Hiện Tượng Chuyển Loại Trong Tiếng Việt Và Tiếng Anh Dưới Góc độ ...
Có thể bạn quan tâm
Trong tiếng Việt Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê 1963 đã bàn về từ chuyển loại và vai trò của ngữ cảnh để phân biệt từ loại của từ; đồng thời cũng chỉ rõ: “đừng lẫn với tiếng đồng âm,
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VÕ THỊ NGỌC ÂN
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
DƯỚI GÓC ĐỘ DẠY TIẾNG
CHUYÊN NGÀNH: VIỆT NAM HỌC
MÃ SỐ: 60.31.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS TRẦN THỦY VỊNH
TP HOÀ CHÍ MINH, 2014
Trang 3QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1 Trích dẫn
- Tài liệu trích dẫn được ký hiệu bằng số thứ tự tương ứng của nó trong danh mục TÀI LIỆU THAM KHẢO cùng với số trang sau dấu hai chấm ( : ) và được đặt trong ngoặc vuông [ ] Nếu không trích dẫn nguyên văn thì phần trích dẫn không được đặt trong ngoặc kép
Ví dụ: “A” [ 23 : 39 ] nghĩa là A được trích dẫn từ tài liệu số 23 (trong mục TÀI LIỆU THAM KHẢO) và ở trang 39
- Tài liệu được dẫn gián tiếp được ghi theo tên tác giả và năm xuất bản sách khi sách đã được đề cập đến hoặc trong mục TÀI LIỆU THAM KHẢO Nếu tác giả có trên một tài liệu trong cùng một năm thì sau năm có thêm ký tự a, b, c v.v
Ví dụ: Nguyễn Đức Dân (1998b)
2 Dẫn chứng
- Xuất xứ các dẫn chứng, ví dụ trích từ các tác phẩm văn học, từ các loại sách báo được ghi bằng tên tác phẩm hoặc các chữ cái đầu của tên sách ngay sau mỗi dẫn chứng, ví dụ được in nghiêng
- Các ví dụ trích lại của các tác giả khác được ghi tắt bằng ký hiệu: “dt” = “dẫn theo” trước tên tác giả và năm xuất bản của công trình Ở câu có lời dịch thì lời dịch đặt trong dấu ( )
3 Những từ ngữ được gạch chân hoặc in đậm là nhằm mục đích làm nổi bật vấn đề
mà luận án đang quan tâm
4 Số thứ tự các ví dụ và chú thích cuối trang (footnote) được ghi riêng cho từng chương
5 vd là chữ viết tắt của từ “ví dụ”
Chẳng hạn : vd to nurse the baby (chăm sóc cho em bé)
6 Quy ước viết tắt cho từ loại
6.1 Đối với tiếng Việt
Luận văn chú “từ loại” hoặc “có tính chất từ loại” cho cả từ và tổ hợp từ, thông tin này được ghi ngay sau đầu mục từ Cụ thể chú 8 từ loại dựa theo hệ thống phân
Trang 4loại trong quyển Từ điển tiếng Việt (Trung tâm từ điển học Vietlex, Nhà xuất bản Đà
→ chuyển loại / phái sinh thành
← chuyển loại / phái sinh thành
/
’
hoặc là trỏ vị trí của trọng âm
Trang 51.1.2 Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Anh
1.2.1 Từ đồng âm và từ đa nghĩa - những tương đồng và dị biệt
1.2.2 Các kiểu loại đồng âm
1.2.3 Từ đồng âm - những khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh
1.3.1 Định nghĩa
1.3.2 Quan niệm về hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt
1.3.3 Quan niệm về hiện tượng chuyển loại trong tiếng Anh
1.5.1 Các loại chuyển loại của từ
1.5.2 Hướng chuyển loại của từ
2.1.1 Chuyển loại giữa danh từ và động từ
2.1.2 Chuyển loại giữa danh từ và tính từ
2.1.3 Chuyển loại giữa động từ và tính từ
2.2.1 Chuyển loại giữa danh từ và hư từ
2.2.2 Chuyển loại giữa động từ và hư từ
2.2.3 Chuyển loại giữa tính từ và hư từ
2.3.1 Chuyển loại giữa phụ từ và kết từ
2.3.2 Chuyển loại giữa phụ từ và trợ từ
2.3.3 Chuyển loại giữa trợ từ và kết từ
Trang 6ii
3.1.1 Chuyển loại giữa danh từ và động từ
3.1.2 Chuyển loại giữa danh từ và tính từ
3.1.3 Chuyển loại giữa động từ và tính từ
3.2.1 Chuyển loại giữa danh từ và hư từ
3.2.2 Chuyển loại giữa động từ và hư từ
3.2.3 Chuyển loại giữa tính từ và hư từ
3.3.1 Chuyển loại giữa phụ từ và liên từ
3.3.2 Chuyển loại giữa phụ từ và giới từ
3.3.3 Chuyển loại giữa giới từ và liên từ
CHƯƠNG 4: Thủ pháp dạy từ chuyển loại trên cơ sở đối chiếu hiện tượng 122
chuyển loại trong tiếng Việt và tiếng Anh
4.1.1 Từ chuyển loại - những tương đồng giữa tiếng Việt và tiếng Anh
4.1.2 Từ chuyển loại - những khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh
4.2.1 Phương thức phân tích theo ngữ cảnh
4.2.2 Phương thức dùng trọng âm và phân đoạn câu
4.2.3 Phương thức dùng dấu câu
Trang 71
DẪN NHẬP
1 Lý do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu
Từ giữ vị trí trung tâm trong hệ thống ngôn ngữ và được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất để phát triển năng lực ngoại ngữ của người học
Hiện tượng chuyển loại là một hiện tượng phổ biến trong ngôn ngữ, là một trong các phương thức cấu tạo từ có khả năng sản sinh (productive) rất cao Việc chỉ ra các cách thức khác nhau của quá trình chuyển loại; phân biệt chuyển loại hoàn toàn, đã ổn định với chuyển loại tương đối, lâm thời là một việc làm cần thiết trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy ngoại ngữ
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập với đặc điểm từ không biến đổi hình thái Chính đặc điểm này kéo theo một hệ quả là hiện tượng chuyển loại của từ rất phổ biến – các từ có cùng một hình thức ngữ âm nhưng về mặt cú pháp lại khác biệt nhau, còn về mặt ngữ nghĩa lại có liên hệ với nhau Điều này đã gây trở ngại nhất định trong việc nhận diện từ khi học tiếng Việt của người nước ngoài
Sự khác biệt về loại hình nói chung và cách thức cấu tạo từ nói riêng của hai ngôn ngữ Việt - Anh là một trong những lý do mà nhiều học viên học tiếng Việt (hoặc tiếng Anh) như một ngoại ngữ khá lúng túng và dùng từ không phù hợp Từ thực tế của việc dạy và học tiếng Việt/tiếng Anh như một ngoại ngữ, chúng tôi thấy việc nghiên cứu, đối chiếu các từ chuyển loại trong tiếng Việt và tiếng Anh là cần thiết Việc nghiên cứu, đối chiếu này nhằm đề xuất những thủ pháp hỗ trợ cho công tác dạy và học từ tiếng Việt (hoặc tiếng Anh), cũng như gia tăng vốn từ vựng cho người bản ngữ tiếng Anh học tiếng Việt (hoặc ngược lại)
Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và có so sánh đối chiếu hiện tượng chuyển loại để phục vụ cho công việc dạy tiếng và dịch thuật
Những điều đã nói trên chính là lý do mà chúng tôi chọn đề tài này
Về mục đích nghiên cứu, luận văn miêu tả và đối chiếu hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt và tiếng Anh, đồng thời ứng dụng kết quả nghiên cứu vào dịch thuật cũng như giảng dạy tiếng Việt (hoặc tiếng Anh) như một ngoại ngữ, cụ thể như sau:
Trang 8- Cuối cùng, luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến hiện tượng chuyển loại của từ trong tiếng Việt và tiếng Anh
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về hiện tượng chuyển loại thường gắn liền với lĩnh vực có liên quan như vấn đề phân định từ loại, hiện tượng đồng âm và đa nghĩa Đây là những
đề tài không mới nhưng có nhiều quan điểm khác nhau Hiện tượng chuyển loại của
từ thường được đề cập lướt qua cùng với hiện tượng đồng âm trong hầu hết các sách giáo khoa về ngữ pháp và được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu
Trong tiếng Việt – một ngôn ngữ đơn lập, từ được xác định và phân loại dựa trên cơ sở ngữ nghĩa, khả năng kết hợp và chức năng cú pháp của từ Còn trong tiếng Anh - một ngôn ngữ biến hình, việc xác định và phân loại này dựa trên cơ sở
ngữ nghĩa, cú pháp hoặc hình thái Chẳng hạn như sing trong She sings a romantic song biểu thị một loại hành động (ngữ nghĩa), ở vị trí thứ hai trong câu tường thuật (cú pháp) và có hình thức ngôi thứ ba số ít -s (hình thái) Tất cả đều là đặc trưng của động từ, do đó sing thuộc về từ loại động từ
Hiện tượng chuyển từ loại trong tiếng Anh có nhiều tên gọi khác nhau như
conversion, zero derivation, root formation, transposition, functional change Mỗi
thuật ngữ biểu thị cho cách chuyển từ loại liên quan hướng nghiên cứu cụ thể
Thuật ngữ coversion (chuyển loại) hay zero derivation (phái sinh khuyết/phái sinh zero) nhằm chỉ cách thức chuyển loại mà không có bất cứ thay đổi nào về mặt hình thức Thuật ngữ root formation (cấu tạo từ căn/thân từ) nhằm chỉ cách thức thành
lập từ liên quan không chỉ đến từ căn mà còn liên quan đến từ có phụ tố và từ
Trang 9là chuyển loại hoàn toàn/chuyển loại bên trong) và chuyển từ loại tương đối -
approximate conversion (hay còn gọi là chuyển loại hoàn không hoàn toàn/chuyển loại bên ngoài)
Ở hiện tượng chuyển loại tuyệt đối, từ được chuyển di từ từ loại này sang từ loại khác mà không thay đổi vỏ âm thanh (hình thức) của chúng; còn ở hiện tượng chuyển loại tương đối, từ được chuyển di từ từ loại này sang từ loại khác có ghép thêm từ “bổ nghĩa”/“yếu tố ngữ pháp chuyên dùng”, ghép thêm phụ tố hoặc có chuyên đổi trọng âm, nghĩa là sự thay đổi nhỏ về phương diện ngữ âm học Trong nghiên cứu, tuỳ theo quan điểm của mình, các nhà ngôn ngữ học đề cập hiện tượng chuyển loại thành mục riêng biệt hoặc ghép chung với hiện tượng đồng âm (ở hiện tượng chuyển loại tuyệt đối)
Sau đây, chúng ta hãy thử điểm qua một số công trình nghiên cứu về vấn đề chuyển loại trong tiếng Việt và tiếng Anh
2.1 Trong tiếng Việt
Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963) đã bàn về từ chuyển loại và vai trò của ngữ cảnh để phân biệt từ loại của từ; đồng thời cũng chỉ rõ: “đừng lẫn với
tiếng đồng âm, không những nghĩa khác nhau mà ý cũng khác nhau; ví dụ: cuốc (cái cuốc, cuốc đất), cuốc (chim cuốc) và quốc (quốc gia) Đáng chú ý là quan điểm
của các tác giả về vấn đề làm “đau đầu” giới nghiên cứu là có nhiều trường hợp không thể xác định từ thuộc từ loại này có trước hay từ thuộc từ loại kia có trước:
