3: Viết đoạn văn khoảng 10 câu trong đó có hai câu cảm thán ở dạng:

- Câu cảm thán đặc biệt.

- Câu cảm thán làm phần biệt lập đứng ở đầu câu.

Nội dung đoạn văn tự chọn.

IV. Câu trần thuật:

Câu 1: Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:

Ba yếu tố rượu, hoa, trăng thiếu mất hai rồi. Nhưng với một tâm hồn lớn, Bác vẫn đủ để cảm xúc vói một phần ba còn lại, cảm xúc đến bối rối. Trăng đẹp quá, biết làm thế nào bây giờ? Câu thứ nhất nói hoàn cảnh người tù, câu thú hai đẫ là tâm trạng một thi nhân hiền triết.

( Vũ Quần Phương)

  1. Trong đoạn văn, câu nào là câu trần thuật?Nội dung trần thuật là gì?
  2. Chuyến câu nghi vấn trong đoan văn thành câu trần thuật mà vẫn giữ nguyên ý của nó.

Câu 2:Chuyển những câu sau thành câu trần thuật mà mục đích trực tiếp của mỗi câu, về cơ bản, vẫn giữ được.

Mẫu : Anh uống nước đi! à Tôi mời anh uống nước.

a. Anh đóng cửa sổ lại đi!

b. Ông giáo hút trước đi !

c. Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão ?

V. Câu phủ đinh:

Câu 1: a. Các câu sau đây có phải câu phủ định không?

  • Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay.

  • Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa.

( Vũ Đình Liên- Ông đồ)

b. Nếu thay từ “không” bằng từ “chẳng” thì ý nghĩa các câu sau có thay đổi không? Vì sao?

Câu 2: Biến đổi câu sau thành câu phủ định mà vẫn giữ nguyên ý của người viết:

Với sự cảm thông sâu sắc, Nguyên Hồng đã viết rất ấn tượng về người phụ nữ và trẻ em.

Câu 3: Qua tập “Nhật kí trong tù” có thể thấy hầu hết không lúc nào con người ấy không đau đáu nỗi niềm đất nước.

  1. Cách đặt câu phủ định trên có gì đặc biệt? Nhằm diễn tả điều gì?
  2. Biến đổi câu phủ định trên thành câu khẳng định mà vẫn giữ nguyên của người viết.

Câu 4: Viết đoạn văn nói về con hổ trong bài thơ “Nhớ rừng” của thế Lữ, trong đoạn văn có câu phủ định để khẳng định.

VI. Hành động nói - Hội thoại:

Câu 1: Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi.

Tôi bật cười bảo lão:

- Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khỏe lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc chết hãy hay! Tội gì bay giờ đói mà tiền để lại?

- Không, ông giáo ạ! Tôi ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu?

- Đã đành rằng thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?...Tôi căn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.

Thấy ông lão nằn nì mãi, tôi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tôi còn hỏi:

- Có đồng nào , cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả thì cụ lấy gì mà ăn?

Lão cười nhạt bảo:

- Được ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy…Thế nào rồi cũng xong.

( Lão Hạc -Nam Cao)

  1. Chỉ ra các hành động nói và mục đích của mỗi hành động trong đoạn văn.
  2. Em hiêu cái “cười nhạt” và câu nói “Được ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy … Thế nào rồi cũng xong” của lão Hạc như thế nào?
  3. Với hành động nói không chứa dấu hiệu ngôn ngữ đặc trưng thì người nghe phải dựa vào ngữ cảnh mới nắm được mục đích của chúng. Ý kiến này có đúng không? Ví dụ.

Câu 2: a) Câu dưới đây là câu ghép, mỗi vế câu thực hiện hành động nói nào?

- Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!

b) Hành động nói được nêu ở VN của mỗi vế câu đã diễn ra chưa và ai là người thực hiện?

Câu 3: Chỉ ra sự khác nhau về hành động nói giữa hai câu:

  • Em hãy học bài đi!
  • Em đang học bài à?

Câu 4: Viết một đoạn văn khoảng 8 câu có thực hiện hành động nói hỏi và hành động điều khiển. ( Nội dung tự chọn).

Câu 5: Những câu sau thực hiện hành động nói nào và thực hiện bằng cách nào?

  1. Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. ( Ngô Tất Tố)
  2. Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi này. ( Tô Hoài)
  3. Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không? (Nguyên Hồng)
  4. Kính chào nữ hoàng. (Ông lão đánh cá và con cá vàng)
  5. Cô muốn em chăm chỉ học hành hơn.
    1. Bác có thể chỉ giúp tôi đường về Bưởi được không?

Câu 6: Những câu sau thực hiện hành động nói theo cách nào? Tác dụng của những cách nói đó?

  1. Cậu hãy tự làm bài đi.
  2. Tự làm bài tập sẽ tốt cho cậu hơn chăng?
  3. Theo tôi, câu nên tự làm bài tập thì tốt hơn.

Câu 7: Cách xưng hô của Dế Mèn với Dế Choắt thay đổi như thế nào trong hai đoạn hội thoại sau? Cách xưng hô thay đổi như vậy nói lên điều gì?

a) - Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gì?Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa!

b) - Nào tôi có biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối hận lắm! Tôi hối hận lắm! Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?

( Tô Hoài - Dế Mèn phiêu lưu kí)

Câu 8: Đoạn văn:

Cô tôi bỗng đổi giọng, lại vỗ vai, nhìn vào mặt tôi, nghiêm nghị:

  • Vậy mày hỏi cô Thông- tên người đàn bà họ nội xa kia- chỗ ở của mợ mày, rồi đánh giấy cho mợ mày, bảo dù sao cũng phải về. Trước sau cũng một lần xấu, chả lẽ bán xới mãi được sao?

Tỏ sự ngậm ngùi thương xót thầy tôi, cô tôi chập chừng nói tiếp:

  • Mấy lại rằm tháng giêng là giỗ đầu cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày và mày cũng còn phải có họ, có hàng người ta hỏi đến chứ?
  1. Đọc đoạn văn trên, em hiểu có những ai tham gia vào cuộc hội thoại trên?
  2. Trong cuộc hội thoại đó, nguyên tắc về lượt lời bị vi phạm như thế nào? Vì sao có sự vi phạm đó? ( Nguyên Hồng- Những ngày thơ ấu)

Câu 9: Viết đoạn văn hội thoại khoảng 8 lượt lời trình bày với cô giáo một nguyện vọng nào đó

VII. Lưa chon trật từ trong câu:

Câu 1: Đọc khổ thơ: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

(Tế Hanh - Quê hương)

  1. Câu thơ in đậm trên nếu thay đổi trật tự từ trong câu thì nôi dung và giá trị biểu cảm có gì thay đổi?
  2. Viết đoạn văn khỏng mười câu phân tích nỗi nhớ của nàh thơ với quê hương khi xa quê. Trong đoạn văn có một câu trật tự các từ được sắp xếp để thể hiện mức độ tăng dần của cảm xúc.

Câu 2: a) Hãy giải thích cách lựa chon trật tự từ các từ ngữ trong câu thơ in đậm ở đoạn thơ trên:

Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già.

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi

Với khi thét khúc trường ca dữ dội

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộc nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

( Thế Lữ - Nhớ rừng)

b) Viết đoạn văn khoảng 10 câu trình bày cảm nghĩ của em về hình ảnh con hổ trong những câu thơ trên. Trong đoạn văn có một câu trật tự các từ được thay đổi theo cách đảo ngữ nhằm nhấn mạnh điều muốn nói.

Câu 3: So sánh các câu sau về nội dung, ngữ pháp và giá trị biểu cảm, Điều gì làm nên sự khác nhau đó?

  • Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình, mái chùa cổ kính.
  • Dưới bóng tre của ngàn xưa, mái đình, mái chùa cổ kính thấp thoáng.
  • Thấp thoáng, dưới bóng tre của ngàn xưa, mái đình, mái chùa cổ kính.
  • Mái đình, mái chùa cổ kính, hấp thoáng, dưới bóng tre của ngàn xưa.

Câu 4: a) Em hãy viết một đoạn văn khoảng 8 câu, nôi dung diễn đạt tâm trạng của em khi gặp lại người thân sau nhiều ngày xa cách.

b) Chọn một câu trong đoạn văn đã viết và thay đổi trật tự từ của câu đó.

c) Em hãy nhận xét hai đoạn văn chứa hai từ đó về giá trị gợi cảm.

VIII. Chữa lỗi diễn đạt (lỗi lô gic):

Câu 1: Vì sao những câu sau đây lại sai logic?

