HA-LÊ-LUI-A Hay ALLÊLUIA

HA-LÊ-LUI-A hay ALLÊLUIA ?

Trong Phụng Vụ có hai từ : Ha-lê-lui-a và A-men được dùng rất nhiều, hai từ này đã trở quen thuộc với mọi Ki-tô hữu. Nhưng riêng từ Ha-lê-lui-a lại có một cách đọc khác là Alleluia. Sự khác biệt này đôi khi lại là đề tài gây tranh cãi. Theo tôi, sự khác biệt này chẳng có gì quan trọng lắm ; nhưng cũng nên có vài ý kiến đóng góp, xin các vị chuyên môn chỉ giáo những gì thiếu sót vì sự hiểu biết có hạn của tôi.

A. Nguồn gốc từ Ha-lê-lui-a

Từ Ha-lê-lui-a có gốc là tiếng Híp-ri (Hebrew) : הַלְלוּ יָהּ ghép bởi 2 từ : הַלְלוּ có nghĩa là Hãy chúc tụng, Hãy ca tụng; và יָהּ là một hình thức viết tắt của từ יהוה có nghĩa là ĐỨC CHÚA (mà trước đây thường dịch là Gia-vê hay Giê-hô-va).

Từ Ha-lê-lui-a được dùng rất nhiều trong các Thánh Vịnh : 104, 105, 106, 111, 112, 113, 115, 116… 146, 147, 148, 149, 150. Các bản dịch Kinh Thánh giữ lại từ này dựa trên cách chuyển tự (transliteration) halǝlû-yāh. Trong từ này có mẫu tự ה được chuyển tự là hvà được phiên âm là Ha-lê-lui-a.

Khoảng thế kỷ III trước Công Nguyên, bản Kinh Thánh Híp-ri Cựu Ước được dịch sang tiếng Hy-lạp gọi là bản Bảy Mươi (LXX). Ha-lê-lui-a được viết là : αλληλουια. Ta thấy có thêm 1 chữ λ nhưng lại mất chữ h vì trong bảng chữ cái Hy-lạp không có mẫu tự 'h', chữ ‘H’ là hình thức viết hoa của chữ êta =η (e dài).

Vào khoảng năm 390 đến 405, thánh Giê-rô-ni-mô dịch toàn bộ Kinh Thánh ra tiếng La-tinh là bản VULGATA (kể cả NOVA VULGATA gọi là bản Phổ Thông Mới – 1989) cũng viết theo Hy-lạp là ALLELUIA vì trong tiếng La-tinh chữ ‘h’ luôn luôn câm, không đọc, kể như không có. Thí dụ : habitare đọc là a-bi-ta-rê ; historia đọc là is-tô-ri-a ; homilia đọc là ô-mi-li-a… (x. Tiếng La-tinh – Văn phạm. Tập I, trang 22, Lm Louis Nguyễn Văn Bính, Giáo sư Đại Chủng Viện Huế). Một số bản dịch tiếng Pháp cũng theo chiều hướng này, Bible de Jérusalem, Osty, TOB … vì trong tiếng Pháp chữ ‘h’ cũng không đọc (H muet).

Tuy nhiên, một số bản tiếng Anh gần đây đã giữ lại chữ Halleluja như : American Standard Version (ASV, 1988) ; English Standard Version (ESV, 2007) ; New English Translation (NET, 2006) ; Common English Bible (CEB, 2011) ; New American Standard Bible (NAS, 1997) ; The New American Bible (NAB, 2011) ; New International Version (NIV, 2011), Holman Christian Standard Bible (CSBO, 2009). Xem các Thánh vịnh và Khải huyền 19,1-6.

Một tác phẩm có giá trị là bộ The New Jerome Biblical Commentary mà ai học Kinh Thánh không thể không biết đến, đã dùng từ hallĕlû yāh (x. NJBC, edition 1990, article 34, section 3, p.524 ; sect. 163, p. 551).

Như vậy, Ha-lê-lui-a hay Allêluia cũng đều có nghĩa là lời mời gọi Hãy ca tụng Đức Chúa, Hãy chúc tụng Đức Chúa. Một số bản dịch Anh ngữ trước đây đã dịch ra nghĩa: Praise the LORD. Nhưng dịch như vậy làm mất đi âm hưởng của tiếng Hip-ri. Vì vậy một số bản đã hiệu đính và ghi rõ Halleluja trong những lần in sau này (xem những bản dịch nêu trên) .