“ Xét trường hợp tiếng cuốc dẫn trên, hiện nay chúng ta không biết được thoạt kỳ
thủy, tiền nhân đặt ra tiếng ấy để trỏ một đồ vật, sau rồi mới dùng nó để trỏ một
động tác, hay ngược lại, tiền nhân đặt ra tiếng cuốc để trỏ động tác, rồi mới dùng để
trỏ đồ vật [10 : 161-163] Chủ trương quan niệm về sự vật hay quan niệm về sự trạng có trước, không có ảnh hưởng gì đến ngữ pháp Có điều chắc chắn là hai quan
Trang 104
niệm ấy là khái niệm cơ bản, và ngôn ngữ nào có tổ chức hẳn hoi, cũng phải phân biệt tiếng trỏ sự vật và tiếng trỏ sự trạng” Như vậy, theo quan điểm này thì vấn đề nêu trên cũng không ảnh hưởng nhiều đến nghiên cứu hiện tượng chuyển loại trong địa hạt ngữ pháp
Nguyễn Văn Tu (1978) phân biệt hai cách chuyển loại: cách thứ nhất là
dùng cách ghép một từ với một từ làm chứng cho nó chuyển loại như từ hóa kết hợp với quân sự thành động từ quân sự hóa; cách thứ hai là một từ đơn hoặc một từ ghép nào đó có thể chuyển từ loại mà không thay đổi hình thức: danh từ thịt chuyển thành động từ thịt, v.v [52 : 86-92] Tác giả cho thấy chuyển từ loại là một vấn đề
phức tạp và quan niệm rằng từ chuyển loại được cấu tạo theo con đường từ pháp và
ví dụ khá thuyết phục và thú vị như đại từ nhân xưng hoặc những danh từ xưng hô
chuyển hóa thành động từ thường đi từ một đến hai cặp đối ứng với nhau: mày tao, anh anh em em, ông ông, con con… (Hắn chỉ mày (mày) tao (tao) chứ không bao giờ nói năng tử tế); hoặc trợ từ như: vâng, dạ, ơi, ừ, v.v cũng có thể động từ hóa: Ông dạy thế nào con cũng xin vâng (NTT 66), Mợ ừ đi! (NCH, 2, I, 11), Lý trưởng
dạ một tiếng dài (NTT, 117),… Ông quay lại, à một tiếng rất thiếu tự nhiên (NCH
1, 54), v.v [40 : 79-81, 325-326, 325-326]
Hoàng Văn Hành et al (1998) đã bàn luận khá chi tiết, khá toàn diện về từ và hiện tượng chuyển loại, đồng thời đề cập đến một số cách lý giải hiện tượng này cũng như khẳng định rằng chuyển loại là một phương thức cấu từ có quan hệ chặt chẽ với học thuyết về từ loại Tác giả dường như đồng tình với chủ trương phân định từ loại tiếng Việt phải dựa vào ba tiêu chuẩn: 1) Ý nghĩa khái quát của các lớp
từ, 2) Chức vụ của từ khi làm thành phần câu, 3) Khả năng kết hợp của từ với các từ khác như là một đặc trưng thường xuyên Trong ba tiêu chuẩn này, tác giả cho rằng phần lớn sự chú ý của các nhà nghiên cứu vẫn tập trung vào địa hạt cú pháp của từ,
Trang 115
do đó, tiêu chuẩn “khả năng kết hợp”, và “chức vụ cú pháp” của từ được sử dụng nhiều, được coi là tiêu chuẩn quan trọng Còn tiêu chuẩn “ý nghĩa các từ loại” cũng được coi như một tiêu chuẩn quan trọng, nhưng còn ít được khảo sát và đánh giá đúng mức [23 : 143-184]
Hồ Lê (1976) khẳng định vai trò quan trọng của tiêu chuẩn ý nghĩa từ loại của
từ khi phân định chúng Tác giả muốn lưu ý rằng, đối với các ngôn ngữ như tiếng Việt, vốn không phát triển về hình thái, khi xem xét hiện tượng chuyển loại cần đặc biệt coi trọng vai trò của tiêu chuẩn ý nghĩa Vì là một ngôn ngữ hoàn toàn không biến hình, tiếng Việt có điều kiện để “thực hiện các chuyển loại bên trong, cách chuyển loại không cần phụ phẩm hình thức” [32 : 387]
Nguyễn Thiện Giáp (2007) cho rằng hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt hiện nay chưa được giải quyết nhất quán trong các từ điển Tác giả nêu rõ ý kiến của mình như sau: “Thực ra, mối liên hệ ngữ nghĩa trong chuyển loại là rõ ràng, ai
cũng có thể nhận ra Chẳng hạn: bào là d“ụng cụ làm mòn nhẵn gỗ” và bào là “làm
nhẵn gỗ bằng cái bào” [21 : 99-100] Sở dĩ người ta thường tách ra thành những từ đồng âm chính là vì chúng thuộc vào các từ loại khác nhau Nhưng một từ cũng có thể đa loại Vì vậy, theo chúng tôi nghĩ, không phải tất cả các hiện tượng có quan hệ chuyển loại đều được coi là các từ đồng âm Trong trường hợp này, cần phải căn cứ vào tính độc lập và khả năng phái sinh của các ý nghĩa hình thành do chuyển loại, không có khả năng làm cơ sở để tạo nên những nghĩa mới thì đó chỉ là một biến thể
từ vựng ngữ nghĩa mới của từ cơ sở”
Nguyễn Thị Ly Kha (2008) đề cập đến hiện tượng hư hóa về các thực từ chuyển thành hư từ, cũng như các kiểu loại chuyển loại mà các tác giả trước đây đã
Trang 126
giống nhau, là hiện tượng ẩn dụ từ vựng, nhưng thuộc lĩnh vực nghĩa ngữ pháp (chẳng hạn, từ nghĩa của danh từ chuyển sang nghĩa của động từ) Tác giả cũng có ý kiến khá mới mẻ là “trong ngôn ngữ học ngày nay, hiện tượng chuyển di từ loại được gọi là ẩn dụ ngữ pháp Nếu ẩn dụ từ vựng được xác định trong việc sử dụng từ trong nghĩa từ vựng, thì ẩn dụ ngữ pháp cũng được tạo ra trong việc sử dụng từ xét
ở mặt ngữ pháp Đó là cơ sở cho tính đúng của tên gọi này”
Nguyễn Thái Ân (2007) trong luận án tiến sĩ Hiện tượng chuyển di từ loại trong tiếng Anh (có so sánh với tiếng Việt) khảo sát dạng chuyển loại động từ
sang danh từ trong tiếng Anh qua việc phân định thành hai trường hợp cụ thể: chuyển loại động từ không có sự biến đổi hình thái và chuyển loại động từ đã có
sự biến đổi hình thái [1] Trong mỗi trường hợp, tác giả miêu tả, phân tích và nêu ra cơ chế chuyển loại cho hai trường hợp nêu trên, sau đó so sánh với các dạng tương đương trong tiếng Việt
2.2 Trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh, hiện tượng chuyển loại nói chung của từ được đề cập cùng với hiện tượng đồng âm đã có từ rất lâu, từ thời Aristotle Tuy nhiên, hiện tượng
chuyển loại (theo nghĩa chuyển loại hoàn toàn - conversion/zero-derivation) mới
được các nhà ngôn ngữ quan tâm nghiên cứu sau này, trong hơn một thế kỷ từ khi
thuật ngữ conversion được Sweet đưa ra vào cuối thế kỷ 19 Thật ra, cho đến nửa
sau của thế kỷ 20, hiện tượng chuyển loại mới nhận được sự quan tâm thực sự của giới ngôn ngữ học như Marchand (1960), Kastovsky (1968) và Dokulil (1968) Mặc
dù dường như bị lãng quên trong một thời gian, nhưng từ hai thập niên trở lại đây, vấn đề này được quan tâm trở lại với quan điểm mới – quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận Cụ thể là năm 2005, Laurie Bauer và Salvador Valera tập hợp một số bài viết trong hội nghị chuyên đề về chuyển loại/phái sinh zero (tổ chức tại Szentendre,
Hungary năm 2002) và xuất bản dưới tiêu đề Approaches to Derivation [61]
Conversion/Zero-Việc bàn luận về vấn đề chuyển di từ loại trong tiếng Anh có các công trình tiêu biểu như:
The Directionality of Conversion in English: A Dia-synchronic Study (tạm
Trang 137
dịch: Tính có hướng của chuyển loại trong tiếng Anh: Một nghiên cứu đồng bộ)
của Isabel Balteiro, (2007) Cuốn sách này miêu tả ba vấn đề chính trong quá trình
chuyển loại theo phương thức thành lập từ: định nghĩa, phạm vi và hướng chuyển của quá trình này Tuy nhiên trọng tâm nghiên cứu chính của công trình về phạm
vi và hướng chuyển của hiện tượng chuyển loại là dựa trên ngữ liệu với hơn 700 đơn vị từ vựng; cụ thể hơn I Balteiro [59 : 104] đã khảo sát 231 cặp danh từ – động từ chuyển loại thực sự (actual conversion word-pairs) và 367 cặp danh từ – động từ chuyển loại tiềm năng (potential conversion word-pairs) theo tiêu chí từ nguyên học và nghĩa học Tác giả cho rằng liên quan đến hướng chuyển loại nội tại/hoàn toàn thì vấn đề chính đây là liệu có thể thiết lập theo hướng chuyển loại xác định hoặc có thể chuyển loại chỉ ở trong một số trường hợp Hơn nữa, tác giả cho thấy các loại hướng chuyển có liên quan, đó là quá trình này là một chiều, hai chiều hoặc đa chiều Để trả lời câu hỏi này, cả tiêu chí lịch đại (từ nguyên học,…)
và tiêu chí đồng đại (sự phụ thuộc ngữ nghĩa, việc giới hạn cách sử dụng, phạm vi ngữ nghĩa, mô hình ngữ nghĩa, dạng ngữ âm, loại hình thái, trọng âm và các nguyên tắc về sự đánh dấu tương đối) đều được phân tích và đánh giá
A Contribution to the Study of Conversion in English (Một đóng góp cho hiện tượng chuyển loại trong tiếng Anh) của Waxmann Verlag, (2007) Công trình này
đưa ra một cái nhìn mới cho quá trình hoặc hiện tượng chuyển loại có nhiều tranh cãi được biết như là hiện tượng chuyển loại hoàn toàn (conversion/zero-derivation) Tác giả điểm lại nội dung chính yếu của các cách tiếp cận nghiên cứu trước đây về hiện tượng chuyển loại này; đồng thời nỗ lực để đưa ra một định nghĩa mới, thảo luận về việc sử dụng các tên gọi khác nhau một cách thỏa đáng nhất cho hiện tượng này và xác định các đặc điểm chính của nó
Luận văn tốt nghiệp đại học Role of Metonymy in Unmarked Change of Word Category (Vai trò của hoán dụ trong phương thức chuyển loại không đánh dấu) của Ingunn Högnadóttir, (2010) [73] Luận văn thảo luận và so sánh hai cách tiếp cận khác nhau về hiện tượng này: cách tiếp cận truyền thống phái sinh zero với
cách tiếp cận chuyển loại không đánh dấu (unmarked change of word category) do hoán dụ Hai cách tiếp cận có nguồn gốc từ hai quan điểm khác nhau trong ngôn
Trang 148
ngữ học: phái sinh zero bắt nguồn từ ngôn ngữ hình thức (formal linguistics) và lý thuyết hoán dụ (the metonymy theory) trong ngôn ngữ học nhận thức (cognitive linguistics) Tác giả cho thấy rằng việc đánh giá sự thay đổi từ loại không đánh dấu
được giải thích tốt hơn về phương diện hoán dụ hoặc hình vị zero truyền thống giống như việc so sánh giữa “táo” và “cam” Hai cách tiếp cận này rất khác nhau nên khó lòng tìm thấy nền tảng chung để so sánh chúng với nhau – tốt hơn là khảo sát mỗi phương pháp một cách riêng biệt Tác giả cho thấy ưu điểm lớn nhất của lý thuyết phái sinh zero là sự đơn giản và phù hợp với quan niệm hình thái truyền thống cũng như vấn đề thành lập từ Còn lý thuyết hoán dụ mang tính đa nghĩa và trên thực tế đa nghĩa là một trong những giá trị lớn nhất của lý thuyết này; đồng thời tính đa nghĩa cũng giải thích cho việc nghĩa được mở rộng với sự hỗ trợ khung sự tình