  1. Hồ Xuân Hương, Xuân Quỳnh, Xuân Diệu, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến là những nhà thơ trung đại nổi tiếng.
  2. Trong rừng có những con chim lạ, lông và cánh trắng muốt.

Câu 2: Hãy phát hiện nguyên nhân lỗi sai lô gic của các câu sau và chữa lại cho đúng.

  1. Nó lững thững như bước như tên bắn.
  2. Vì nhà xa trường nên em không bao giờ đi học muộn.
  3. Em rất thích vẽ tranh và hội họa.
  4. Tô Hoài là nhà văn lớn có nhiều bài thơ hay.
  5. Trong vai trò người chủ gia đình nói chung, người cán bộ xã nói riêng, ông đều rất gương mẫu.

 

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà:

- Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày soạn: 5/2/2019

Tiết 43 – 44– 45

Buổi 15: ÔN LUYỆN VĂN NGHỊ LUẬN

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về văn nghị luận.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về văn nghị luận.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

-. QUY TRÌNH LÀM MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN

Trước một đề làm văn, muốn làm bài tốt chúng ta phải tiến hành qua bốn bước: Tìm hiểu đề, lập dàn ý, triển khai thành văn bản, đọc kiểm tra lại văn bản và sửa chữa.

I. CÁC BƯỚC TÌM HIỂU ĐỀ

1- Đọc đề bài:

Đây là bước cần thiết để có được những nhận định chung nhất, những dự cảm đầu tiên về nội dung làm bài và những phương hướng giải quyết vấn đề do đề bài nêu ra. Ở bước này ta không nên vội vàng, cần đọc đi đọc lại để hiểu kĩ đề, tránh bỏ sót những khía cạnh có quan hệ trực tiếp tới việc giải quyết nội dung. Song những định hướng ban đầu này thường thiên về cảm tính nên để chắc chắn hơn chúng ta cần tiến thêm một bước nữa đó là phân tích, xác định yêu cầu đề.

2- Phân tích, xác định yêu cầu về nội dung và hình thức nghị luận:

- Trước hết căn cứ vào cách cấu tạo của đề để nhận diện xem đề bài thuộc kiểu, dạng nào (đề có mệnh lệnh hay đề mở)

- Muốn thâm nhập đề để có thể hoàn toàn chiếm lĩnh nó, ta không chỉ tiếp cận đề bài ở dạng tổng thể mà phải đi sâu vào từng thành tố của nó, phải tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của những từ ngữ quan trọng, từ ngữ đầu mối then, chốt. Phải nghiền ngẫm, cố phát hiện cho hết ý nghĩa của từ, từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ nghĩa trực tiếp đến nghĩa sâu xa, ẩn kín, nghĩa trong văn cảnh.

- Để xác định được đúng yêu cầu, đúng hướng làm bài ta có thể dựa vào việc tự đặt và trả lời các câu hỏi dưới đây:

+ Nên viết cái gì? hoặc ta nghị luận vấn đề gì? Câu hỏi này dùng để xác định nội dung bài viết tức là xác định luận đề, luận điểm chính.

+ Ta nghị luận tới đâu? Đây là câu hỏi dùng để xác định phạm vi, mức độ nghị luận và giúp học sinh xác định tư liệu dẫn chứng tránh viết dàn trải, làm mờ nhạt nội dung chính.

+ Viết theo hướng nào? Đây là câu hỏi dùng để xác định hướng của bài viết (mục đích của nghị luận): Tranh luận hay thuyết phục; đồng tình hay bác bỏ hoặc có điểm tán thành, có điểm bác bỏ….Xác định hướng rõ ràng sẽ giúp cho việc lựa chọn tài liệu, xác lập luận điểm… chặt chẽ có hiệu quả.

+ Viết cho ai? Câu hỏi này dùng để xác định đối tượng nghị luận (nhân vật giao tiếp). Đối tượng có khi là bạn bè, là một người đọc bất kì, có khi là người cùng quan điểm, người không cùng quan điểm…Xác định đúng và hiểu đúng sâu sắc đối tượng sẽ giúp ta có cách lựa chọn luận điểm, luận cứ, dùng lời lẽ, giọng văn thích hợp, tạo hiệu quả cho bài viết.

+ Viết như thế nào? Câu hỏi này dùng để xác định phương pháp nghị luận, chủ yếu là tìm hiểu xem đề thuộc kiểu nào ( giải thích, chứng minh, phân tích, trình bày suy nghĩ, nêu ý kiến…)

Tóm lại, tất cả các bước trên đều nhằm mục đích thâm nhập đề bài một cách toàn diện và có cơ sở chắc chắn. Đây là công việc hết sức cần thiết đảm bảo thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo: Giai đoạn lập dàn ý.

II. LẬP DÀN Ý

1-Tầm quan trọng của việc lập dàn ý:

Lập dàn ý là phác thảo trên giấy những nội dung cơ bản, nói cách khác đó là hệ thống những suy nghĩ tìm tòi, nhận xét, đánh giá của học sinh dựa trên yêu cầu cụ thể của dàn bài. Dàn ý trong bài tập làm văn chẳng khác nào bản thiết kế xây dựng một ngôi nhà. Ngay các nhà văn lớn cũng luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của dàn ý. Nhà văn Nga nổi tiếng của thế kỉ XX từng ước ao: Nếu tìm được một bản bố cục đạt thì công việc sẽ nhanh như trượt trên băng. Lập dàn ý trước khi viết bài giúp người viết bao quát được những luận điểm, luận cứ, tư liệu, dẫn chứng…, tránh được việc bỏ sót ý, thừa ý, lặp ý, xa yêu cầu đề, lộn xộn, thiếu mạch lạc, tình trạng “đầu voi đuôi chuột” do phân bố thời gian không đều…

2- Các bước lập dàn ý:

a. Tìm ý:

- Đây chính là việc chuẩn bị các vật liệu cho việc xây dựng công trình kiến trúc tức là bài tập làm văn. Vật liệu tốt, phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi công, tức là tạo điều kiện cho việc viết một bài tập làm văn đúng và hay.

- Để lập ý cho bài văn nghị luận ta có thể căn cứ:

+ Về nội dung, đề bài thường chỉ rõ vấn đề cần nghị luận là gì, có đề bài còn gợi ra khía cạnh của vấn đề, thậm chí còn nêu lên nhận định của dân gian, của người có uy tín, của chính người ra đề về vấn đề nghị luận. Trường hợp này chỉ cần bám vào đề là tìm được ý.

Ví dụ:

Nhà triết học Anh Phơrăngxit Bêcơn có nói: Tri thức là sức mạnh. Em hiểu câu nói đó như thế nào?.

Yêu cầu của đề bài là giải thích một câu nói nổi tiếng và làm sáng tỏ nội dung của câu nói. Câu nói có hai vế: tri thức và sức mạnh. Đầu tiên phải tìm hiểu tri thức là gì? tại sao tri thức lại là sức mạnh?. Con người ta khi chưa có tri thức và không có tri thức thì tình trạng như thế nào? Còn khi có tri thức rồi thì sẽ trở thành con người ra sao? Câu nói đặt ra nhiệm vụ gì?.

+ Cùng với những chỉ dẫn về nội dung, trong mỗi đề cũng thường có chỉ dẫn về phương pháp nghị luận (kiểu bài) như: Hãy giải thích, chứng minh, phân tích, nêu suy nghĩ, ý kiến…, đây cũng là căn cứ để người làm bài định hướng tìm ý.

- Phương pháp tốt nhất cho việc tìm ý là tự nêu câu hỏi và trả lời. Việc nêu và trả lời các câu hỏi tùy thuộc vào từng kiểu bài. Giáo viên cần soạn và hướng dẫn cụ thể các kiểu câu hỏi và cách trả lời để học sinh hiểu và vận dụng tốt vào việc tìm ý cho từng dạng đề cụ thể.

Ví dụ 1: Đối với kiểu bài chứng minh và giải thích.

§ Vấn đề có mấy luận điểm chính? Những luận điểm chính đó là gì?

§ Mỗi luận điểm có thể triển khai thành những luận điểm nhỏ nào?

§ Ý nghĩa (nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa rộng) của vấn đề là gì?

§ Do đâu , vì sao lại khẳng định như thế?

§ Thực tế (cuộc sống, văn học) nào chứng minh được những luận điểm ấy?

§ Vấn đề có ý nghĩa, tác dụng như thế nào?...

Ví dụ 2: Đối với kiểu bài phân tích tác phẩm.