Trong tiếng Hy-lạp, tuy không có chữ ‘h’ nhưng lại có một quy luật về hơi (breathings) với những từ có nguyên âm ở đầu, với dấu phẩy ngược trên nguyên âm gọi là hơi cứng (rough breathing), được phát âm như có một phụ âm bật hơi trước nguyên âm và đọc như một chữ h. Có một số bản Hy-lạp đã viết ἁλληλουϊά , có dấu hơi cứng trên nên được đọc là Hal-lê-lui-a (x. BGT- Kh 19,1…)

B. Các bản dịch Kinh Thánh và Phụng Vụ tiếng Việt

HA-LÊ-LUI-A

1) Các bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt trước đây thường không chú trọng nhiều đến nguyên bản Híp-ri, mà thường dịch từ bản La-tinh. Sau này có cha Nguyễn Thế Thuấn Dòng Chúa Cứu Thế, một học giả uyên bác về Kinh Thánh, trong bản dịch, phần Cựu Ước chịu ảnh hưởng của bản Hy-lạp và La-tinh, nên ngài đã theo lối viết Alleluia trong các Thánh Vịnh. Nhưng trong Tân Ước, khi trích dẫn Cựu Ước thì ngài lại viết Hallêluya (x. Kh 19,1.3.4.6. Kinh Thánh, 1976). Điều đó cho thấy ngài đã có ý thay đổi cho đúng theo Híp-ri, tiếc là ngài mất sớm. Vì theo lời các bậc tiền bối trong Dòng Chúa Cứu Thế là học trò của ngài, thì ngài cũng chưa hài lòng với bản dịch Cựu Ước.

2) Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ ngay từ đầu đã có khuynh hướng theo sát nguyên bản, ít là trong cách phiên âm các tên riêng hay những đặc ngữ của Kinh Thánh, vì thế đã phiên âm từ này là Ha-lê-lui-a.

3) Sách Lễ Rô-ma của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1992, hiện còn đang sử dụng : trong phần Quy Chế Tổng Quát trang 28-29, các số 36-39 dùng Ha-lê-lui-a. Các Ca nhập lễ và Ca hiệp lễ trong suốt Mùa Phục Sinh, từ trang 304 – 369 cũng dùng Ha-lê-lui-a.

4) Bản dịch Quy Chế Tổng Quát – Sách Lễ Rô-ma, năm 2000 của Uỷ Ban Phụng Tự (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam) trong đề mục Thánh vịnh đáp ca các số 61 – 64 : cũng dùng Ha-lê-lui-a.

5) Từ Điển Công Giáo 500 mục từ của Uỷ ban Giáo Lý Đức Tin xuất bản năm 2011, đã xếp từ này ở vần H trang 147 với lời giải thích vắn gọn đầy đủ ý nghĩa từ HALLELUIA.

6) Lịch Những ngày lễ Công Giáo 2014-2015 trong phần ghi chú lưu ý về Mùa Chay trang 46 số 3 nhắc nhở : Trong Thánh Lễ và Các Giờ Kinh PHụng Vụ, bỏ không đọc Hallêluia mỗi khi gặp.

Như vậy, dù có vài khác biệt nhỏ trong cách viết của mỗi bản dịch, thì vẫn có vần H : Ha-lê-lui-a. Trong tiếng Việt đương nhiên phát âm là ha.

ALLÊLUIA

Không kể những bản văn cũ cách nay mấy chục năm, thời gian gần đây cũng có một số tác giả hoặc uỷ ban, với một lý do riêng nào đó, đã muốn sử dụng từ ALLÊLUIA (viết liền) hay A-LÊ-LU-IA trong một vài bản văn hoặc bản nhạc, bài hát …Điều này chẳng có vấn đề gì và chúng ta tôn trọng sự chọn lựa đó.

Tuy nhiên, một chị ca viên phục vụ lâu năm trong ca đoàn nói rằng: “Hát Allêluia hay Ha-lê-lui-a cũng được, nhưng xét về nghệ thuật thì hát Ha-lê-lui-a sẽ làm cho âm điệu nhẹ nhàng, dễ hát, còn hát Allêluia nghe hơi chói ”.

Ý kiến này rất đúng, xin minh hoạ bằng một vài đoạn video rất hay sau đây:

https://www.youtube.com/watch?v=jxIq59kRlgc

https://www.youtube.com/watch?v=1KF4j-t6i1c

https://www.youtube.com/watch?v=BBZ7AfZR9xs

C. Các tự điển

- Một số Dictionary English thường ghi cả hai cách, cũng có tác giả ghi cả hai nhưng thiên về Hallêluja (xem WEBSTER' S NEW WORLD DICTIONARY - 1984).

- Cuốn từ điển La-tinh rất có thế giá là Le Grand Gaffiot Latin-Français – Hachette-Livre 2000, trang 105, cột thứ 2 có ghi cả 2 từ alleluia, halleluia [mot hébreu signifiant “louez Dieu”]. Như vậy có nghĩa là tác giả mặc nhiên nhìn nhận cả 2 từ.

Kết luận

Nếu xét về nguồn gốc và những dẫn chứng trong thực tế thì từ Ha-lê-lui-a vẫn có một ưu thế hơn dù rằng từ Allêluia không sai. Như vậy, đây chỉ là một lựa chọn và việc lý giải cho sự chọn lựa phải có tính thuyết phục chứ không áp đặt... Mong rằng ý nghĩa của từ là lời mời gọi : Hãy ca tụng Đức Chúa đừng trở thành cớ cho sự tranh cãi.

Từ khóa » Ha Lê Lu Gia Nghĩa Là Gì