Luận án tiến sĩ với đề tài Functional Shift in English (Chuyển đổi chức năng
trong tiếng Anh) của Emma Gene Ousley, (1951) Tác giả đã khảo sát sự chuyển
đổi của một từ từ từ loại này sang từ loại khác và khảo sát quá trình này tồn tại trong tiếng Anh Cổ, tiếng Anh Trung Đại như thế nào, đồng thời ghi lại mức độ phổ biến của hiện tượng chuyển đổi chức năng ở các văn bản hiện nay
Ngoài ra còn có một số tác giả như Norman C Stageberg (1965) - An Introductory English grammar, Howard Jackson (1982) – Analyzing English, Irina
V Arnold (1986) – The English Word, Andrew Carstairs-McCarthy (2002) – An Introduction to English Morphology, Ingo Plag (2003) – Word-formation in English, Geert Booij (2005) – The Grammar of Words,… Ở các công trình này,
không ít thì nhiều, các tác giả đều có bàn luận về hiện tượng chuyển loại dưới góc
độ cấu tạo từ, v.v
3 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là hiện tượng chuyển loại hoàn
toàn/tuyệt đối trong tiếng Việt và tiếng Anh, còn chuyển loại tương đối chỉ được đề
cập đến khi cần thiết
Trang 159
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu khảo sát và so sánh đối chiếu từ chuyển loại trong tiếng Việt và tiếng Anh, đồng thời ứng dụng vào việc dạy từ tiếng Việt cho người bản ngữ tiếng Anh và dạy từ tiếng Anh cho người Việt
Vấn đề chuyển loại trong ngôn ngữ là vấn đề đa dạng và phức tạp nên luận văn tập trung nghiên cứu đặc trưng chuyển loại, đặc tính ngữ pháp-ngữ nghĩa chỉ ở một số từ chuyển loại điển hình trong tiếng Việt và tiếng Anh Đồng thời, vấn đề chuyển loại của từ được nghiên cứu ở cấp độ câu vì “Câu là đơn vị cơ bản của lời nói (Benveniste, 1961) Nó là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng trong giao tiếp Về phương diện cấu trúc, nó là phạm vi lớn nhất của những mối quan hệ ngữ pháp chính danh”
4 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi kết hợp nhiều phương pháp khác nhau Từ
những cứ liệu trong các tác phẩm báo chí, văn học cũng như từ các công trình nghiên cứu đáng tin cậy, chúng tôi quan sát, thu thập và lựa chọn lại các câu/phát ngôn có từ chuyển loại Sau đó tiến hành tổng hợp và phân loại những ngữ liệu có được
Phương pháp đối chiếu là phương pháp được dùng chủ yếu để thực hiện luận văn này Việc đối chiếu nhằm cho thấy được sự tương đồng và dị biệt về hiện tượng chuyển loại của hai ngôn ngữ Việt – Anh Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng phương pháp miêu tả để lấy căn cứ cho việc đối chiếu, so sánh Việc miêu tả và đối chiếu cố gắng đảm bảo tính khách quan và nhất quán Cuối cùng là phương pháp phân tích và quy nạp cũng được sử dụng để xác định các kiểu loại, các cấu trúc chuyển loại tiêu biểu
5 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
5.1 Ý nghĩa khoa học
- Luận văn khảo sát một cách hệ thống, toàn diện về hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt và tiếng Anh
Trang 165.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Trong dạy tiếng: luận văn là tài liệu tham khảo nhằm phục vụ cho việc dạy
và học tiếng Việt cho học viên bản ngữ tiếng Anh và ngược lại; giúp cho người học cũng như người dạy có thể nhận diện, hiểu rõ đặc trưng ngữ pháp- ngữ nghĩa của từ chuyển loại và vận dụng chúng vào việc giảng dạy và học tập của mình; giúp cho người học gia tăng vốn từ cũng như vận dụng chúng một cách hiệu quả Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để giải thích các hiện tượng ngữ nghĩa “hàm ẩn” và để hiểu được cái “hồn” của ngôn ngữ văn chương, nhất là các truyện cười, chơi chữ, châm biếm,… cho người học tiếng (hoặc cho cả người bản ngữ)
- Trong dịch thuật: luận văn là tài liệu tham khảo cho công tác dịch thuật; giúp cho người dịch nắm bắt nhanh chóng ngữ nghĩa của từ chuyển loại; góp phần vào việc chuyển dịch được nhanh chóng và chính xác
6 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn gồm bốn chương sau:
Chương 1 trình bày vấn đề lý thuyết có có liên quan đến hiện tượng chuyển
loại trong tiếng Việt và tiếng Anh như vấn đề phân định từ loại, sự tương đồng và khác biệt giữa hiện tượng chuyển loại với hiện tượng đa nghĩa và đồng âm, chuyển
loại tuyệt đối và chuyển loại tương đối, hướng chuyển loại
Chương 2 miêu tả và phân loại hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt với
các loại chính: chuyển loại giữa hai thực từ, chuyển loại giữa thực từ và hư từ
chuyển loại giữa hai hư từ để làm cơ sở cho việc đối chiếu hiện tượng chuyển loại
trong tiếng Việt và tiếng Anh ở chương 4
Trang 1711
Chương 3 miêu tả và phân loại hiện tượng chuyển loại trong tiếng Anh với
các loại chính: chuyển loại giữa hai thực từ, chuyển loại giữa thực từ và hư từ,
chuyển loại giữa hai hư từ để làm cơ sở cho việc đối chiếu hiện tượng này trong
tiếng Việt và tiếng Anh ở chương 4
Chương 4 đối chiếu sự tương đồng và dị biệt của các loại chuyển loại giữa
tiếng Việt và tiếng Anh, đưa ra các phương thức cần thiết để hiểu và vận dụng hiện tượng chuyển loại trong ngôn ngữ, đồng thời đưa ra một số thủ pháp hỗ trợ cho việc giảng dạy và dịch thuật từ chuyển loại
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Trang 18CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Vấn đề phân định từ loại
1.1.1 Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt
Vấn đề phân định từ loại tiếng Việt đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu
về Việt ngữ học Có hai quan điểm về phạm trù từ loại trong tiếng Việt: thừa nhận và phủ nhận phạm trù này
1.1.1.1 Quan điểm phủ nhận phạm trù từ loại
Xuất phát từ quan điểm hình thái học và ngữ pháp (thuần tuý) một số học giả phủ nhận sự có mặt của phạm trù từ loại trong tiếng Việt Theo các học giả này, trong tiếng Việt - một ngôn ngữ đơn lập điển hình, từ không biến đổi hình thái, do đó không thể phân chia từ loại một cách chính xác, nên không có từ loại
Grammont và Lê Quang Trinh (1911) cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết không có từ loại, không có danh từ, động từ, số nhiều, giống đực, giống cái Từ có thể thuộc vào bất kỳ từ loại nào Căn cứ vào sự không biến hình và cách dùng linh hoạt của từ tiếng Việt, họ cho rằng “tiếng Việt chỉ có từ không thôi, nhất loạt là đơn âm tiết (…) Ý
nghĩa cơ bản của chúng là do những từ đặt trước hay đặt sau mà có… Ví dụ, từ xe vừa là
động từ, vừa là tính từ, vừa là danh từ, v.v ” (M Grammont và Lê Quang Trinh, 1911 –
1912 : 201 – 202)
Nghĩa của một từ phụ thuộc vào những ngữ cảnh cụ thể trong câu, nghĩa là tuỳ thuộc vào vị trí trong câu mà có tính chất (thuộc tính) nhất định, một từ có thể có nhiều thuộc tính khác nhau Bulteau (1953) đã viết như sau: “Vị trí của của một từ trong câu xác định giá trị và chức năng của nó Tùy theo vị trí trong câu, một từ có thể làm danh từ, tĩnh
từ, động từ, đại từ, trạng từ, hay giới từ, v.v ”1 Quan niệm này dẫn đến chỗ phủ nhận
phạm trù từ loại trong các loại hình ngôn ngữ đơn lập, cho rằng “từ vô định loại”, một từ
có thể đồng thời thuộc các từ loại khác nhau
1.1.1.2 Quan điểm thừa nhận phạm trù từ loại
1 Bulteau R (1953), Cours d’annamite (Langue vietnamienne), Paris, Larose, 4e édition, (dt Danh Thành
Do-Hurinville, 2011)
Trang 19Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thừa nhận trong tiếng Việt có phạm trù từ loại, tuy vậy tiêu chí và kết quả phân định từ loại của các nhà nghiên cứu này không hoàn toàn giống nhau
Nhìn chung có ba cách tiếp cận chính về việc phân định từ loại trong tiếng Việt
như trình bày dưới đây
i) Cách tiếp cận truyền thống (thuần túy ý nghĩa khái quát)
Đại diện cho cách tiếp cận truyền thống (chủ trương phân định từ loại tiếng Việt dựa vào tiêu chuẩn ý nghĩa) là các tác giả Alexandre de Rhodes (1651), Gabriel Aubaret (1863), Trương Vĩnh Ký (1883), Bùi Đức Tịnh (1952) v.v Theo đó, từ tiếng Việt được phân chia thành hai nhóm lớn là thực từ (biểu hiện ý nghĩa từ vựng) và hư từ (biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp), mỗi nhóm bao gồm nhiều từ loại khác nhau, mà “mỗi loại trong các từ ngữ ấy đều có ý nghĩa riêng biệt, không thể lẫn lộn ” và “muốn sắp một từ ngữ thuộc về loại nào ( ) cần phải biết rõ ý nghĩa của nó” (Bùi Đức Tịnh, 1952 : 274)
Hướng phân định từ loại dựa vào ý nghĩa đã cho thấy những nét khác biệt cơ bản giữa các từ loại Tuy nhiên, do không có tiêu chí rõ ràng phân biệt ý nghĩa từ vựng với ý nghĩa ngữ pháp, chỉ quy ý nghĩa từ vựng về ba phạm trù ý nghĩa khái quát là “sự vật”,
“hành động”, “tính chất”, nên hầu hết các tác giả theo quan điểm này chỉ giới hạn thực từ trong ba từ loại chính là danh từ, động từ, tính từ; đồng thời cho rằng các từ loại như số từ, đại từ hay một số phó từ (trạng từ) không thuộc thực từ Chẳng hạn, Bùi Đức Tịnh đã coi
“từ loại mệnh danh” (thực từ) chỉ bao gồm danh từ, động từ và tính từ, còn các từ như một, hai, ba (số từ) , ào ào, lác đác, thoắt, lâu, nay, mai, sau, trước (phó từ) , tôi, họ, ai, gì,
mà, đấy, kia (đại từ) không được coi là các “từ loại mệnh danh”, mặc dù xét về mặt ý