Các câu hỏi đặt ra để tìm ý thường nhắm vào các nội dung chính sau:

Thể loại, đại ý, bố cục, kết cấu, cảm hứng, chủ đề, hướng phân tích, đánh giá nhận xét các chi tiết nội dung, nghệ thuật ấy; ý nghĩa, tác dụng đối với cuộc sống, bản thân, cảm nghĩ của bản thân, bài học về nhận thức tư tưởng, về tình cảm, về đạo đức…

b. Lập dàn ý:

Đây là bước trình bày các ý tìm được theo một hệ thống, trình tự hợp lí. Có nhiều cách lập dàn ý song cần chú ý đến tính hệ thống của lập luận và tâm lí tiếp nhận của người đọc. Thông thường người ta sắp xếp ý theo một trong các nguyên tắc:

- Từ dễ đến khó, từ ý quan trọng ít đến ý quan trọng nhiều.

- Từ xa đến gần, từ nhỏ đến lớn…

Trong khi lập dàn ý cần chú ý xác định mức độ trình bày các ý: Ý nào nói kĩ, ý nào nói lướt, sơ lược…

Có hai loại dàn ý:

- Dàn ý sơ lược (đại cương): tức là sắp xếp thứ tự các luận điểm (ý chính, ý lớn)

- Dàn ý chi tiết: Luận điểm, luận cứ theo tầng bậc, theo trật tự trên-dưới, trước sau…(những ý chính, ý lớn lẫn những ý phụ, ý nhỏ).

Dưới đây là một vài ví dụ minh họa cho phần thân bài, còn phần mở và kết bài thông thường theo các công thức chung.

Ví dụ:Em hiểu như thế nào về lời khuyên của nhân dân ta được thể hiện trong câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

* Dàn ý chi tiết phần thân bài:

I. Giải thích ý nghĩa hình ảnh bầu và bí

1. Bầu và bí có cùng điều kiện sống với nhau

2. Bầu và bí có những đặc điểm gần gũi, tương tự như nhau.

II. Vì sao bầu và bí phải thương nhau

1.Bầu và bí gần gũi, nương tựa vào nhau

2.Bầu gặp rủi ro thì bí cũng không tránh khỏi thiệt hại

III. Qua hình ảnh bầu và bí, nhân dân ta muốn khuyên bảo điều gì?

1.Bầu thương bí, người thương người

2.Bầu và bí chung một giàn, người chung làng xóm, quê hương, đất nước

3.Mọi người thương yêu, đoàn kết, cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà: - Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

Ngày soạn: 10/2/2019

Tiết 46-47-48

Buổi 16: LUYỆN ĐỀ

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tập làm văn.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về tập làm văn.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

Phần 1 (8 ®iÓm).

Cổ tích về sự ra đời của người mẹ.

Ngày xưa, khi tạo ra người mẹ đầu tiên trên thế gian, ông Trời đã làm việc miệt mài nhiều ngày liền mà vẫn chưa xong. Thấy vậy, một vị thần bèn hỏi:

- Tại sao ngài lại mất quá nhiều thời giờ cho tạo vật này vậy?

Ông Trời đáp: “Ngươi thấy đấy, đây là một tạo vật cực kỳ phức tạp và cực kỳ bền bỉ, nhưng lại không phải là gỗ đá vô tri vô giác. Tạo vật này có thể sống bằng nước lã và thức ăn thừa của con, nhưng lại đủ sức ôm ấp trong vòng tay nhiều đứa con cùng một lúc. Nụ hôn của nó có thể chữa lành mọi vết thương, từ vết trầy trên đầu gối cho tới một trái tim tan nát. Ngoài ra, ta định ban cho tạo vật này có thể có ba đôi mắt.”

Vị thần nọ ngạc nhiên:“Vậy thì ngài sẽ vi phạm các tiêu chuẩn về con người do chính ngài đặt ra trước đây.”

Ông Trời gật đầu thở dài: “Đành vậy. Sinh vật này là vật ta tâm đắc nhất trong những gì ta đã tạo ra, nên ta dành mọi sự ưu ái cho nó. Nó có một đôi mắt nhìn xuyên qua cánh cửa đóng kín và biết được lũ trẻ đang làm gì. Đôi mắt thứ hai ở sau gáy để nhìn thấy mọi điều mà ai cũng nghĩ là không thể biết được. Đôi mắt thứ ba nằm trên trán để nhìn thấu ruột gan của những đứa con lầm lạc. Và đôi mắt này sẽ nói cho những đứa con đó biết rằng mẹ chúng luôn hiểu, thương yêu và sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của chúng, dù bà không hề nói ra.”

Vị thần nọ sờ vào tạo vật mà ông Trời đang bỏ công cho ra đời và kêu lên:

- Tại sao nó lại mềm mại đến thế?

Ông Trời đáp: “Vậy là ngươi chưa biết hết. Tạo vật này rất cứng cỏi. Ngươi không thể tưởng tượng nổi những khổ đau mà tạo vật này sẽ phải chịu đựng và những công việc mà nó phải hoàn tất trong cuộc đời.”

Vị thần dường như phát hiện ra điều gì, bèn đưa tay sờ lên má người mẹ đang được ông Trời tạo ra: “Ồ, thưa ngài. Hình như ngài để rớt cái gì ở đây.”

- Không phải. Đó là những giọt nước mắt đấy.

- Nước mắt để làm gì, thưa ngài? Vị thần hỏi.

- Để bộc lộ niềm vui, nỗi buồn, sự thất vọng, đau đớn, đơn độc và cả lòng tự hào - những thứ mà người mẹ nào cũng sẽ trải qua. (Sưu tầm)

1- Xác định phương thức biểu đạt chính . Em hiểu nội dung chính của câu chuyện như thế nào? (1 điểm)

2-Hãy nêu ít nhất một câu nghi vấn và một câu trần thuật trong lời nói của hai nhân vật.(1 điểm)

3-Em hãy cho biết biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu chuyện. (1 điểm)

4-(5.0 điểm)Viết một văn bản nghị luận ngắn khoảng 20-25 dòng giấy thi nêu suy nghĩ của em về mẩu chuyện trên.

Phần 2 (12 ®iÓm).

“Văn học là tình thương” .Bằng những hiểu biết và cảm nghĩ riêng của bản thân mình, em hãy viết một bài văn nghị luận sử dụng những tác phẩm văn học đã học ở chương trình Ngữ Văn 8 học kì 1để trình bày suy nghĩ của em về câu nói trên.

ĐÁP ÁN

Phần 1

1- Phương thức biểu đạt chính: tự sự (0,5 đ)

-Nội dung : tình mẹ, sự hy sinh của mẹ dành cho con, ... (0,5 đ)

  1. Câu nghi vấn : (0,5 đ) - Tại sao ngài lại mất quá nhiều thời giờ cho tạo vật này vậy?

- Tại sao nó lại mềm mại đến thế?

Câu trần thuật : (0,5 đ) Ngươi không thể tưởng tượng nổi những khổ đau mà tạo vật này sẽ phải chịu đựng và những công việc mà nó phải hoàn tất trong cuộc đời

3- Biện pháp tu từ : ẩn dụ

4-

I. Mở bài: giới thiệu về tình mẫu tử (1 đ)

II. Thân bài:

1. Thế nào là tình mẫu tử: (0,5 đ)

- Đây là một tình cảm thiêng liêng giữa mẹ và con

- Mẫu là mẹ, tử là con, mẫu tử là mẹ con

- Tình mẫu tử thể hiện sự gắn bó, yêu thương và chăm sóc

2. Bình luận về tình mẫu tử:

a. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng và có vai trò đặc biệt với mỗi con người: (0,5 đ)

- Từ khi con người sinh ra đã có mẹ ở bên, có sự yêu thương che chở của mẹ: mẹ mang thai, sinh chúng ta, chăm chúng ta,….

