Khái Niệm đồng Phạm Là Gì? - Luật Hoàng Phi

Mục lục bài viết

Toggle
  • Khái niệm đồng phạm là gì?
  • Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
  • Bình luận về đồng phạm theo quy định của BLHS

Khái niệm đồng phạm là gì?

Điều 17. Đồng phạm

1.Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

2.Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. 

3.Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. 

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. 

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. 

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. 

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

4.Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành. 

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm được quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), cụ thể như sau:

– Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

– Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.

Bình luận về đồng phạm theo quy định của BLHS

Điều luật gồm 4 khoản. Trong đó, khoản 1 mô tả trường hợp phạm tội được coi là đồng phạm; khoản 2 mô tả trường hợp đồng phạm đặc biệt; khoản 3 mô tả hành vi phạm tội của các loại người đồng phạm và khoản 4 xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi vượt quá trong đồng phạm. 

Khoản 1 xác định các dấu hiệu của đồng phạm là hình thức phạm tội cố ý khác với hình thức phạm tội riêng lẻ. Các dấu hiệu đó bao gồm: Sự tham gia của hai người trở lên và họ cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 

Trước hết, đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đó là điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự).

Trong trường hợp tội phạm được thực hiện là tội phạm có chủ thể đặc biệt thì dấu hiệu chủ thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người đồng phạm là người thực hành. 

Về dấu hiệu thứ hai: Cố ý cùng thực hiện tội phạm có nghĩa, mỗi người phải cố ý tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi sau: 

– Hành vi thực hiện tội phạm (thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP). Người có hành vi này được gọi là người thực hành; 

– Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (tổ chức thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP). Người có hành vi này được gọi là người tổ chức; 

– Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm (xúi giục người khác thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP). Người có hành vi này được gọi là người xúi giục; 

– Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm (giúp sức người khác thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP). Người có hành vi này được gọi là người giúp sức. 

Nếu không có một trong những hành vi này thì không thể coi là cùng thực hiện và do vậy cũng không phải là người đồng phạm. 

Trong vụ đồng phạm có thể có đủ bốn loại hành vi tham gia nhưng không đòi hỏi nhất thiết phải như vậy và có thể chỉ có một loại hành vi tham gia. Người đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vị nhưng cũng có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu nhưng cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. 

Bằng những hành vi cụ thể như vậy, những người đồng phạm đều có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Những hành vi đó được thực hiện trong mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của mỗi người là điều kiện hỗ trợ cho sự hoạt động chung.

Có thể tất cả những người đồng phạm đều trực tiếp thực hiện tội phạm và tổng hợp những hành vi của họ tạo thành hành vi phạm tội có đủ những dấu hiệu của CTTP nhất định. Nhưng cũng có thể chỉ có một hoặc một số người trực tiếp thực hiện tội phạm còn những người khác chỉ có hành vi góp phần vào việc thực hiện tội phạm.

Hậu quả thiệt hại của tội phạm là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người tham gia vào việc thực hiện tội phạm đưa lại. Giữa hành vi của mỗi người và hậu quả thiệt hại của tội phạm đều có quan hệ nhân quả.

Hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả còn hành vi của những người khác (tổ chức, xúi giục, giúp sức) thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả. 

Khi thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Mỗi người đều biết hành vi của mình có tính gây thiệt hại cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi như vậy cùng với mình.

Nếu chỉ biết mình có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội mà không biết người khác cũng có hành vi như vậy với mình thì chưa thoả mãn dấu hiệu lỗi cố ý trồng đồng phạm và do vậy không có đồng phạm.

Ví dụ: Khi mượn xe máy của B để đi trộm cắp, A đã nói dối là cần xe vào việc hợp pháp, B biết ý định thật của A nhưng do thù tức thủ kho nên đã vờ vô tình cho mượn. Trong vụ án này, A chỉ biết mình có hành vi trộm cắp mà không biết B có hành vi cố ý giúp sức cho mình.

Do vậy, A và B không đồng phạm với nhau. Những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn hoặc cũng có ý thức để mặc cho hậu quả thiệt hại xảy ra.