nghĩa thì nhiều từ trong số đó cũng có ý nghĩa “thực” không khác gì danh từ, động từ hay tính từ Sự bất cập của cách phân định từ loại theo hướng này còn bộc lộ cả ở việc phân chia “ranh giới” giữa danh từ, động từ và tính từ: danh từ chỉ đơn thuần là từ “chỉ sự vật”, động từ là từ “chỉ hành động”, và tính từ là từ chỉ “chỉ tính chất”
Cách phân loại trên nhìn chung là đúng với phần lớn các danh từ, động từ và tính từ của tiếng Việt, nhưng lại không bao quát hết một số lượng lớn các từ giống nhau về ý nghĩa khái quát nhưng khác nhau về thái độ ngữ pháp, thường được gọi là “hiện tượng chuyển loại”
Trang 20ii) Cách tiếp cận theo chức vụ cú pháp/khả năng kết hợp (cách tiếp cận cấu trúc)
Một số tác giả lại phân định từ loại dựa vào chức vụ cú pháp và/hoặc khả năng kết hợp của từ Lê Cẩm Hy, Phan Khôi (1954), theo thuyết “Cú bản vị”, cho rằng phải “tuỳ vào vị trí và chức vụ của từng từ mà quy nhập nó vào loại nào” (Phan Khôi, 1954/88: 188), tức là lấy chức vụ cú pháp làm tiêu chuẩn duy nhất để phân định từ loại Điều này dẫn đến việc khó phân biệt các từ loại giống nhau về chức vụ cú pháp, chẳng hạn khó phân biệt danh từ với đại từ (cùng có khả năng làm chủ ngữ và bổ ngữ) hay khó phân biệt động
từ với tính từ (cùng có khả năng làm vị ngữ và định ngữ)
Khác với Phan Khôi, dưới ảnh hưởng của phân bố luận, Lê Văn Lý (1948) lại chủ trương dựa vào khả năng kết hợp, mà cụ thể là sự có mặt hay vắng mặt của các “từ chứng”/“chứng tự” để phân định từ loại tiếng Việt Lê Văn Lý (1968) sử dụng những từ này để phân loại từ tiếng Việt và phân chia các từ tiếng Việt thành sáu loại: A (danh tự), b (động tự), b’ (tính tự), c1 (ngôi tự), c2 (số tự), c3 (phụ tự) Theo tác giả, danh tự và động tự tương phản nhau, vì thế những chứng tự nào phối hợp được với danh tự thì sẽ không phối hợp được với động tự, và ngược lại những chứng tự nào phối hợp được với động tự thì sẽ không phối hợp được với danh tự Tuy nhiên, có những “chứng tự” có thể phối hợp được
với cả hai loại từ này: chẳng hạn “chứng tự” lắm và nhiều có thể kết hợp với danh tự (lắm tình, nhiều tiền), hoặc với động tự (đi lắm, làm nhiều)
Thủ pháp này đã được Nguyễn Tài Cẩn (1960, 1975), và sau đó là Nguyễn Phú Phong (1973) và Lưu Vân Lăng (1988) tiếp thu và phát triển thành nguyên tắc phân định
từ loại theo mô hình kết cấu đoản ngữ, tức là dựa vào khả năng làm thành tố của đoản ngữ cũng như khả năng kết hợp với kiểu trung tâm hay thành tố phụ nhất định để phân định từ tiếng Việt
Ưu điểm chung của cách phân định từ loại “dựa vào đoản ngữ” là khách quan và rõ ràng, nhưng không phải là không còn những điểm đáng bàn Theo Nguyễn Hồng Cổn (2003), có thể thấy rằng nếu “dựa vào đoản ngữ” để đưa đại từ (và cả số từ) vào cùng nhóm với danh từ, động từ và tính từ là có phần khiên cưỡng, bởi vì khả năng làm trung tâm đoản ngữ của đại từ (và số từ) cũng như số luợng các thành tố phụ có khả năng kết
hợp với chúng rất hạn chế (chỉ có một vài trường hợp như hai chúng tôi, độ/chỉ/vẫn ba )
Hơn nữa, nếu “so sánh trường hợp chúng đứng làm trung tâm với trường hợp chúng đứng
Trang 21làm thành tố phụ bên cạnh một trung tâm thì rõ ràng trường hợp sau chiếm mức độ phổ biến hơn nhiều” [7 : 335] Chính vì vậy, ngay cả Nguyễn Tài Cẩn khi xếp các từ loại này vào nhóm A cùng với danh từ, động từ và tính từ cũng cho rằng làm như vậy chỉ là “luận
về khả năng tiềm tàng của chúng - khả năng đứng làm trung tâm danh ngữ - chứ xét trong thực tiễn câu văn thì chúng lại khác danh từ, động từ và tính từ một cách rõ rệt” [7 : 335], còn Lưu Vân Lăng (1998) thì dứt khoát gạt số từ sang nhóm từ loại “không có khả năng làm trung tâm của ngữ” Chính vì vậy, ngay từ khi đề xuất tiêu chuẩn phân định từ loại
“dựa vào đoản ngữ”, Nguyễn Tài Cẩn cũng đã lưu ý đến sự cần thiết phải kết hợp nó với tiêu chuẩn “dựa vào mệnh đề”, tức là khả năng làm chủ tố và vị tố của từ trong câu
Hai tiêu chí chủ yếu là “khả năng kết hợp” của từ trong đoản ngữ và “chức vụ cú pháp” của từ trong câu (hay tiêu chí “dựa vào đoản ngữ” và “dựa vào mệnh đề” theo quan niệm của Nguyễn Tài Cẩn) tỏ ra thích hợp với tiếng Việt - một ngôn ngữ không biến hình, khi phân định từ loại về phương diện ngữ pháp Nguyễn Tài Cẩn lưu ý rằng chỉ căn cứ theo tiêu chuẩn “dựa vào đoản ngữ” (tức là dựa vào khả năng làm chính tố hay phụ tố trong đoản ngữ) thì chưa đủ mà phải bổ sung cả tiêu chuẩn “dựa vào mệnh đề” (tức là dựa vào khả năng làm chủ tố và vị tố của mệnh đề) [7 : 307] Còn khi xem xét hai tiêu chí trên
để phân định từ loại, Đinh Văn Đức nhận thấy cho đến nay “các tài liệu vẫn miêu tả khả năng kết hợp như một tiêu chí cấu trúc thuần tuý, tách quan hệ ngữ đoạn ra khỏi chức vụ
cú pháp, đối lập cấu trúc với chức năng” mà quên mất rằng cái giá trị kết hợp các yếu tố trong đoản ngữ và cái giá trị cú pháp của từ (chẳng hạn giá trị “vị ngữ tính” của động từ trung tâm) là thống nhất với nhau Từ đó, tác giả cho rằng trong việc phân định và mô tả từ loại tiếng Việt cần phải “tìm lại những mối liên hệ mà nhờ đó thống nhất được cả hai diện
quen thuộc gọi là khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp ở các từ loại tiếng Việt” Cái cơ sở cho sự thống nhất đó, theo tác giả, có thể tìm thấy ở ngữ trị với tư cách là “cái giá trị ngữ
pháp thống nhất từ các kết hợp có trật tự và các vai diễn có tính chức năng đặc trưng cho mỗi từ loại ( ) được xác lập trong ngôn liệu bởi hình thức của những trật tự ngữ đoạn và
chức vụ cú pháp”, hay là sự thống nhất giữa hai loại giá trị ngữ pháp của từ loại là kết trị -
Trang 22giá trị ngữ pháp thường xuyên có tính hằng thể, và diễn trị - giá trị ngữ pháp lâm thời có
tính chức năng (Đinh Văn Đức 1986: 251-258).2
Để góp phần giải quyết vấn đề này, trên cơ sở kế thừa tư tưởng của nhiều nhà nghiên cứu đi trước với quan niệm coi phân định từ loại là phân chia từ về mặt ngữ pháp, Nguyễn Hồng Cổn (2003) đề xuất một hướng phân định từ loại mới, có điều chỉnh phần nào các tiêu chuẩn dựa vào “chức vụ cú pháp” (hay mệnh đề) và “khả năng kết hợp” (hay đoản ngữ) Tác giả cho rằng có thể điều chỉnh nội dung của hai tiêu chuẩn này để phân định từ loại tiếng Việt thông qua việc phân tích các chức năng hay giá trị ngữ pháp (diễn trị và kết trị) của chúng trong việc tham gia cấu tạo và biểu hiện cấu trúc-ngữ nghĩa của
mệnh đề với tư cách là một cấu trúc “đối -vị tố” của phát ngôn Từ đó, Nguyễn Hồng Cổn đưa ra hệ thống từ loại tiếng Việt gồm ba nhóm: 1 Nhóm A (Thể - Vị từ: có khả năng làm
vị tố và đối tố); 2 Nhóm B (Định - Phó từ: làm phụ tố cùa đối tố và vị tố); 3 Nhóm C (Kết
- Thái từ: không làm thành tố của đối tố và vị tố) Trong đó, thể từ (làm đối tố) gồm danh
từ và đại từ; vị từ (làm vị tố) gồm động từ và tính từ; định từ (phụ cho đối tố) gồm lượng
từ và chỉ từ; phó từ (phụ cho vị tố) gồm tiền phó từ và hậu phó từ; kết từ (dùng liên kết) gồm giới từ và liên từ; thái từ (biểu thị sắc thái, tình cảm) gồm trợ từ và tiểu từ
iii) Cách tiếp cận theo ngữ nghĩa và ngữ pháp (từ vựng–ngữ pháp)
Theo quan niệm coi từ loại là một phạm trù từ vựng-ngữ pháp, nhiều nhà Việt ngữ học (Hoàng Tuệ 1962, Nguyễn Kim Thản 1963, UBKHXH 1983, Đinh Văn Đức 1986, )
đã tiến hành phân định từ loại tiếng Việt dựa trên sự kết hợp cả hai tiêu chí nội dung và hình thức Các tác giả theo khuynh hướng này kế thừa quan niệm phân định từ loại truyền thống (dựa vào ý nghĩa khái quát); và đồng thời cũng vận dụng các tiêu chuẩn ngữ pháp (khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp) để làm cho hệ thống phân loại khách quan và rõ ràng hơn Tuy nhiên, khi vận dụng các tiêu chuẩn này để phân định từ loại, các tác giả đã kết hợp chúng không theo một trình tự ưu tiên nào Hệ quả là, một từ loại có thể thoả đáng
ở tiêu chí này nhưng lại bất cập ở tiêu chí khác, và việc đưa nó vào nhóm nào nhiều khi vẫn phụ thuộc vào ý định chủ quan của nhà nghiên cứu, chẳng hạn như đối với đại từ và số
từ Nếu dựa vào tiêu chuẩn ý nghĩa thì đại từ không thuộc thực từ vì nó không có ý nghĩa
2 dt Nguyễn Hồng Cổn (2003), “Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 2
Trang 23từ vựng mà chỉ có chức năng chỉ xuất, nhưng nếu dựa vào tiêu chuẩn ngữ pháp (chức vụ
cú pháp) thì có thể quy nó vào cùng nhóm với danh từ
Vì vậy, mặc dù thống nhất về tiêu chí phân loại nhưng trong khi nhiều người coi đại
từ là một từ loại trung gian giữa thực từ và hư từ (UBKHXH 1983, Đinh Văn Đức 1986,
Lê Biên 1993, Diệp Quang Ban 1998), thì một số người coi đại từ là thực từ (Nguyễn Kim Thản 1963), thậm chí là một tiểu loại của danh từ (Lê Cận - Phan Thiều 1983), còn một số
khác lại xếp đại từ vào nhóm hư từ (Đào Thanh Lan 1998) Tương tự, các số từ một, hai, ba, nếu xét về nghĩa thì hoàn toàn giống như thực từ, nhưng nếu xét về đặc điểm ngữ pháp (khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp) lại giống với những, các - các từ chỉ số nhiều, thường được coi là hư từ Do sự nhập nhằng này nên trong khi nhiều tác giả coi một, hai, ba, là thực từ, những, các là hư từ (Đinh Văn Đức 1986, Lê Biên 1996, Diệp Quang Ban
1998), thì cũng có tác giả quy cả vào thực từ với tên gọi là “danh từ số luợng” [53 : 78], dù rằng trên thực tế các tác giả đều vận dụng cả hai tiêu chuẩn ý nghĩa và hình thức để phân định từ loại3
Những trình bày nêu trên cho thấy cả ba hướng phân định từ loại tiếng Việt, bên cạnh những ưu điểm, còn có điểm bất cập cả về tiêu chuẩn, cũng như kết quả phân loại Nhìn chung, số lượng từ loại trong tiếng Việt được các tác giả phân định như sau:
Trương Vĩnh Ký (1883) đã phân biệt tám loại từ trong tiếng Việt: danh từ (noun), tính từ (adjective), đại từ (pronoun), động từ (verb), trạng từ (adverb), giới từ (preposition), liên từ (conjunction) và thán từ (interjection)4
Theo cách tiếp cận ngữ pháp và ngữ nghĩa, Lê Biên (1999) cũng phân biệt tiếng Việt ra làm hai loại từ lớn là thực từ và hư từ, bao gồm chín tiểu loại Thực từ gồm danh từ, động từ và tính từ; hư từ gồm phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ; số từ và đại từ không thuộc thực từ nhưng gần với thực từ; thán từ thì gần với hư từ
Nguyễn Kim Thản (1997) đã nâng số loại từ trong tiếng Việt lên thành mười hai: danh từ, thời vị từ, số từ, động từ, tính từ, đại từ, phó từ, giới từ, liên từ, hệ từ, trợ từ, thán
từ [40]
3 dt Nguyễn Hồng Cổn (2003), “Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ số 2
4 Trươnng Vĩnh Ký (1883), Grammaire de la langue annamite, Sài Gòn, Guillaud et Martinon (dt Danh Thành Hurinville, 2011)
Trang 24Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (2002), từ loại tiếng Việt được chia thành tám tiểu
loại: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, phụ từ, kết từ, trợ từ, cảm từ Danh từ, động từ và
tính từ thuộc thực từ; phụ từ và kết từ thuộc hư từ; đại từ không thuộc thực từ nhưng gần
với thực từ; trợ từ và cảm từ không thuộc thực từ lẫn hư từ và cũng khác với đại từ [50 :
84-92]
Nguyễn Hồng Cổn (2003), phân định từ loại tiếng Việt thành sáu loại lớn (thể từ,
vị từ, định từ, phó từ, kết từ và thái từ), bao gồm 12 tiểu loại (danh từ, đại từ, động từ, tính
từ, luợng từ, chỉ từ, tiền phó từ, hậu phó từ, giới từ, liên từ, trợ từ, tiểu từ)
Diệp Quang Ban (2005) phân biệt chín loại từ: danh từ, số từ, động từ, tính từ, đại
từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ, thán từ Trong đó, bốn từ loại đầu thuộc về lớp thực từ,
đại từ là lớp trung gian, còn bốn loại từ sau thuộc lớp hư từ
Từ điển tiếng Việt (2007) phân định tám từ loại: danh từ, động từ, tính từ, đại từ,
phụ từ, kết từ, trợ từ, cảm từ
1.1.2 Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Anh
Theo truyền thống ngôn ngữ học châu Âu, phạm trù từ loại (part of
speech/word-class/form-class) dùng chỉ việc phân loại ngữ pháp cho từ Từ loại được phần lớn các nhà
ngữ pháp nhà trường thừa nhận, có nguồn gốc từ công trình của các nhà ngữ pháp cổ Hy
Lạp và Roma; chủ yếu là danh từ, đại từ, động từ, trạng từ, tính từ, giới từ, liên từ và thán
từ, cùng với mạo từ, tiểu từ và một số loại từ khác được thêm vào Vì các thuật ngữ theo
truyền thống này không được xác định một cách rõ ràng (chẳng hạn như việc sử dụng tiêu
chí, khái niệm không rõ và tính giới hạn của định nghĩa về chúng (chỉ phản ánh đặc tính
của tiếng Latin, Hy Lạp)), nên các nhà ngôn ngữ học có khuynh hướng thích dùng những
thuật ngữ như word-class hoặc form-class để chỉ từ loại hơn, và việc phân loại dựa vào
tiêu chí hình thức hơn là đặc tính ứng dụng mang tính phổ quát
Như vậy, phạm trù từ loại vốn bắt nguồn từ việc phân tích câu ra thành các thành
phần, hay nói đúng hơn là phân tích các từ trong câu (chứ không phải từ vốn từ vựng) ra
thành các lớp dựa vào chức năng hoặc đặc điểm hình thái của chúng (x Halliday 1985:
31) Ngày nay, xu huớng chung của ngữ pháp học hiện đại là coi phạm trù từ loại như một
phạm trù ngữ pháp mang tính đặc thù của mỗi ngôn ngữ, được xác định dựa trên các tiêu
Trang 25Bổ nghĩa (nói rõ thêm) cho danh từ a good worker, the heroic, Vietnamese
people, my first lesson, some new books, those two houses are large
4 Động từ
(Verb)
Chỉ hành động hoặc trạng thái We are learning English
The enemy was defeated
5 Phó từ
(Adverb)
Bổ nghĩa cho động từ, tính từ hoặc phó từ khác
They work very hard
He came here yesterday
It was too late
You and I He is poor but honest
He will come if you ask him
8 Thán từ
(Interjection)
Diễn tả cảm xúc, tình cảm đột ngột, bất ngờ,…
Oh!, Ah!, Hello!, Alas!
9 Định từ
(Determiner)
Thường được đặt trước các danh từ xác định để chỉ người, sự việc, sự vật cụ thể
The man began to run towards the boys
Her face was red
Trang 26Cần chú ý là cũng có một số nhà ngữ pháp ửng hộ quan niệm tiếng Anh có 8 từ loại (cũng giống như trên nhưng gộp định từ vào tính từ) Nghĩa là tính từ gồm nhiều loại, kể
cả mạo từ (article) và số từ (numeral)
Cách xếp loại trên đây căn cứ vào chức năng ngữ pháp mà một từ đảm nhiệm trong câu Vì thế, có rất nhiều từ đảm nhiệm nhiều loại chức năng khác nhau và do đó, có thể được xếp vào nhiều từ loại khác nhau Quan sát các ví dụ dưới đây:
(1) I’ll buy you a round of beer (Tôi sẽ khao anh một chầu bia)
(2) The house disappeared from sight as we rounded the corner
(Ngôi nhà khuất tầm nhìn khi chúng tôi đi vòng quanh góc phố)
(3) She has big, black and round eyes (Cô có đôi mắt to, đen tròn.)
(4) The goldfish swam round and round in their bowls
(Con cá vàng bơi vòng vòng trong nồi của họ)
(5) They was sitting round the kitchen table
(Họ đang ngồi quanh bàn ăn)
Ở các ví dụ trên, round là danh từ, động từ, tính từ, phó từ (trạng từ) và giới từ, tương ứng với các ví dụ từ (1) đến (5)
1.2 Hiện tượng đồng âm (homonym) và đa nghĩa (polysemy )
Hiện tượng chuyển loại có liên quan mật thiết đến hiện tượng đa nghĩa và đặc biệt là hiện tượng đồng âm Do vậy, việc đề cập hai hiện tương này là cần thiết trước khi nói đến hiện tượng chuyển loại
1.2.1 Từ đồng âm và từ đa nghĩa - những tương đồng và dị biệt
Từ đồng âm là những từ trùng nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa và những nghĩa này được xem là không có liên hệ với nhau
Từ đa nghĩa là từ có nhiều nghĩa khác nhau và những nghĩa này có liên hệ nhau không ít thì nhiều
Nhìn chung, điểm giống nhau giữa hiện tượng đa nghĩa và đồng âm là có sự đồng nhất ở cái biểu đạt Mặt được biểu đạt, ở hiện tượng đa nghĩa, là một thể thống nhất, một cấu trúc nghĩa thống nhất, trong đó giữa các nghĩa khác nhau tồn tại một mối liên hệ phái sinh ngữ nghĩa liên tục Ý nghĩa ngữ pháp trong từ đa nghĩa luôn luôn thuần nhất, nghĩa là
Trang 27thuộc cùng một phạm trù từ loại Còn ở hiện tượng đồng âm thì ý nghĩa từ vựng bao giờ cũng khác nhau và hoàn toàn không có mối liên hệ nào với nhau và ý nghĩa ngữ pháp có thể đồng nhất hoặc khác biệt
Thực ra, chưa có một tiêu chí nào đủ mạnh để phân biệt hiện tượng đồng âm với đa nghĩa một cách hoàn toàn chính xác Về đại thể, hiện tượng từ đa nghĩa là những trường hợp mà cơ chế chuyển nghĩa của từ có thể dễ dàng lý giải được, và ngược lại, những trường hợp không thể lý giải được hoặc sự lý giải chưa đạt đủ sự rõ ràng và sức thuyết phục thì được xem là hiện tượng đồng âm của từ
Một điều cần chú ý là không có một ranh giới rõ ràng giữa tính đa nghĩa, đồng âm và
ẩn dụ của từ: “Today’s metaphor maybe tomorrow’s polysemy or hononymy” (Hiện tại là
ẩn dụ nhưng tương lai có thể đa nghĩa hay đồng âm) (Hirst, 1992)5
1.2.2 Các kiểu loại đồng âm
Từ đồng âm có thể được phân định theo các loại sau và việc phân loại chỉ là tương đối
Đối với tiếng Anh, từ đồng âm có các loại:
- Đồng âm đồng tự (homonym): coper (anh lái ngựa) - coper (quán rượu nổi), jet (màu đen hạt huyền) - jet (tia nước, tia máu,…)
Đồng âm dị tự (homophone): son (con trai) sun (mặt trời); meat (thịt) meet (gặp) Đây là loại đồng âm phổ biến nhất trong tiếng Anh
Đồng tự dị âm (homograph): tear ([tεə]) (xé, bứt mạnh) tear ([tiə]) (nước mắt)
Đối với tiếng Việt, từ đồng âm có các loại:
- Đồng âm từ với từ: các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm đều thuộc cấp độ từ
Loại này lại được chia thành hai loại nhỏ hơn: đồng âm từ vựng và đồng âm từ vựng-ngữ pháp Ở đồng âm từ vựng, các từ thuộc cùng một từ loại, chẳng hạn:
đường 1 (đắp đường) - đường 2 (đường phèn), hoặc cất 1 (cất vó) - cất 2 (cất tiền vào tủ) - cất 3 (cất hàng) - cất 4 (cất rượu),… Ở đồng âm từ vựng-ngữ pháp, các từ khác nhau về từ loại, chẳng hạn: chỉ 1 (cuộn chỉ) - chỉ 2 (chỉ tay năm ngón) - chỉ 3 (chỉ còn
5 dt Trần Thủy Vịnh (2008), tr 78-79
Trang 28có dăm đồng); câu 1 (nói vài câu) - câu 2 (rau câu) - câu 3 (chim câu) - câu 4 (câu cá) Loại đồng âm này chiếm số đông trong tiếng Việt
- Đồng âm từ với tiếng: các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm khác nhau về cấp
độ, và kích thước ngữ âm của chúng đều không vượt quá một tiếng Ví dụ:
(6) Nhà cửa để lầm than con thơ trẻ lấy ai rèn cặp
Cơ đồ đành bỏ bễ vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi (Viếng người thợ rèn - Nguyễn Khuyến)
Tương truyền, Nguyễn Khuyến đã làm hai vế đối này khi viếng một người thợ rèn láng giềng chết trẻ, để lại vợ trẻ con thơ Ở hai vế đối này, nhà thơ đã dùng những từ/tiếng
đồng âm đan xen nhau (Chú ý là than, rèn, cặp, bễ, đe, loi… là những dụng cụ cần thiết
trong nghề thợ rèn)
Tiếng Anh cũng đồng âm từ vựng và đồng âm từ vựng-ngữ pháp nhưng không có kiểu “đồng âm từ với tiếng” như trong tiếng Việt nêu trên
1.2.3 Từ đồng âm - những khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh
Do đặc điểm ngôn ngữ khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng Anh mà hiện tượng đồng
âm của chúng có sự khác biệt như sau:
- Hiện tượng từ đồng âm ở tiếng Việt nhiều hơn tiếng Anh vì tiếng Việt là ngôn ngữ