- Mẹ là người có tấm lòng cao cả, tha thứ mọi lội lầm dù lớn đến mức nào của chúng ta

- Tình mẫu tử cũng là truyền thống đạo lí của dân tộc ta từ xưa

b. Tình mẫu tử đối với mỗi người: (0,5 đ)

- Một người có tình mẫu tử sẽ có cuộc sống hạnh phúc, được yêu thương

- Ai không có tình mẫu tử thì rất bất hạnh và là một thiệt thòi

c. Vai trò của tình mẫu tử: (0,5 đ)

- Tình mẫu tử soi sáng đường cho chúng ta đi

- Giúp chúng ta thức tỉnh khi có chút vấp ngã trong cuộc sống

  1. Trách nhiệm của chúng ta trước tình mẫu tử: (1 đ)

- Chúng ta cần giữ gìn và tôn trọng tình cảm thiêng liêng này

- Không ngừng học tập và báo đáp công ơn mẹ cha

- Không có những hành động thiếu tình mẫu tử

 

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về tình mẫu tử (1 đ)

- Đây là một tình cảm rất thiêng liêng

- Chúng ta phải tự hào vì được có tình mẫu tử

- Cố gắng học tập để báo hiếu cha mẹ

Câu 3: (12 điểm)

I. Mở bài: Giới thiệu vấn đề

II. Thân bài:

1. Văn học dân tộc ca ngợi tình thương người

a. Tình cảm trong gia đình

- Tình cảm khởi nguồn và có từ đầu tiên là tình cảm cha mẹ dành cho con cái:

Ơn cha nặng lắm ai ơi

Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang

Ca ngợi công ơn to lớn của cha mẹ dành cho con cái (" nặng lắm", " bằng trời". "chín tháng cưu mang")

Trong “Lão Hạc”, lão Hạc:

+ Cả đời gà trống nuôi con

+ Luôn day dứt vì chưa lấy được vợ cho con

+ Sống khốn khổ để dành tiền cho con

+ Chấp nhận cái chết để giữ trọn mảnh vườn cho con

=>Một lão nông thương con hết mực

- Trước tình cảm sâu nặng mà cha mẹ dành cho, con cái cũng có những tình thương yêu mãnh liệt dành cho cha mẹ: Trong “Trong lòng mẹ”, bé Hồng:

+ Luôn nhớ về mẹ và luôn tin tưởng vào ngày mẹ trở vể dù rằng mẹ chưa từng gửi một lá thư, một đồng quà

+ Chống đối lại những ý nghĩ, những lời nói cay độc của bà cô về mẹ mình

=> Yêu thương mẹ hết mực.

- Tình cảm anh em cũng rất thắm thiết. Trong “Bức tranh của em gái tôi”, Kiều Phương là một cô bé:

+ Yêu quý anh trai cho dù anh luôn xa lánh

+ Coi anh là người gần gũi, thân thiết nhất, chọn anh trai làm đề tài cho bức tranh của mình.

=> Một tấm lòng trong sáng, nhân hậu.

- Con người lớn lên, lấy vợ gả chồng. Tình cảm vợ chồng cũng bắt nguồn từ đó. Chị Dậu (trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố) là con người”

+ Rất mực thương chồng, con.

+ Không ngần ngại van xin cho chồng, cãi lý với người nhà lý trưởng để tránh đòn cho chồng, đánh nhau với cai lệ và người nhà lý trưởng để bào vệ chồng.

=> Hi sinh mình vì chồng

b. Tình cảm xã hội

- Bạn đến chơi nhà: tình cảm bạn bè cao khiết và niềm hạnh phúc khi có bạn thể hiện ở câu thơ cuối

- Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng, Thái y lệnh họ Phạm:

+ Trái lệnh vua để cứu giúp người bệnh nặng trước

+ Tích nhà, lương thực để giúp đỡ những người bệnh người khó

=> Một lương y hết lòng vì người dân

- Trong “Tắt đèn”, bà lão hàng xóm cho gia đình chị Dậu một nắm gạo. Một nắm gạo tưởng chừng rất ít nhưng đối với gia đình chị Dậu một nắm gạo ấy là rất quý vì cả gia đình nhịn ăn từ sáng và anh Dậu thì đang ốm nặng.

- Trong “Chiếu dời đô”: Lí Công Uẩn muốn đất nước giàu mạnh, muôn dân dược no ấm, an hưởng thái bình, …

-Trong ca dao, tục ngữ có nhiều câu nói lên tình cảm, sự giúp đỡ lẫn nhau của những con người không cúng huyết thống, là một truyền thống lâu đời của dân tộc.

2. Văn học dân tộc phê phán những con người vô tình, độc ác.

a. Sự thờ ơ với người ngoài:

- Quan phụ mẫu trong “Sống chết mặc bay”:

+ Hộ đê bằng một ván bài tổ tôm.

+ Khi đê vỡ: mặc cho " kẻ sống không chỗ ở, người chết không nơi chôn", hắn ta hạnh phúc, sung sướng vì thắng ván bài to.

- Vợ ông giáo trong “Lão Hạc” lạnh lùng thờ ơ với hoàn cảnh khó khăn của lão Hạc. Thể hiện ở câu: " Lão ấy ngu thì cho lão ấy chết......"

- Bọn thực dân trong “Thuế máu”:

+ Độc ác tàn nhẫn của các tên quan đối với những người dân thuộc địa.

+ Ép đi lính

+ Coi người lính bản xứ như lũ lợn (sau chiến tranh) …

b. Trong gia đình

- Mụ dì nghẻ trong “Tấm cám” đối xử tàn nhẫn, nhiều lần lập mưu hãm hại Cám, kết cục của mụ vô cùng bi thảm.

- Người anh trong “Cây khế” đối xử tàn nhẫn với người em, tham lam nên phải gánh chịu hậu quả, …

III. Kết bài: Khẳng định vấn đề

11 - 12 điểm: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về nội dung và phương pháp, có lập luận chặt chẽ, lựa chọn được dẫn chứng tiêu biểu, có sự kết hợp nhuần nhuyễn văn nghị luận với biểu cảm, bài viết có cảm xúc, diễn đạt tốt.

9 - 10 điểm: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về nội dung và phương pháp, có lập luận tương đối chặt chẽ, lựa chọn được dẫn chứng khá tiêu biểu, có sự kết hợp văn nghị luận với biểu cảm, diễn đạt tương đối tốt.

7 - 8 điểm: Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được phần lớn các yêu cầu về nội dung và phương pháp, có lập luận tương đối chặt chẽ, biết lựa chọn được dẫn chứng, có sự kết hợp văn nghị luận với biểu cảm, có thể còn một số lỗi về diễn đạt

5 - 6 điểm: Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về nội dung và phương pháp, biết cách lập luận, biết lựa chọn được dẫn chứng, tuy nhiên chưa có sự kết hợp văn nghị luận với biểu cảm, còn mắc lỗi về diễn đạt

3 - 4 điểm: Chưa hiểu rõ yêu cầu của đề bài, chưa đáp ứng được các yêu cơ bản về nội dung và phương pháp, có đoạn còn lạc sang phân tích hoặc kể lại truyện, còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt

1 - 2 điểm: Chưa hiểu rõ yêu cầu của đề bài, chưa đáp ứng được các yêu cơ bản về nội dung và phương pháp, có đoạn còn lạc sang phân tích hoặc kể lể, diễn đạt trùng lặp, lủng củng.

0 điểm: Để giấy trắng.

Giáo viên cần nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm thi để đánh giá tổng quát bài làm của học sinh, tránh trường hợp đếm ý cho điểm hoặc bỏ sót ý trong bài làm của học sinh.

Do đặc trưng của môn Ngữ văn nên giáo viên cần chủ động, linh hoạt trong việc vận dụng đáp án và thang điểm; khuyến khích những bài viết có sáng tạo, có ý tưởng riêng và giàu chất văn.

Giáo viên cần vận dụng đầy đủ các thang điểm. Điểm toàn bài tính đến 0,5 điểm (không làm tròn).

 

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà: - Ôn kĩ về văn bản. Làm các bài tập.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày soạn: 16/2/2019

Tiết 49-50-51

Buổi 17: LUYỆN ĐỀ

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tập làm văn.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về tập làm văn.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

Câu 1:(8 điểm)

HỎI

Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào?- Chúng tôi tôn cao nhau.

Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào?- Chúng tôi làm đầy nhau.

 

Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào?- Chúng tôi đan vào nhauLàm nên những chân trời.

 

Tôi hỏi người: Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người: Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người: Người sống với người như thế nào?

 

Trích trong tập thơ Thư mùa đông - Hữu Thỉnh

Trình bày những bài học về lối sống đẹp cho mình, cho mọi người mà em học được từ bài thơ trên bằng một bài văn nghị luận ngắn.

Câu 2:(12 điểm)

ĐI ĐƯỜNG

Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

(Bản dịch thơ của Nam Trân)

Hồ Chí Minh, Nhật kí trong tù

Sách Ngữ văn 8, tập hai - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2016

Bằng việc phân tích bài thơ Đi đường, em hãy làm sáng tỏ ý nghĩa tư tưởng sâu sắc: Từ việc đi đường núi đã gợi ra chân lí đường đời, đường cách mạng của người chiến sĩ cộng sản kiên cường.

--- Hết ---

 

 
HƯỚNG DẪN CHẤM

 

II. Đáp án và thang điểm

CÂU

NỘI DUNG

ĐIỂM

Câu

1

8 điểm

Trình bày những bài học về lối sống đẹp cho mình, cho mọi người mà em học được từ bài thơ trên bằng một bài văn nghị luận ngắn.