Những trường hợp không mong muốn có sự liên kết hành vi để cùng gây ra hậu quả thiệt hại như trường hợp nhiều người cùng múc trộm dầu trong bể chứa của cơ quan nhưng giữa họ không có sự rủ rê nhau là trường hợp phạm tội riêng lẻ.

Cũng chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ, khi các hậu quả thiệt hại mà những người có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội mong muốn không đồng nhất với nhau. 

Trong trường hợp tội phạm được thực hiện là tội phạm có mục đích là dấu hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người đồng phạm phải có chung mục đích được phản ánh trong CTTP hoặc biết rõ và tiếp nhận mục đích đó.

Trường hợp người chở thuê cho những người khác trốn đi nước ngoài, mặc dù đã biết rõ những người này có mục đích chống lại chính quyền nhân dân là ví dụ về trường hợp biết rõ và tiếp nhận mục đích của nhau.

Trong trường hợp này, người chở thuê bị coi là đồng phạm của tội phạm được quy định tại Điều 121 BLHS mặc dù họ không có mục đích chống lại chính quyền nhân dân. 

Nếu không thoả mãn dấu hiệu cùng mục đích sẽ không có đồng phạm. Trong trường hợp này, những người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc lập với nhau.

Ví dụ: A thuê B giết người với mục đích chống lại chính quyền nhân dân nhưng B không biết mục đích đó. Trong trường hợp này không có đồng phạm về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS). 

Khoản 2 của điều luật mô tả phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm “có sự câu kết chặt chẽ” giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

Dấu hiệu “câu kết chặt chẽ” được xác định trong điều luật vừa thể hiện mức độ liên kết về mặt chủ quan vừa thể hiện mức độ phân chia vai trò, nhiệm vụ cụ thể về mặt khách quan của những người đồng phạm. Với tính chất như vậy, phạm tội có tổ chức (đúng ra là đồng phạm có tổ chức thường có những đặc điểm: 

– Nhóm đồng phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính lâu dài, bền vững. Trong nhóm tồn tại quan hệ chỉ huy – phục tùng. Mỗi người đồng phạm đều chịu sự điều khiển chung thống nhất, đều coi và sử dụng hình thức đồng phạm là công cụ sức mạnh trong hoạt động phạm tội của mình. 

– Trong hoạt động, nhóm đồng phạm có sự chuẩn bị cẩn thận, đầy đủ về mọi mặt cho việc thực hiện cũng như cho việc che giấu tội phạm với phương pháp, thủ đoạn thường tinh vi, xảo quyệt v… 

Với đặc điểm như vậy, đồng phạm có tổ chức có nhiều khả năng cho phép phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra hậu quả lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn.

Phạm tội có tổ chức được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết này không những được quy định chung ở Điều 52, Về biểu hiện cụ thể của sự câu kết có thể tham khảo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16/11/1988 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.  

BLHS mà còn được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của nhiều tội phạm như ở tội giết người (Điều 123 BLHS), tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS), tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325 BLHS)… 

Khoản 3 của điều luật mô tả rõ dấu hiệu của từng người đồng phạm. Cụ thể: 

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm Trực tiếp thực hiện tội phạm bao gồm hai trường hợp sau: 

– Trường hợp thứ nhất là trường hợp tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. Trong vụ đồng phạm có thể có nhiều người cùng tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP.

Khi đó không đòi hỏi mỗi người phải thực hiện trọn vẹn hành vi được mô tả trong CTTP mà có thể mỗi người chỉ thực hiện một phần hành vi đó. Nhưng đòi hỏi hành vi tổng hợp của họ phải là hành vi có đủ dấu hiệu của CTTP.