âm tiết tính còn tiếng Anh là một ngôn ngữ đa âm tiết Sở dĩ như vậy là vì hiện tượng đồng
âm thường xảy ra ở đơn vị từ ngắn, có cấu trúc đơn giản, bởi ở đó tính võ đoán cao, dễ dàng chứa đựng những khái niệm khác nhau; còn vỏ ngữ âm của từ càng dài, cấu trúc càng phức tạp (gồm nhiều hình vị kết hợp lại với nhau) thì tính võ đoán càng giảm bớt, do đó hiện tượng đồng âm cũng khó xảy ra hơn Điều này cũng dễ dàng nhìn thấy qua khảo sát
2.450 từ đồng âm tiếng Anh (trong cuốn The Oxford English Dictionary), có đến 89% là
các từ đơn tiết 6
- Vì tiếng Việt không biến hình nên những từ nào đồng âm với nhau thì luôn luôn đồng âm trong tất cả mọi bối cảnh được sử dụng, không có hiện tượng đồng âm ở một dạng thức biến đổi nào đó của từ Còn tiếng Anh là một ngôn ngữ biến hình nên từ trong tiếng Anh có thể đồng âm ở dạng thức này mà lại không đồng âm ở dạng thức khác
Chẳng hạn như động từ row (chèo) nguyên dạng đồng âm với danh từ row (dãy, hàng),
6 dt Hoàng Văn Hành et al (2001)
Trang 29row (sự cãi nhau) hay roe (buồng trứng); nhưng dạng thức quá khứ rowed của nó thì lại đồng âm với road (con đường) hay rode (cưỡi - dạng quá khứ của động từ ride)
- Tiếng Việt không có sự đối lập gốc từ với phụ tố (các từ được tạo nên chủ yếu bằng
sự kết hợp tiếng với tiếng) nên đồng âm giữa từ với từ là kết quả của đồng âm tiếng với tiếng Điều này được triệt để khai thác khi người Việt sử dụng đồng âm trong nghệ thuật chơi chữ của mình
- Tiếng Việt không có những từ đồng tự dị âm (homograph) cùng chữ viết nhưng phát âm khác nhau (ngoại trừ những phát âm địa phương) Kể cả trường hợp sau đây cũng
không coi là đồng tự (dấu thanh đánh vào hai chỗ khác nhau): giặt gịa và giạ lúa Còn tiếng Anh có những từ loại này như từ lead nếu phát âm là [led] thì có nghĩa là chì, than chì và nếu phát âm là [li:d] thì có nghĩa là lãnh đạo, hướng dẫn
- Trong tiếng Anh, từ đồng âm (homonym) là từ đồng hình/đồng tự dị âm (homograph), trên chữ viết giống nhau nhưng có thể có phát âm khác nhau và có nghĩa
khác nhau Chẳng hạn, nguyên âm trong từ row được phát âm khác nhau hai nghĩa khác biệt của nó là sự sắp hàng hoặc cuộc cãi nhau Trong ngôn ngữ nói, loại đồng âm được
quan tâm nhiều là đồng âm dị tự (homophone) – là những từ được phát âm như nhau
nhưng có chữ viết khác nhau như four và fore hoặc to, too và two
1.3 Hiện tượng chuyển loại (conversion/ zero derivation)
1.3.1 Định nghĩa
Có nhiều định nghĩa về hiện tượng (hoặc từ) chuyển loại, từ đơn giản đến phức tạp, chẳng hạn:
- Hiện tượng chuyển loại là hiện tượng chuyển di “các từ từ loại này sang từ loại khác
mà không thay đổi vỏ âm thanh của chúng” [22 : 144]
- Hiện tượng chuyển loại là hiện tượng “một từ vốn thuộc từ loại này rồi sau chuyển
sang từ loại khác và được dùng theo nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ loại này hay từ loại kia” [53 : 92]
- Chuyển loại là hiện tượng những từ có thể được dùng theo nghĩa và theo đặc điểm ngữ pháp của từ loại này trong một trường hợp nhất định và cũng có thể được dùng theo nghĩa và theo đặc điểm ngữ pháp của từ loại khác trong một trường hợp khác [50 : 115]
Trang 301.3.2 Quan niệm về hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt
Trong nghiên cứu tiếng Việt, đặc biệt là khi phân định từ loại, các nhà Việt ngữ học đều nhận thấy rằng có một số từ mang đặc trưng hỗn hợp của các từ loại khác nhau8 Các nhà nghiên cứu gán cho hiện tượng này nhiều tên gọi khác nhau: hiện tượng chuyển loại, hiện tượng đồng âm cùng gốc khác loại, hiện tượng nhất từ đa loại, Và tất nhiên, cách lý giải hiện tượng này cũng không hoàn toàn giống nhau
Nhìn chung, các quan điểm và hướng xử lý hiện tượng một số từ có đặc trưng của các từ loại khác nhau được các nhà Việt ngữ học đưa ra như sau:
1 Quan điểm 1: cho rằng đây là một từ được sử dụng ở những chức năng khác nhau;
2 Quan điểm 2: cho rằng đây là những từ đa nghĩa;
3 Quan điểm 3: cho rằng đây là những từ đồng âm khác nhau;
4 Quan điểm 4: cho rằng đây là những từ chuyển loại khác nhau, có đặc tính khác với từ đồng âm và đa nghĩa
Về quan niệm 1, có các nhà nghiên cứu sau:
Bùi Đức Tịnh đã đề cập đến khả năng chuyển đổi các từ loại này sang từ loại khác, nhưng ông lại thay khái niệm từ loại bằng khái niệm về các chức vụ cú pháp Ông cho
rằng, từ dân tộc là một danh từ làm chức năng định ngữ trong quan hệ với một danh từ khác (vd., tinh thần dân tộc) lại trở thành tính từ [48 : 133] Nghĩa là, theo Bùi Đức Tịnh,
7 dt Nguyễn Thái Ân (2007)
8 Theo thống kê của Bystrôv (1966, tr 38) trong 40 nghìn từ tiếng Việt chỉ có khoảng 200 từ có đặc trưng hỗn hợp của các từ loại [23 : 143-184]
Trang 31mỗi từ tiếng Việt đều thuộc về một từ loại căn bản và tùy trường hợp sử dụng (dựa vào ý nghĩa và chức năng ngữ pháp) mà từ loại căn bản của một từ nào đó có thể biến đổi sang một từ loại khác [48 : 39-40]
Tương tự, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm cũng thừa nhận có hiện tượng chuyển loại khi một từ được sử dụng trong những ngữ cảnh khác nhau9 Lê Văn Lý khẳng định một từ cùng một lúc không thể thuộc về nhiều từ loại, nhưng lần lượt trong những ngữ cảnh khác nhau thì từ đó có thể thuộc về nhiều từ loại khác nhau [35 : 53]
Nguyễn Hiến Lê cũng cho rằng phần lớn vốn từ tiếng Việt không có từ loại nhất định: có nhiều từ thay đổi từ loại theo vị trí của nó trong câu nên bất kỳ một danh từ, động
từ, tính từ nào cũng có thể chuyển loại được [34 : 28]
Quan niệm này cho thấy việc lẫn lộn giữa tính phụ thuộc các từ này vào một từ loại nào đó với vấn đề các chức năng cú pháp khác nhau của chúng
Về quan niệm 2, có các nhà nghiên cứu sau:
Nguyễn Ngọc Trâm cho rằng đây là các từ đa nghĩa vì tuy có chuyển loại và có một nghĩa mới nhưng vẫn còn thấy rất rõ sự chuyển nghĩa, đồng thời sự thay đổi ý nghĩa ngữ pháp sẽ dẫn đến sự thay đổi về mặt chức năng ngữ pháp của từ [51 : 141, 241], hoặc xuất phát chủ yếu từ góc độ ngữ nghĩa nên những từ có quan hệ nghĩa rất rõ nhưng khác nhau
về từ loại sẽ là từ đa nghĩa [51 : 171] Các nhà biên soạn từ điển tiếng Việt như Hoàng Phê (2007), Thanh Nghị (1958) và Nguyễn Như Ý (1996) dường như cũng xem từ chuyển loại
là từ đa nghĩa khi xếp chung những đơn vị đồng âm có mối quan hệ ngữ nghĩa tương đối
rõ vào trong một mục từ (như từ cày d và cày đg)
Cũng vậy, theo Đỗ Hữu Châu, có những trường hợp trung gian trong cấu tạo từ và giữa các từ loại [8 : 113-114] và hiện tượng đa nghĩa là kết quả của sự chuyển biến ý nghĩa của từ [8 : 569] Vậy hiện tượng đồng âm có thể xem là sự “tới giới hạn” của hiện tượng
đa nghĩa và các trường hợp chuyển loại (giữa các từ loại hay giữa các tiểu loại) là những
Trang 32nghĩa mới phái sinh do chuyển loại đã có khả năng độc lập làm cơ sở tạo nên nghĩa phái sinh khác thì nên tách ra thành hai từ đồng âm, nếu không thoả mãn điều kiện đó thì là từ
đa nghĩa [12 : 194].10
Về quan niệm 3, có các nhà nghiên cứu sau:
Nguyễn Tài Cẩn khẳng định không thể chấp nhận chủ trương một từ có thể thuộc nhiều loại vì sẽ là sai logic phân loại và làm cho kết quả phân loại vô cùng phức tạp Ông chỉ rõ đó là các từ đồng âm và thừa nhận rằng tuy một từ khi dùng ở ý nghĩa này thì khác
xa khả năng kết hợp của nó khi dùng ở ý nghĩa khác nhưng chưa đủ để phá vỡ sự thống nhất trong cùng một từ của hai ý nghĩa [7 : 75-78]
Theo Nguyễn Văn Tu, một từ khi chuyển từ loại sẽ thuộc phạm trù ngữ pháp khác
mà không thay đổi tổ chức của từ và từ đó ở trục dọc này chuyển sang trục dọc khác Vậy
từ chuyển loại được quy định bởi yếu tố từ pháp và yếu tố cú pháp (tức là một hình thức
âm thanh nhưng chứa đựng nội dung khác nhau và có chức năng khác nhau) Song song là hiện tượng biến đổi về nghĩa, thí dụ động từ chuyển loại thành danh từ thì nghĩa đã biến đổi từ hành động sang khái niệm hoặc vật dụng Kết quả là ta sẽ có những từ đồng âm khác nghĩa và đây là những từ đồng âm từ vựng-ngữ pháp tức là những từ đồng âm khác nhau về nghĩa từ vựng lẫn ngữ pháp [52 : 84-87, 144]
Theo Đinh Văn Đức, các từ có đặc trưng hỗn hợp của các từ loại là những từ khác nhau: chúng trùng nhau về hình thức ngữ âm, nên cần phải coi chúng là những từ đồng
âm, nhưng đó là những từ đồng âm ngữ pháp đặc biệt chỉ khác nhau ở các ý nghĩa ngữ pháp (Đinh Văn Đức, 1978 : 41 – 44) 11
Lê Biên cho rằng: “Chuyển loại không phải là hiện tượng đồng âm từ vựng mà là
đồng âm - ngữ pháp (đồng âm cùng gốc) Đây là những từ giống nhau về hình thức ngữ
âm (đồng âm), cùng gốc (xét về nghĩa) mà hiện nay được sử dụng thành hai từ khác nhau
Trang 33Theo Lê Quang Thiêm, chính sự phân ly nghĩa đã làm cho từ chuyển từ loại và trở thành từ đồng âm Nói cách khác kết quả của sự biến đổi ý nghĩa và cách dùng đã dẫn đến chuyển loại [43 : 270-273]
Về quan niệm 4, có các nhà nghiên cứu sau:
Theo Hoàng Văn Hành et al (1998), cách giải thích những từ có các đặc trưng hỗn hợp các từ loại là những từ đồng âm không phải là cách giải quyết hợp lý vấn đề đã đặt ra Mối quan hệ của các ý nghĩa khác nhau tồn tại trong cùng một vỏ âm thanh ở những từ đang xét, có bản chất khác xa quan hệ giữa các từ đồng âm điển hình theo quan niệm
truyền thống, ví dụ giữa đường (ăn) và đường (đi), giữa nước và nước (tổ quốc) trong
tiếng Việt Ở những từ đồng âm này không có một mối quan hệ nào về nội dung ý nghĩa,