Đây là dạng đề mở, học sinh có thể có nhiều cách trình bày khác nhau, dưới đây là một số gợi ý cần chỉ ra trong bài làm:

+ Bài học về lối sống đẹp cho mình, cho mọi người:

- “Chúng tôi tôn cao nhau”: tinh thần vị tha, biết đặt lợi ích của mợi người lên trên lợi ích của mình, thậm chí phải hi sinh thầm lặng.

- “Chúng tôi làm đầy nhau”: tinh thần rộng lượng biết “cho đi”, biết “làm đầy” và hoàn thiện đồng loại, hoàn thiện những gì mà người khác còn thiếu về kiến thức, nhân cách…

- “Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời”: tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giữa người với người.

- Khẳng định: Đây những bài học về lối sống đẹp, vượt ra khỏi chủ nghĩa cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi, đố kị, bon chen, hướng tới sự khoan dung độ lượng, biết ước mơ, vươn tới, biết hòa nhập cộng đồng, cống hiến cho xã hội góp phần làm đẹp cuộc sống…

+ Ngợi ca, khẳng định, biểu dương lối sống đẹp cho cả cộng đồng, đồng thời biết phê phán lối sống vị kỉ, thờ ơ, vô cảm, vô trách nhiệm, thực dụng, cơ hội, cá nhân… trong một bộ phận giới trẻ hiện nay.

 

 

 

 

 

 

 

4,0

1,0

 

 

1,0

 

1,0

 

 

 

1,0

 

 

 

 

 

4,0

 

 

 

Câu 2

12 điểm

 

 

 

 

 

Bằng việc phân tích bài thơ Đi đường, em hãy làm sáng tỏ ý nghĩa tư tưởng sâu sắc: từ việc đi đường núi đã gợi ra chân lí đường đời, đường cách mạng của người chiến sĩ cộng sản kiên cường.

Yêu cầu chung:

- Người xưa nói: "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn " - theo quan niệm triết lí Phương Đông, từ việc đi đường thường được liên tưởng, chiêm nghiệm tới đường đời... Trên bước đường gian lao trong thời kì Bác bị giải tới giải lui qua các nhà lao của chế độ nhà tù hà khắc Tưởng Giới Thạch, Bác luôn suy ngẫm để đúc rút cho bản thân mình những bài học sâu sắc ...

- Phân tích bài thơ " Đi đường " (Trích Nhật kí trong tù - Hồ Chí Minh) để làm sáng tỏ ý nghĩa tư tưởng của bài thơ: Từ việc đi đường núi (nghĩa hiển ngôn) đã gợi ra chân lí đường đời, đường cách mạng của người chiến sĩ cộng sản kiên cường (nghĩa hàm ngôn).

 

 

Mở bài:

  • + Giới thiệu khái quát về hoàn cảnh ra đời của tập thơ.
  • + Giới thiệu bài thơ " Đi đường " (Tẩu lộ).

2,0

1,0

1,0

Thân bài:

+ Việc đi đường thật khó khăn, gian khổ - nhất là với người đi đường núi. Câu thơ đơn sơ nhưng chứa đựng sự suy ngẫm có ý nghĩa khái quát sâu sắc, vượt ra ngoài sự đi đường thông thường:

- Vượt qua hết lớp núi này lại đến lớp núi khác cao hơn, khó khăn hơn.

- Mọi sự gian lao vất và như đã lùi lại phía sau khi người đi đường lên tới đỉnh cao nhất…

  • Lên tới đỉnh cao chót là lúc gian lao nhất nhưng đồng thời cũng là lúc đã vượt qua mọi khó khăn. Nỗi gian lao của người đi đường núi dù có chồng chất nhưng không phải là vô tận. Con người có quyết tâm sẽ vượt qua, sẽ chiến thắng.
  • Người đi đường gian lao, vất vả bỗng trở thành người du khách ung dung say đắm trước phong cảnh đẹp. Con đường núi gian lao, hiểm trở trong bài thơ gợi ra hình ảnh con đường cách mạng; hình ảnh con người ung dung thu muôn dặm nước non vào tầm mắt là hình ảnh người chiến sĩ đứng trên đỉnh cao chiến thắng ...

+ Ý nghĩa tư tưởng sâu sắc được rút ra là: Trải qua chặng đường dài gian lao thì sẽ tới đích, càng gần đích, càng gần thắng lợi thì càng nhiều gian lao. Con người có nghị lực, có quyết tâm vượt khó sẽ giành được thắng lợi vẻ vang. Đó cũng chính là bài học đường đời, đường cách mạng mà bài thơ đã gợi ra ...

 

8,0

 

4,0

 

 

 

 

 

 

1,0

 

 

1,0

 

 

1,0

 

 

 

 

1,0

 

 

 

 

 

 

4,0

Kết bài:

  • Khẳng định lại ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của bài thơ: từ việc đi đường núi đã gợi ra chân lí đường đời, đường cách mạng.
  • Khẳng định con đường cách mạng lâu dài, gian khổ nhưng nếu kiên trì, bến chí thì nhất định thắng lợi hoàn toàn - đó cũng chính là chân lí mà Bác Hồ đã chỉ ra cho chúng ta...

2,0

1,0

 

 

1,0

 

VẬN DỤNG CHO ĐIỂM CÂU 2

11 - 12 điểm:

Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về nội dung và phương pháp, có lập luận chặt chẽ, lựa chọn được dẫn chứng tiêu biểu, có sự kết hợp nhuần nhuyễn văn nghị luận với biểu cảm, bài viết có cảm xúc, diễn đạt tốt.

9 - 10 điểm:

Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về nội dung và phương pháp, có lập luận tương đối chặt chẽ, lựa chọn được dẫn chứng khá tiêu biểu, có sự kết hợp văn nghị luận với biểu cảm, diễn đạt tương đối tốt.

7 - 8 điểm:

Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được phần lớn các yêu cầu về nội dung và phương pháp, có lập luận tương đối chặt chẽ, biết lựa chọn được dẫn chứng, có sự kết hợp văn nghị luận với biểu cảm, có thể còn một số lỗi về diễn đạt .

5 - 6 điểm:

Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về nội dung và phương pháp, biết cách lập luận, biết lựa chọn được dẫn chứng, tuy nhiên chưa có sự kết hợp văn nghị luận với biểu cảm, còn mắc lỗi về diễn đạt .

3 - 4 điểm:

Chưa hiểu rõ yêu cầu của đề bài, chưa đáp ứng được các yêu cơ bản về nội dung và phương pháp, có đoạn còn lạc sang phân tích hoặc kể lại truyện, còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt .

1 - 2 điểm:

Chưa hiểu rõ yêu cầu của đề bài, chưa đáp ứng được các yêu cơ bản về nội dung và phương pháp, có đoạn còn lạc sang phân tích hoặc kể lể, diễn đạt trùng lặp, lủng củng.

0 điểm: Để giấy trắng.

 

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà: - Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

 

 

Ngày soạn: 22/2/2019

Tiết 52-53-54

Buổi 18: LUYỆN ĐỀ

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tập làm văn.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về tập làm văn.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

Câu 1 (4 điểm):

Phân tích biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong hai câu thơ sau:

“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằmNghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”

(Quê hương, Tế Hanh)

Câu 2 (4 điểm):Hãy viết một đoạn văn nêu suy nghĩ của em từ nội dung câu văn sau:

“Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp.”

Câu 3 (12 điểm):Nhận định về nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, tác giả Hoàng Thị Thương trong Vẻ đẹp con người có viết:

Tinh thần của lão Hạc mới kiên định làm sao! Như thành trì kiên cố xây bằng LÒNG TỰ TRỌNG và TÌNH THƯƠNG. Đói khổ, đớn đau không khuất phục nổi.

Bằng hiểu biết về truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

 

 

 

 

 

 

 

HƯỚNG DẪN CHẤM

   

 

Câu

Nội dung cần đạt

Điểm

1

(4,0đ)

* Về nội dung:

- Biện pháp nghệ thuật được sử dụng: nhân hóa, ẩn dụ

- Tác dụng:

+ Không chỉ diễn tả hình ảnh con thuyền nằm im trên bến mà còn cảm thấy nó như đang lắng nghe, đang cảm nhận chất mặn mòi của biển cả. Hình ảnh con thuyền vô tri đã trở nên có hồn.

+ Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muối mặn của biển khơi, đó là sự vất vả nhưng tràn đầy hạnh phúc

+ Câu thơ thể hiện sự tinh tế tài hoa và một tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người, cuộc sống lao động của quê hương

* Về hình thức: trình bày thành đoạn văn, diễn đạt lưu loát, văn viết có hình ảnh và cảm xúc

0,5

 

 

 

1,0

 

 

 

1,0

 

 

0,5

 

 

1,0

 

 

 

 

 

 

 

 

2

(4,0đ)

* Về kiến thức:

- Giải thích khái quát ý nghĩa câu văn: từ sức sống của loài cây, khẳng định sức sống kì diệu của con người.

- Khẳng định: Môi trường khó khăn không khuất phục ý chí con người. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã là lúc con người thể hiện nghị lực phi thường, sức chịu đựng và sức sống kì diệu nhất.

- Bàn luận: Nhiều khi sự gian khổ, khắc nghiệt của hoàn cảnh lại chính là môi trường để giúp con người tôi luyện, vững vàng hơn trong cuộc sống. Thành công mà con người đạt được thật có giá trị, thật rực rỡ vì nó là kết quả những cố gắng phi thường.

- Liên hệ, rút ra bài học…

* Về kĩ năng: Viết đúng thể thức 1 đoạn văn, văn phong lưu loát giàu cảm xúc, trình bày sách đẹp; ít lỗi câu từ, chính tả.

0,5

 

 

1,5

 

 

 

 

1,0

 

 

 

0,5

 

 

0,5

 

 

3

(12,0đ)

I. Về kĩ năng:

- Nắm vững kĩ năng làm bài văn nghị luận dạng đề phân tích nhân vật để chứng minh một nhận định. Bố cục 3 phần rõ ràng, cân đối.

-Trình bày sạch đẹp; diễn đạt trôi chảy, hành văn mạch lạc; ít sai lỗi câu, từ, chính tả

1,0

 

 

1,0

 

 

II. Về kiến thức:

1. Giới thiệu vấn đề (có thể dẫn từ tác giả, tác phẩm, nhân vật hoặc một nội dung có liên quan) và dẫn nhận định.

2. Giải thích nhận định của tác giả Hoàng Thị Thương: khẳng định phẩm chất của nhân vật lão Hạc: giàu lòng tự trọng và tình yêu thương.

3. Khái quát hoàn cảnh nhân vật lão Hạc: là một người nông dân nghèo: sống cô đơn, cùng quẫn, chết một cách đau đớn, số phận của lão thê thảm.

4. Phẩm chất của nhân vật:

a. Lão Hạc là một người cha giàu lòng yêu thương con.

- Khi con trai không lấy được vợ phẫn chí bỏ đi, lão rất thương con; ngày đêm mong ngóng tin tức của con, lão day dứt vì chưa làm tròn bổn phận của người cha.

- Lão chăm sóc, yêu thương con Vàng vì một phần đó là kỉ vật con lão để lại, lão hi vọng ngày con trở về.

- Tình yêu thương con của lão Hạc được thể hiện rõ nhất qua việc: Lão tìm mọi cách để giữ lại mảnh vườn cho con trai, lão thà chết chứ nhất định không bán đi một sào.Tình cha con của lão Hạc là một tình cảm thiêng liêng và cảm động, lão đã chết để trọn đạo làm cha.

b. Lão Hạc là một người nông dân giàu lòng tự trọng:

- Lão không muốn phiền luỵ hàng xóm, đã nhịn đói để dành tiền nhờ hàng lo ma chay cho mình.

- Khi bị đẩy vào hoàn cảnh túng quẫn, lão không chấp nhận sự thương hại của mọi người. Lão đã từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo.

- Lão lựa chọn cái chết một phần cũng vì lão không muốn sống cuộc sống bất lương như Binh Tư.

- Cái chết của lão xuất phát từ lòng tự trọng đáng kính.

5. Đánh giá, tổng hợp:

- Khẳng định những phẩm chất của lão Hạc ngời sáng trong hoàn cảnh tăm tối nhất; đói khổ, đớn đau không khuất phục nổi.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn: lựa chọn ngôi kể, miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện…

- So sánh, đối chiếu, mở rộng các nhân vật khác.

=>Nhân vật đã góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

6. Liên hệ, rút ra bài học:

* Lưu ý: Hướng dẫn chấm chỉ nêu những ý cơ bản, trên cơ sở các gợi ý đó giám khảo có thể vận dụng linh họat để phát hiện những bài làm thể hiện tố chất của học sinh giỏi (kiến thức vững chắc, năng lực cảm thụ sâu sắc, tinh tế, kĩ năng làm bài tốt…);

- Khuyến khích những bài làm có sự sáng tạo, có phong cách riêng song hợp lí. Có thể thưởng điểm cho các bài viết sáng tạo song không vượt quá khung điểm của mỗi câu theo quy định.

 

 

0,5

 

0,5

 

 

0,5

 

 

 

 

 

3,5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3,5

 

 

 

 

 

 

 

1,0

 

 

 

 

 

 

 

0,5

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà: - Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

Ngày soạn: 6/3/2019

Tiết 55-56-57

Buổi 19: LUYỆN ĐỀ

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tập làm văn.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về tập làm văn.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

Câu 1.(3 điểm)

Một trong 5 ĐIỀU BÁC HỒ DẠY THIẾU NIÊN, NHI ĐỒNG là:

Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm

Hãy trình bày suy nghĩ của em về đức tính Khiêm tốn bằng một bài viết ngắn.

Câu 2.(5 điểm)

Trình bày hiểu biết của em về tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân của nhà văn Nam Cao qua truyện ngắn Lão Hạc (Sách Ngữ văn 8, tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) bằng một bài viết ngắn khoảng 20 dòng tờ giấy thi.

Câu 3.(12 điểm)

KHI CON TU HÚ

 

Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Trời xanh càng rộng, càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không ...

 

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !

Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !

Huế, tháng 7 - 1939

Trích Từ ấy - Tố Hữu

Sách Ngữ văn 8, tập hai - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

Hãy làm sáng tỏ lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi trong cảnh tù ngục được thể hiện qua bài thơ trên.

 

--- Hết ---

 

 
HƯỚNG DẪN CHẤM

 

 

I. Đáp án và thang điểm

 

CÂU

NỘI DUNG

ĐIỂM

Câu

1

Câu 1:

Hãy trình bày suy nghĩ của em về đức tính Khiêm tốn bằng một bài viết ngắn.

- Yêu cầu: HS dẫn dắt giới thiệu được vấn đề nghị luận: Trong xã hội hiện nay, chúng ta cần phải trang bị cho mình những hành trang cần thiết để có thể tự hoàn thiện bản thân mình và hội nhập vào cộng vào xã hội. Một trong những đức tính cần thiết nhất để có thể hòa nhập có được mối quan hệ tốt là khiêm tốn.

- Giải thích: Khiêm tốn là thái độ không tự đề cao mình, đánh giá đúng mực về bản thân, luôn học hỏi người khác và biết kính trên nhường dưới.

- Bàn luận vấn đề: Những người khiêm tốn thường rất hòa nhã, nhún nhường, tôn trọng người khác và nghe nhiều hơn nói. Họ luôn nhanh chóng nhìn nhận và sửa đổi các khuyết điểm của mình, học tập những cái hay, cái tốt từ người khác và không tự mãn với những gì mình đã đạt được. Đối lập với Khiên tốn là kiêu căng, kiêu ngạo… Cũng cần phải thấy rằng khiêm tốn không có nghĩa là tự ti, tự hạ thấp mình, rụt rè và không đánh giá đúng năng lực của bản thân.

- Mở rộng vấn đề: Phê phán những lối sống đã đi ngược lại với những phẩm chất trên: kiêu căng, tự phụ, hoặc tự ti, thiếu trung thực, hèn nhát, thiếu bản lĩnh...Bài học nhận thức: (HS tự liên hệ bản thân).

 

3.0

 

 

 

0,5

 

 

 

 

 

0,5

 

 

1,0

 

 

 

 

 

 

1,0

 

 

 

Câu

2

Câu 2:

Trình bày hiểu biết của em về tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân của nhà văn Nam Cao qua truyện ngắn Lão Hạc (Sách Ngữ văn 8, tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) bằng một bài viết ngắn khoảng 20 dòng tờ giấy thi.

- Nhà văn đã thấy rõ và cảm thông với nỗi khổ cực về cuộc sống túng quẫn của lão Hạc- một người nông dân nghèo khổ: nhà nghèo, vợ chết, chỉ còn đứa con trai. Phẫn chí vì không đủ tiền cưới vợ nên người con trai của lão Hạc bỏ đi đồn điền cao su…

- Lão Hạc nuôi con chó vàng như một kỉ vật của anh con trai, như một người bạn tâm tình… Sự túng quẫn đã đẩy lão Hạc vào bi kịch: bán Cậu Vàng, thậm chí phải tìm đến cái chết thê thảm, đau đớn…

- Cùng với việc phản ánh cuộc sống khổ cực, túng quẫn của Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã phản ánh khá trung thực những phảm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam: lão Hạc là một người cha nhất mực thương con; một con người dù nghèo khó nhưng giàu lòng tự trọng, thà chết để giữ lại mảnh vườn cho con, “chết trong còn hơn sống đục”

  • Những phẩm chất đáng quý của Lão Hạc, cái chết thê thảm và đau đớn của lão Hạc đã phản ánh tình cảnh đói khổ, bế tắc của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, qua đó đã thể hiện cái nhìn đầy yêu thương và trân trọng đối với người nông dân(cái nhìn nhân đạo) của nhà văn Nam Cao.

- HS có thể nêu ý nghĩ của ông giáo sau cái chết của lão Hạc (đây cũng chính là lời triết lí lẫn cảm xúc trữ tình của Nam Cao). Nam Cao đã khẳng định một thái độ sống với cách nhìn nhận và cách ứng xử mang tinh thần nhân đạo sâu sắc: Đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa...

5,0

 

 

 

 

 

1,0

 

 

 

1,0

 

 

1,0

 

 

 

 

 

1,0

 

 

 

 

1,0

 

 

 

 

 

 

Câu 3

 

 

 

 

 

Hãy làm sáng tỏ lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi trong cảnh tù ngục được thể hiện qua bài thơ Khi con tu hú.

Yêu cầu chung:

- Thể loại: Văn nghị luận chứng minh. HS dùng dẫn chứng và lí lẽ làm sáng tỏ nhận định trên.

Ý thứ nhất: Bài thơ thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống.

Ý thứ hai: Bài thơ thể hiện niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng.

HS có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau: chứng minh hết ý thứ nhất đến ý thứ hai; chứng minh theo trình tự các câu thơ nhưng phải nêu được các ý cơ bản như sau:

12

Mở bài:

- Giới thiệu về Tố Hữu và hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Bài thơ được sáng tác tháng 7 năm 1939 tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), khi tác giả bị bắt giam vào đây chưa lâu. Người thanh niên say mê lý tưởng cách mạng, yêu đời bị giam cầm trong lao tù cảm thấy ngột ngạt vì mất tự do, náo nức hướng ra cuộc sống bên ngoài, muốn thoát ra để trở về với cuộc sống tự do, với hoạt động cách mạng.

- Nêu nội dung lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua bài thơ.

2,0

 

1,0

 

 

 

 

 

 

1,0

Thân bài:

Học sinh làm sáng tỏ lòng yêu cuộc sống, niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi đang bị giam cầm trong tù ngục được thể hiện bằng những hình ảnh gợi cảm và thể thơ lục bát giản dị mà tha thiết...

+ Ý thứ nhất: Bài thơ thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống qua cảnh trời đất vào hè trong tâm tưởng người tù cách mạng (6 câu thơ đầu).

- Hình ảnh mùa hè với tiếng ve, lúa chiêm đang chín, bầu trời cao rộng, đặc biệt tiếng chim tu hú đã thức dậy mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương vị:

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần...”

- Hình ảnh mùa hè hiện lên trong tâm tưởng người chiến sĩ cách mạng đang bị giam cầm trong chốn lao tù là sự cảm nhận của một tâm hồn trẻ trung, tràn đầy lòng yêu cuộc sống...

+ Ý thứ hai: Bài thơ thể hiện niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng bị giam cầm trong chốn lao tù…(4 câu thơ cuối)

- Bốn câu thơ cuối thể hiện tâm trạng người tù cách mạng: đó là tâm trạng đau khổ, uất ức, ngột ngạt được nói lên trực tiếp:

“Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!”

- Tâm trạng ấy như truyền tới người đọc cảm giác ngột ngạt cao độ, đồng thời thể hiện niềm khát khao tự do cháy bỏng: muốn thoát ra khỏi cảnh ngục tù, trở về với cuộc sống tự do bên ngoài:

“Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !”

HS có thể mở rộng bằng một số câu thơ khác trích trong các bài thơ “Ngắm trăng”, “Đi đường” (Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh) để làm phong phú cho bài làm...

 

8,0

 

 

 

 

 

 

4,0

 

 

2,0

 

 

 

 

 

2,0

 

 

 

4,0

 

 

 

2,0

 

 

 

 

 

2,0

Kết bài:

- Khẳng định lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua bài thơ.

- Học sinh có thể liên hệ bản thân qua lòng yêu cuộc sống, qua nghị lực vượt khó để góp phần bảo vệ độc lập, tự do của đất nước.

 

2,0

 

1,0

 

 

1,0

 

 

VẬN DỤNG CHO ĐIỂM CÂU 3

Điểm 11 - 12: Vận dụng tốt lí thuyết để làm bài văn nghị luận chứng minh, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng tiêu biểu, có mở rộng, nâng cao để khẳng định nội dung chứng minh; trình bày đủ các ý cơ bản như trên, diễn đạt tốt, trình bày đẹp.

Điểm 9 - 10: Vận dụng tốt lí thuyết để làm bài văn nghị luận chứng minh, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng tiêu biểu, có mở rộng, nâng cao để khẳng định nội dung chứng minh; trình bày tương đối đủ các ý cơ bản như trên, diễn đạt tốt, trình bày đẹp.

Điểm 7 - 8: Vận dụng tương đối tốt lí thuyết để làm bài văn nghị luận chứng minh, có thể lập luận chưa chặt chẽ, dẫn chứng tiêu biểu, có mở rộng để khẳng định nội dung chứng minh; trình bày chưa đủ các ý cơ bản như trên, còn mắc một số lỗi về chính tả, diễn đạt…

Điểm 5 - 6: Biết vận dụng lí thuyết để làm bài văn nghị luận chứng minh, trình bày chưa đủ các ý cơ bản trên; lập luận chưa chặt chẽ, dẫn chứng chưa tiêu biểu, chưa mở rộng, nâng cao để khẳng định nội dung chứng minh; còn diễn xuôi lại bài thơ, mắc nhiều lỗi về chính tả, diễn đạt…

Điểm 3 - 4:Chưa biết vận dụng lí thuyết để làm bài văn nghị luận chứng minh, trình bày thiếu nhiều ý cơ bản trên; lập luận chưa chặt chẽ, dẫn chứng chưa tiêu biểu, chưa biết mở rộng, nâng cao để khẳng định nội dung chứng minh; nhiều chỗ còn diễn xuôi lại bài thơ, còn mắc nhiều lỗi về chính tả, diễn đạt…

Điểm 1 - 2: Chưa biết vận dụng lí thuyết để làm bài văn nghị luận chứng minh, còn thiếu nhiều ý, còn diễn xuôi bài thơ hoặc lan man; bài viết chưa có bố cục mạch lạc, diễn đạt lủng củng, còn nhiều lỗi chính tả.

 

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà: - Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

 

 

 

Ngày soạn: 18/3/2019

Tiết 58-59-60

Buổi 20: LUYỆN ĐỀ

 

I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức: Ôn tập kến thức về tập làm văn.

2. Kỹ năng: Vận dụng vào làm bài.

3. Thái độ:Tích cực trong học tập.

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên: Soạn bài chuẩn bị hệ thống bài tập.

2. Học sinh:Ôn kĩ phần kiến thức đã học về tập làm văn.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định định chức:

Ngày dạy

Tiết

Lớp

Sĩ số

Ghi chú

 

 

 

 

 

2. Kiểm tra: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh

3. Bài mới:

Câu 1(4 điểm).

Hai câu thơ dưới đây, tác giả đều sử dụng nghệ thuật so sánh:

- Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã.

- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng.

Em thấy hai cách so sánh trên có gì khác nhau? Mỗi cách có hiệu quả nghệ thuật riêng như thế nào?

Câu 2 (6 điểm):Đọc đoạn văn sau:

"Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương …"

( Nam Cao, Lão Hạc)

Từ tâm sự của nhân vật ông giáo thể hiện qua đoạn văn trên, em hãy trình bày những suy nghĩ của mình về vai trò của tình yêu thương đối với mỗi con người trong cuộc sống?

Câu 3 (10 điểm): Phân tích hình ảnh người chiến sĩ cách mạng qua hai bài thơ: “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt) của Hồ Chí Minh và “Khi con tu hú” của Tố Hữu?