sự trùng hợp vỏ âm thanh giữa chúng chỉ là ngẫu nhiên Trong khi đó, các từ có đặc trưng hỗn hợp các từ loại mang những chức năng của các từ loại khác nhau nhưng ý nghĩa của chúng lại có liên hệ chặt chẽ với nhau [23 : 143-184]
Một số nhà Việt ngữ học khẳng định chuyển loại là một phương thức tạo từ do khả năng trừu tượng hóa trong nhận thức và sự biến thiên của mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy, người bản ngữ đã tri nhận mỗi biểu vật thành một cặp biểu hiện ngôn ngữ
như hành động và sự vật (đấu tranh-sự đấu tranh), tính chất và sự vật (khổ-nỗi khổ), v.v
[18 : 47, 66] hoặc khi một từ được chuyển từ một từ loại này sang một từ loại khác mà không có bất kỳ sự thay đổi nào ở mặt chất liệu tạo nên hình thức của từ [94 : 56-57]
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng nếu một ý nghĩa hình thành do chuyển loại có tính độc lập cao, có thể làm cơ sở để tạo nên những nghĩa phái sinh khác thì có thể coi như đã tách ra thành một từ độc lập Đó là hiện tượng thay đổi ý nghĩa của một từ, từ một thực thể hoặc khái niệm cụ thể sang một quá trình hoặc một thuộc tính [21 : 99-100], [19 : 189-190] Một ý kiến khác xem chuyển loại là hiện tượng một nghĩa nào đó của từ đa nghĩa phát triển đến mức chuyển sang một phạm trù khác (tức là nghĩa đó không còn nằm trong
hệ thống các nghĩa của từ đa nghĩa nữa) Lúc này ta có hai từ tuy khác nhau (có cùng vỏ
âm thanh) với những ý nghĩa khác nhau nhưng vẫn còn có mối liên hệ [46 : 74-75]
Theo Diệp Quang Ban, hiện tượng chuyển loại có cơ sở là sự chuyển biến ý nghĩa của từ – một phương thức tạo từ mới của ngôn ngữ Chỉ trường hợp chuyển nghĩa nào làm cho từ có đặc điểm và chức năng ngữ pháp của từ loại khác mới được coi là hiện tượng
Trang 34chuyển loại [4 : 154-156] Tương tự, Nguyễn Kim Thản cũng xem cặp từ chuyển loại là hai từ khác nhau, có cùng nguồn gốc nhưng thuộc về hai nhóm từ loại khác nhau Đó không phải là vì chức năng trong câu của các từ thay đổi mà chính là do ý nghĩa ngữ pháp hóa của chúng khác nhau và hình thức ngữ pháp (khả năng kết hợp) cũng khác [40 : 126- 128]
Hà Quang Năng khẳng định chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ trong đó một từ mới thuộc từ loại này được tạo ra từ một từ thuộc từ loại khác mà vẫn giữ nguyên
vỏ âm thanh, đồng thời tạo ra ý nghĩa mới có quan hệ nhất định với ý nghĩa của từ xuất phát, và nhận những đặc trưng ngữ pháp mới (thể hiện khả năng kết hợp và chức năng làm thành phần câu) khác với đặc trưng ngữ pháp của từ xuất phát [36 : 87-88] Chuyển loại là kết quả của những biến động về ngữ nghĩa cũng như về hình-cú và trong cặp từ chuyển loại (cùng một vỏ âm thanh) có hai cấu trúc ngữ nghĩa khác nhau nhưng có liên quan với nhau Khi có chuyển loại thì đặc trưng ngữ pháp của từ thay đổi, chính xác hơn là do nội dung ngữ nghĩa của từ thay đổi nên kéo theo đặc trưng ngữ pháp của từ thay đổi [36 : 48-56]
Theo Hoàng Văn Hành, nếu sự chuyển nghĩa diễn ra trong điều kiện mà kiểu cơ cấu nghĩa thay đổi thì đó là hiện tượng chuyển loại Hướng chuyển nghĩa và chuyển loại của từ diễn ra một cách đều đặn ở nhiều từ, tạo thành một thế tương liên trong quá trình phát triển nghĩa của các từ thuộc cùng một nhóm từ vựng-ngữ nghĩa [24 : 19-21] Và ông gọi đó là những từ chuyển loại [25 : 147], [24 : 49-51]
Hồ Lê (1976) khẳng định: “Sự chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ, có khả năng tạo từ mới trên cơ sở từ đã có, bằng cách giữ nguyên vỏ âm của từ cũ, tạo ra một nghĩa mới có mối quan hệ lô-gích nội tại nhất định với nghĩa của từ cũ, và đưa ra những đặc trưng ngữ pháp của từ và giữa nghĩa của từ ấy với nghĩa của từ được chuyển loại chỉ
có một sự liên hệ duy nhất”
1.3.3 Quan niệm về hiện tượng chuyển loại trong tiếng Anh
Sau đây là một vài quan điểm được một số tác giả đề cập
Theo G Cannon, chính sự chuyển đổi chức năng cho phép một từ được dùng trong một dạng từ loại khác với từ loại ban đầu của nó [67 : 429] Cũng vậy, C Bergener và A.G Kennedy nhận xét có nhiều trường hợp một từ có thể hành chức như hai từ có từ loại
Trang 35khác nhau; nghĩa là có sự chuyển đổi chức năng ngữ pháp giữa các từ loại (như giữa danh
từ và động từ hoặc giữa danh từ và tính từ) hoặc giữa các tiểu loại của cùng một từ loại (như giữa động từ nội động và động từ ngoại động) [64 : 22-32], [76 : 167-168] Còn A Carstairs-McCarthy dùng khái niệm từ vị (lexeme) để giải quyết vấn đề chuyển loại khi
xem một cặp từ như hope v –hope n (hy vọng) là những biến thể của từ vị hope và cho đó là
những từ lưỡng trị Một từ vị như thế sẽ mang danh tính hay động tính là tùy thuộc vào ngữ cảnh [68 : 45-48]
Với một quan điểm khác, M Sándor đồng nhất hiện tượng chuyển loại với hiện tượng “đa nghĩa đặc biệt” mà ở đó các từ có thể thuộc các từ loại khác nhau, tức là hiện tượng chuyển loại Điểm phân biệt giữa hiện tượng đồng âm và hiện tượng chuyển loại là khả năng tiên đoán về nghĩa của từ: ở những từ đồng âm thì nghĩa của một từ không thể
đoán được khi căn cứ vào nghĩa của từ kia như sink n (bồn rửa) và sinkv (chìm); còn trong
trường hợp chuyển loại thì nghĩa của các từ có thể tiên đoán được như respect n (sự kính
trọng); respect v (kính trọng) [86 : 214-215]
A Spencer thừa nhận hiện tượng chuyển loại là một quá trình tạo từ với hình vị zero và hình vị này sẽ tạo ra sự thay đổi từ loại [87 : 20] Tương tự, V Adams, cho rằng phương thức phái sinh zero là một quá trình cấu tạo từ với không chỉ một phụ tố zero có nhiều chức năng (tạo danh từ, tạo tính từ, v.v.) mà là nhiều phụ tố zero khác nhau [56 : 37]
M Fernández nhận xét ở hiện tượng chuyển loại một từ thuộc một từ loại này được chuyển sang một từ loại khác có chung một số nét ngữ nghĩa với từ gốc, nhưng nó tiếp nhận tất cả những đặc tính hình thức và chức năng của từ loại mới chuyển sang với hình thái không thay đổi Tương tự, V Jovanović coi đây là quá trình cấu tạo từ bằng cách thay đổi từ loại, chức năng và ngữ nghĩa của một đơn vị từ vựng mà không biến đổi hình thái của từ, và sự giống nhau về mặt hình thức này là cơ sở cho hiện tượng chuyển loại [75 : 425-426]
G.B Antrushina khẳng định trong quá trình chuyển loại, từ mới được cấu tạo từ một từ đã có bằng cách thay đổi từ loại nhưng vẫn giữ nguyên hình thái của từ gốc Từ mới có nét nghĩa khác nhưng nét nghĩa này vẫn có mối quan hệ liên tưởng với từ gốc Ở đây không chỉ có sự biến đổi chức năng mà còn có cả sự biến đổi ngữ nghĩa và từ mới sẽ
Trang 36có hệ đối vị mới tương ứng với từ loại mới [57 : 66-67] Theo V.B Kasevich, khi chuyển loại thì biến thể cơ bản của từ vẫn giữ nguyên chất liệu, nhưng tập hợp các từ hình có thể cấu tạo được từ biến thể cơ bản ấy thì thay đổi, tức là hệ đối vị hoặc hệ cú đoạn của từ bị
biến đổi Thí dụ dog n có hệ đối vị dog-dogs còn dog v lại có hệ đối vị dog- dogging-dogged
[33 : 106]
Ngoài ra, có một số nhà ngữ học phân biệt hai phương thức phái sinh và chuyển loại khi định nghĩa chuyển loại là quá trình tạo từ trong đó từ loại của một từ thay đổi mà không cần kết hợp với một phụ tố như trong phương thức phái sinh [64 : 9], [83 : 1558] Trong quá trình đó có thể có những biến đổi về hình thức như cách phát âm hoặc chính tả hoặc vị trí trọng âm [83 : 1566-1567]
Nhìn chung, hầu hết các ý kiến đều cho rằng những từ có đặc trưng hỗn hợp các từ loại là những từ chuyển loại, có đặc tính khác với từ đồng âm và đa nghĩa, đồng thời xem chuyển loại là một phương thức tạo từ
1.4 Phân biệt hiện tượng đa nghĩa, đồng âm và chuyển loại
Chuyển loại là một hiện tượng phức tạp, cần được xem xét nhiều mặt, xác định chúng phải kết hợp cả tiêu chuẩn ngữ nghĩa lẫn tiêu chuẩn ngữ pháp (khả năng kết hợp và chức năng cú pháp) của từ, cũng như trong ngữ cảnh cụ thể
1 Về mặt nghĩa, hiện tượng chuyển loại khác với hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm Xét ví dụ sau:
(7) a Anh ta bẫy 1 được con heo rừng to nhất đàn
b Chú chim chào mào bị sa vào bẫy 2
Ở ví dụ trên, từ bẫy thuộc các từ loại khác nhau, mặc dù hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau Ở đây, sự khác biệt giữa các từ chủ yếu là mặt ý nghĩa Từ bẫy 1 có nghĩa
là “bắt hoặc tiêu diệt bằng bẫy”; nói cách khác, với ý nghĩa từ vựng như vậy, bẫy 1 thuộc
phạm trù “hoạt động”, là một động từ Còn bẫy 2 lại có nghĩa “dụng cụ thô sơ để lừa bắt,
giết loài vật hoặc kẻ địch” ; nói cách khác, bẫy 2 thuộc phạm trù “sự vật ”, là một danh từ
Ví dụ trên cho thấy trong cùng một hình thức ngữ âm có chứa đựng những nội dung ngữ nghĩa khác nhau và các nghĩa từ vựng này lại quan hệ với những phạm trù khái niệm
Trang 37khác nhau, tạo nên các cấu trúc ngữ nghĩa riêng, khác biệt nhau Như vậy, khi cùng một hình thức biểu đạt (nhưng có cấu trúc nghĩa khác nhau) thì phải xem đó là hai hoặc nhiều
từ khác nhau, được tạo ra theo phương thức chuyển loại Điểm quan trọng là giữa hai cấu
trúc nghĩa khác nhau này vẫn còn tồn tại mối liên hệ logic nội tại xác định: nếu bẫy 1 là một động từ thì bẫy 2 lại là danh từ với ý nghĩa biểu thị chính cái “dụng cụ” để “bắt hoặc tiêu diệt các loài vật” do động từ bẫy 1 thể hiện Mối liên hệ logic nội tại này là mối thường trực, luôn luôn tồn tại giữa các từ được cấu tạo theo phương thức chuyển loại, và “chính mối liên hệ logic nội tại này khiến cho ý nghĩa giữa các từ chuyển loại còn sợi dây nối liền với nhau chứ không bị tách rời, hoàn toàn không có liên hệ gì như trong nghĩa của các từ đồng âm” [23 : 156]