 

----------------- Hết -----------------

 

 

 

 

HƯỚNG DẪN CHẤM

 

 

 

 

 

 

Câu

Nội dung cần đạt

Thang điểm

Câu 1

Hai câu thơ trên tác giả đều dùng biện pháp so sánh. Tuy nhiên mỗi câu lại có hiệu quả nghệ thuật riêng:

4.0đ

 

- So sánh con thuyền ra khơi “ hăng như con tuấn mã” tức là con thuyền chạy nhanh như con ngựa đẹp và khỏe ( tuấn mã) đang phi, tác giả so sánh cái cụ thể, hữu hình này với cái cụ thể hữu hình khác.

- So sánh “Cánh buồm với mảnh hồn làng” tức là so sánh một vật cụ thể hữu hình, quen thuộc với một cái trừu tượng vô hình có ý nghĩa thiêng liêng.

2.0đ

 

- Cách so sánh trong câu thơ thứ nhất làm nổi bật vẻ đẹp, sự mạnh mẽ của con thuyền ra khơi.

- Cách so sánh trong câu thơ thứ hai làm cho hình ảnh cánh buồm chẳng những trở nên cụ thể sống động mà còn có vẻ đẹp lớn lao, trang trọng, thiêng liêng. Cánh buồm no gió ra khơi trở thành biểu tượng rất phù hợp và đầy ý nghĩa của làng chài.

2.0đ

 

Câu 2

 

Về kĩ năng: Học sinh biết viết bài văn (đoạn văn) nghị luận đúng về hình thức, biết vận dụng một số thao tác lập luận để bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của bản thân.

Về kiến thức : Cần đảm bảo một số ý

6.0 đ

 

a. MB:

Học sinh đưa dẫn vấn đề từ câu nói của nhà văn Nam Cao trong truyện Lão Hạc để khẳng định tình yêu thương rất cần trong cuộc sống.

0.25 đ

b.TB:

- Giải thích: Tình yêu thương là tình cảm tốt đẹp giữa con người với con người. Đó là sự sẻ chia, thông cảm, đồng cảm, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau…trong cuộc sống.

- Vai trò, ý nghĩa của tình yêu thương trong cuộc sống:

+ Tình yêu thương có ý nghĩa và sức mạnh lớn lao. Tình yêu thương đem đến cho con người niềm vui, hạnh phúc, cao hơn là mang lại sự sống, sự cảm hoá kì diệu, tiếp thêm sức mạnh để con người vượt qua mọi thử thách, khó khăn. (Dẫn chứng)

+ Người cho đi tình yêu thương cũng cảm thấy thanh thản, hạnh phúc trong lòng. (Dẫn chứng)

+ Tình yêu thương làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, là lực hấp dẫn kéo gần con người lại với nhau. Đáng sợ biết bao khi thế giới này chỉ có hận thù, chiến tranh.

- Bàn luận (Mở rộng):

+ Phê phán những kẻ sống ích kỉ, thơ ơ vô cảm trước nỗi đau đồng loại

+ Tuy nhiên tình yêu thương không phải là thứ có sẵn trong mỗi người, chỉ có được khi con người có ý thức nuôi dưỡng, vun trồng.

+ Tình yêu thương cho đi phải trong sáng, không vụ lợi có thể nó mới có ý nghĩa.

+ Hãy biến yêu thương thành hành động, yêu thương đúng cách, không mù quáng...

- Rút ra bài học nhận thức và hành động: Sống yêu thương, trân trọng tình yêu thương của người khác dành cho mình và cũng cần biết san sẻ tình yêu thương với mọi người.

0.5 đ

 

 

2.5 đ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2.5 đ

 

 

 

 

c, KB

  1. định lại vấn đề: tình yêu thương là thứ tình cảm không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người.

Chú ý: Học sinh có thể trình bày dưới dạng một bài văn hoặc một đoạn văn, miễn sao đầy đủ bố cục. GK linh hoạt cho điểm hợp lí.

0.25 đ

Câu 3

Về kĩ năng : Hs biết viết bài nghị luận văn học đúng về hình thức, biết vận dụng một số thao tác lập luận để bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của bản thân.

Về kiến thức: Cần đảm bảo một số ý

10.0 đ

a. MB

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Đưa dẫn nội dung phân tích: Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng.

0.5 đ

b. TB

* Luận điểm 1: Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết.

- Cảm nhận bức tranh thiên nhiên đặc sắc về mùa hè trong cảnh tù đày, giam hãm: với tiếng chim tu hú, tiếng ve ngân, hình ảnh đồng lúa chín, sân bắp vàng, nắng hồng, đôi con diều sáo tự do bay lượn.... -> Bức tranh mùa hè được cảm nhận bằng nhiều giác quan, vừa có hình ảnh, màu sắc, lại có cả hương vị, âm thanh -> tâm hồn tinh tế, hòa mình vào không gian tự do, khoáng đạt (Khi con tu hú).

- Cảm nhận không gian đêm trăng sáng giữa chốn lao tù: vô vàn thiếu thốn, gian khổ (không rượu, không hoa, không tự do) nhưng con người và thiên nhiên vẫn có sự giao hòa (người ngắm trăng, trăng ngắm người) nên thơ, thi vị... -> tâm hồn nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. (Ngắm trăng)

* Luận điểm 2: Lòng yêu nước, sự khao khát tự do mãnh liệt.

- Tâm trạng ngột ngạt, u uất; lòng khao khát tự do, muốn phá tan căn phòng giam chật hẹp, tù túng trở về với tự do, với cuộc sống, về với hoạt động cách mạng còn đang dang dở. (Khi con tu hú)

- Cuộc vượt ngục bằng tinh thần, thoát ra khỏi chốn nhà lao tối tăm, chật chội để được thả hồn vào thiên nhiên thơ mộng, làm bạn với vầng trăng, với thiên nhiên. (Ngắm trăng)

* Luận điểm 3: Chất chiến sĩ hòa cùng chất thi sĩ.

- Hồ Chí Minh cảm nhận tất cả vẻ đẹp thanh cao của trăng như các thi nhân xưa -> Mở đầu bằng hình ảnh nhà tù với biết bao thiếu thốn, giữa bài thơ là trăng sáng, cuối bài thơ là hình ảnh con người trong thân phận bị giam cầm giữa song sắt đã trở thành nhà thơ đang say sưa mơ mộng -> phong thái ung dung tự tại, ý chí tinh thần lạc quan cách mạng, khát vọng tự do -> khúc hát tự do của người tù mang phong thái thi sĩ, chiến sĩ -> chất cổ điển kết hợp với chất hiện đại -> chất thép ở con người Hồ Chí Minh. (Ngắm trăng)

- Hình ảnh một chàng trai trẻ sôi nổi, một thi nhân với tâm hồn nhạy cảm, khát vọng tự do qua bức tranh mùa hè tưởng tượng sinh động, sống động, rực rỡ sắc màu, hình ảnh -> nỗi khắc khoải, day dứt khôn nguôi cả thể xác lẫn tâm hồn -> người chiến sĩ cộng sản tự đấu tranh với bản thân vượt lên bản thân để làm chủ mình, vượt lên những nghệt ngã của lao tù, nuôi dưỡng ý chí giữ vững khí tiết và tinh thần đấu tranh cách mạng -> tiếng lòng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, tiếng thơ của một thi sĩ tràn đầy sức sống, sức trẻ...( Khi con tu hú)

* Đánh giá:

- Cả 2 bài thơ đều là những sáng tác của các chiến sĩ cách mạng, ra đời trong hoàn cảnh tù đày khổ ải.

- Hình ảnh thơ quen thuộc nhưng đặc sắc, tinh tế thể hiện qua tâm hồn mẫn cảm. Thể thơ dân tộc, nhịp thơ nhanh, nhiều động từ, tính từ mạnh... (Khi con tú hú), thể thơ Đường luật giản dị mà hàm súc, ngôn ngữ chắt lọc, nghệ thuật đối ... (Ngắm trăng).

- Những bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, những cung bậc cảm xúc khác nhau... được thể hiện qua những tâm hồn mẫn cảm, con mắt tinh tế, óc tưởng tượng phong phú vượt lên trên tất cả lao tù, xiềng xích...

- Chất chiến sĩ hòa với chất thi sĩ, chất thơ hòa với chất thép.

- Liên hệ mở rộng

3.0 đ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3.0 đ

 

 

 

 

 

 

2.0 đ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1.0 đ

c. KB

- Khẳng định lại nội dung phân tích.

- Bày tỏ suy nghĩ của bản thân sau khi học xong tác phẩm.

0.5 đ

 

4. Củng cố: Hệ thống bài học

5. Hướng dẫn về nhà: - Ôn kĩ về văn bản.Làm các bài tập.

 

Từ khóa » độ ấy Thơ Mới Vừa Mới Ra đời