Đặc trưng ngữ nghĩa nêu trên là đặc điểm rất quan trọng, quyết định bản chất của hiện tượng chuyển loại, khiến cho hiện tượng này khác biệt với hiện tượng đồng âm và hiện tượng đa nghĩa
2 Sự khác biệt giữa hiện tượng đồng âm và hiện tượng đa nghĩa là trong trường hợp đồng âm thì những cái được biểu hiện là khác nhau, còn trong trường hợp đa nghĩa thì cái biểu hiện chỉ là một Cái được biểu hiện trong hiện tượng đa nghĩa được đặt cơ sở trên
sự tồn tại một mối liên hệ phái sinh liên tục không bị dứt đoạn giữa các nghĩa của từ đa nghĩa, và tạo nên cấu trúc nghĩa của từ đa nghĩa Chỉ cần tính liên tục này bị đứt đoạn thì
sự thống nhất về ngữ nghĩa của từ sẽ bị phá vỡ và khi đó xảy ra sự phân rã hiện tượng đa nghĩa, tức là biến một từ đa nghĩa thành hai từ đồng âm không có liên hệ nhau
3 Theo Hoàng Văn Hành et al (1998), có thể xác định hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt dựa vào các tiêu chí sau đây:
i) Được coi là những từ đồng âm khi chúng đồng nhất về mặt biểu hiện, nghĩa là trùng nhau về âm thanh, đồng thời khác nhau dù chỉ ở một trong những thành tố của bình diện được biểu hiện – đó là ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp
ii) Sự khác biệt về nghĩa từ vựng được hiểu là sự vắng mặt các mối liên hệ phái sinh giữa những cái được biểu đạt, nghĩa là khi một trong các nghĩa của từ này không nằm trong quan hệ phái sinh nghĩa với một trong các nghĩa của từ kia
iii) Sự khác biệt về ý nghĩa ngữ pháp là sự khác biệt các đặc trưng ngữ pháp mang tính chất chung cho cả một lớp từ - đó là sự khác biệt của ý nghĩa từ loại
Trang 38Như vậy, hiện tượng đồng âm có thể xem là “sự tới giới hạn” của hiện tượng đa nghĩa (Đỗ Hữu Châu, 1982 : 217) Sự khác biệt về ý nghĩa từ vựng là cơ sở của hiện tượng đồng âm Còn ở hiện tượng đa nghĩa thì các nghĩa vừa khác biệt lại vừa thống nhất, trong
đó sự thống nhất là cơ sở để các nghĩa tạo nên một hệ thống ngữ nghĩa, một cấu trúc nghĩa hoàn chỉnh
Điểm giống nhau giữa các hiện tượng đa nghĩa, đồng âm và chuyển loại là có một cái biểu đạt đồng nhất Mặt được biểu đạt, ở hiện tượng đa nghĩa, là một thể thống nhất, một cấu trúc nghĩa duy nhất, trong đó các nghĩa khác nhau được đặt cơ sở trên sự tồn tại một mối liên hệ phái sinh ngữ nghĩa liên tục Về ý nghĩa ngữ pháp thì trong trường hợp đa nghĩa luôn luôn thuần nhất, thuộc một phạm trù từ loại Còn với hiện tượng đồng âm thì ý nghĩa từ vựng bao giờ cũng khác nhau và hoàn toàn không có mối liên hệ nào với nhau Ý nghĩa ngữ pháp có thể là đồng nhất hoặc khác biệt Ở hiện tượng chuyển loại thì cả ý nghĩa
từ vựng lẫn ý nghĩa ngữ pháp phải khác nhau, mặc dù các đơn vị từ vựng này có hình thức ngữ âm đồng nhất
Điểm khác biệt của hiện tượng chuyển loại với hiện tượng đa nghĩa và đồng âm chính là sự tồn tại mối quan hệ logic nội tại giữa hai cấu trúc nghĩa chứa đựng trong cùng một hình thức ngữ âm, còn ý nghĩa ngữ pháp có tác dụng khu biệt chỉ là những ý nghĩa có tính chất phạm trù, chung cho mỗi loại Như vậy, có thể nói nếu coi hiện tượng đa nghĩa
và đồng âm là những hiện tượng nằm ở hai cực, trong đó đồng âm là “sự tới giới hạn” so với hiện tượng đa nghĩa, thì chuyển loại là hiện tượng trung gian, nằm giữa hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm, vì nó có những điểm giống nhau, lại vừa có những điểm khác biệt với hai hiện tượng này, trong đó mặt khác biệt lại còn quan trọng hơn mặt giống nhau rất nhiều Vì vậy, tuy là hiện tượng trung gian, nhưng chuyển loại có tính độc lập riêng của mình
1.5 Loại và hướng chuyển loại:
1.5.1 Các loại chuyển loại
Hiện tượng chuyển loại có nhiều loại khác nhau:
Theo hình thức từ, ta có chuyển loại tuyệt đối (hay còn gọi là chuyển loại hoàn toàn/chuyển loại bên trong) và chuyển loại tương đối (hay còn gọi là chuyển loại hoàn
Trang 39không hoàn toàn/chuyển loại bên ngoài) Chuyển loại tuyệt đối là đối tượng chính của luận văn, còn chuyển loại tương đối chỉ được đề cập đến khi cần thiết Cần chú ý là tiếng Anh - một ngôn ngữ đa âm tiết, có hiện tượng chuyển loại tuyệt đối do chuyển đổi trọng âm trong cùng một từ
Hiện tượng chuyển loại tương đối trong tiếng Việt thường có đặc trưng sau: “mỗi động từ, tính từ, v.v có khả năng tạo một danh từ,… tương ứng bằng cách kết hợp với một “phụ phầm hình thức” (theo cách gọi của Hồ Lê, 1976), hoặc một “từ làm chứng” (theo cách gọi của Nguyễn Văn Tu, 1978), hay một “yếu tố ngữ pháp chuyên dùng” (theo
cách gọi của Đinh Văn Đức, 1986),… Ví dụ: làm - việc làm, hy sinh - sự hy sinh, đẹp - cái đẹp, buồn - nỗi buồn, vui - niềm vui, v.v Hiện tượng chuyển loại tương đối trong
tiếng Anh thường liên quan đến phụ tố phái sinh (derivational affix); phụ tố này làm thay đổi từ loại của căn tố (root) mà chúng gắn kết; chẳng hạn trong phương thức dùng hậu tố
(suffixation), ta có –tion, -ize là những hậu tố phái sinh để thành lập từ mới từ danh từ: nation → national → nationalize Cần chú ý là trong tiếng Anh có kiểu chuyển loại như poor (tính từ) → the poor (danh từ)
Theo tính ổn định, bền vững về nghĩa, ta có chuyển loại ổn định và chuyển loại lâm thời
Ta có hiện tượng chuyển loại ổn định khi từ được chuyển loại có thể được sử dụng trong toàn bộ ngữ cảnh (thích hợp); còn hiện tượng chuyển loại lâm thời là khi từ được chuyển loại chỉ được sử dụng trong tình huống giao tiếp cụ thể và thường mang tính chất
tu từ Chẳng hạn:
(7) Nón rất Huế nhưng đời không phải thế (Tạm biệt - Thu Bồn)
(8) Ta là ai mà còn trần gian thế (Tôi ơi, đừng tuyệt vọng - Trịnh Công Sơn )
Ở hai ví dụ trên, danh từ Huế và trần gian lâm thời được chuyển loại sang tính từ
1.5.2 Hướng chuyển loại của từ
Có khá nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về vấn đề xác định hướng
chuyển loại trong tiếng Việt lẫn tiếng Anh
1.5.2.1 Hướng chuyển loại trong tiếng Việt
Ở hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt, trong nhiều trường hợp, không thể xác định từ thuộc từ loại này có trước hay từ thuộc từ loại kia có trước, nghĩa là không phải lúc
Trang 40nào cũng nhận rõ được hướng chuyển loại Để tránh đề cập đến hướng chuyển, Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê cho rằng điều này cũng không ảnh hưởng nhiều đến vấn đề nghiên cứu hiện tượng chuyển loại trong địa hạt ngữ pháp [10 : 161-163] Tương tự, Nguyễn Kim Thản đề nghị gọi là đây “hiện tượng cùng gốc khác loại” để tránh suy luận chủ quan về vấn đề hoạt động có trước hay sự vật có trước đối với các từ khó xác định
hướng chuyển loại như bừa, cào, cày, mưa, gió, v.v [39 : 27]
Lê Quang Thiêm lại cho rằng theo quan niệm logic thông thường thì hướng chuyển loại là từ sự vật đến hành động, tính chất, từ cụ thể đến trừu tượng [43 : 271] Nói cách khác, sự chuyển loại của thực từ thường diễn ra theo hướng từ ý nghĩa cụ thể sang trừu tượng, phản ánh nhu cầu gọi tên những sự vật, khái niệm trừu tượng ngày càng gia tăng của tiếng Việt, chẳng hạn động từ trỏ hoạt động có thể chuyển loại để biểu thị ý nghĩa và
đảm nhiệm chức năng ngữ pháp của danh từ trừu tượng (những yêu ghét, những mơ mộng); một số động từ hoạt động như bó, gánh,… có thể chuyển thành danh từ đơn vị [28
: 241-242, 245]
Khi đề cập đến tần số xuất hiện của từ, Nguyễn Đức Dân nhận định rằng từ càng được dùng nhiều thì càng có khả năng là chúng xuất hiện từ sớm Nghĩa là, có khả năng từ gốc có tần số xuất hiện trên thực tế cao hơn từ được chuyển loại [15 : 295]
Nguyễn Kim Thản [40 : 127] và Nguyễn Văn Tu [52 : 133] đề cập đến một quy luật tạo tính từ từ danh từ rất thông dụng trong tiếng Việt là “lấy tên sự vật hoặc người để trỏ đặc trưng cơ bản (về tính chất) của sự vật hoặc người đó” Hồ Lê nêu rõ những danh từ có khả năng chuyển loại theo mẫu này bao gồm những danh từ trỏ những đối tượng tiêu biểu
cho những tính cách xấu xa (như khỉ, chó, bợm, v.v.) và những danh từ trỏ những đối tượng tiêu biểu cho những tính cách hoặc phong cách tốt đẹp (như văn nghệ, thơ, tình nghĩa, Huế, v.v.) [31: 296-297] Đáng lưu ý nhất là ý kiến của Hoàng Văn Hành et al
Theo các tác giả, sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ khi cấu tạo từ mới theo phương thức chuyển loại diễn ra theo những hướng chủ yếu sau:
1 Triệt tiêu một hoặc một số nghĩa vị trong cấu trúc nghĩa của từ được cấu tạo bằng chuyển loại
2 Rút gọn cấu trúc nghĩa khi chuyển loại So sánh:
Từ khóa » Từ Chuyển Loại Trong Tiếng Việt
-
CHUYỂN LOẠI CỦA TỪ TRONG TIẾNG VIỆT
-
Hiện Tượng Chuyển Loại Trong Tiếng Việt Và Tiếng Anh - ResearchGate
-
Một Vài Nét Về Hiện Tượng Chuyển Loại Từ Trong Tiếng Việt
-
[PDF] Hiện Tượng Chuyển Loại Giữa Danh Từ Và động Từ Trong Tiếng Việt Và
-
CÁC CẤP BẬC KHÁC NHAU CỦA HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI ...
-
Chuyển Loại - Một Phương Thức Cấu Tạo Từ Trong Tiếng Việt - TaiLieu.VN
-
Hiện Tượng Chuyển Loại Của Từ - Diễn đàn Học Tập - Trao đổi
-
Chuyển Loại - Một Phương Thức Cấu Tạo Từ Trong Tiếng Việt
-
Tính Từ Do động Từ Chuyển Loại | TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC
-
Chuyển Loại Của Từ Trong Tiếng Việt - TailieuXANH
-
Chuyển Loại - Một Phương Thức Cấu Tạo Từ Trong Tiếng Việt
-
2 Hiện Tưọng Chuyển Loại Của Từ - Tài Liệu Text - 123doc
-
Hiện Tượng Chuyển Loại Lâm Thời Của Từ Tiếng Việt Trong Hoạt động ...
-
Phân Biệt Loại Trợ Từ Và Phó Từ Trong Tiếng Việt | 123VIETNAMESE