Ví dụ: Trong vụ đồng phạm hiếp dâm, A và B (đều là nam) giữ nạn nhân để C thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân. Ở đây, hành vi của từng người đồng phạm không thoả mãn hết các dấu hiệu của CTTP tội hiếp dâm vì CTTP của tội hiếp dâm đòi hỏi có hành vi giao cấu và hành vi dùng vũ lực (hoặc hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác…)

Tuy nhiên, hành vi tổng hợp của A, B và C lại thoả mãn hết các dấu hiệu đó. Tất cả những người đồng phạm này đều được coi là người thực hành – đều là người trực tiếp thực hiện tội hiếp dâm. Đối với những tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt thì những người đồng thực hiện chỉ có thể là những người có đủ những dấu hiệu của chủ thể đặc biệt.

Nếu không, họ chỉ có thể là người giúp sức hoặc có thể phạm tội khác. Trong ví dụ trên, nếu B là nữ thì B chỉ là người giúp sức.

Ví dụ khác: Trong trường hợp hai vợ chồng cùng thực hiện hành vi giết con mới đẻ, chồng phạm tội giết người (Điều 123 BLHS) còn vợ phạm tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS) nếu thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm này. 

– Trường hợp thứ hai là trường hợp không tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP như không tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác (đâm, bắn, chém…) hoặc không tự mình thực hiện hành vi hủy hoại tài sản (đốt cháy, đập, phá…) mà chỉ có hành động (cố ý) tác động đến người khác để người này thực hiện hành vị được mô tả trong CTTP nhưng họ lại không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người đã tác động.

Ví dụ: A và B thuê C 12 tuổi đốt nhà hàng xóm. Trong trường hợp này A và B là người thực hành (ở dạng thứ hai) tội hủy hoại tài sản; hoặc A và B đã lừa dối và nhờ C đi lĩnh hàng hộ bằng phiếu lĩnh hàng giả. Trong trường hợp này A và B là người thực hành (ở dạng thứ hai) tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản… 

Do đặc điểm riêng, người trực tiếp thực hiện tội phạm ở dạng thứ hai không thể xảy ra ở những tội đòi hỏi chủ thể phải tự mình thực hiện như tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS) hoặc tội loạn luân (Điều 184 BLHS)… Ở những tội phạm này chỉ có thể có người trực tiếp thực hiện tội phạm ở dạng thứ nhất. 

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm 

– Người chủ mưu là người đề xướng chủ trương, phương hướng hoạt động của nhóm đồng phạm. Chủ mưu có thể trực tiếp điều khiển hoạt động của tổ chức nhưng cũng có thể không; 

– Người cầm đầu là người thành lập nhóm đồng phạm hoặc tham gia vào việc soạn thảo kế hoạch, phân công, giao trách nhiệm cho đồng bạn cũng như đôn đốc, điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm; 

– Người chỉ huy là người điều khiển trực tiếp của nhóm đồng phạm có vũ trang hoặc bán vũ trang. 

Với vai trò như vậy, người tổ chức luôn luôn được coi là người có hành vi nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm. Do vậy, trong nguyên tắc xử lý được quy định ở Điều 3 BLHS, người chủ mưu, cầm đầu, chỉ | huy đã bị coi là loại đối tượng cần phải nghiêm trị. 

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm 

Đặc điểm chung của người xúi giục là tác động đến ý chí của người khác, khiến người này phạm tội. Người xúi giục có thể là người đã nghĩ ra việc phạm tội và đã thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thông qua người khác.

Nhưng người xúi giục cũng có thể chỉ có tác động thúc đẩy người khác thực hiện ý định phạm tội đã có. Người xúi giục cũng có thể cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng cũng có thể không. Sự xúi giục có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như kích động, lôi kéo, cưỡng ép, dụ dỗ, lừa phỉnh v… 

Hành vi xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số người nhất định. Việc kêu gọi, hô hào phạm tội mà không hướng tới người xác định thì không phải là hành vi xúi giục. Hành vi xúi giục phải hướng tới việc thực hiện tội phạm cụ thể.

Hành vi phổ biến, gieo rắc những tư tưởng xấu cho một người hoặc một số người và khiến họ phạm tội không phải là hành vi xúi giục trong đồng phạm mà chỉ có thể cấu thành tội độc lập khác như tội dụ dỗ, ép buộc… người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325 BLHS).

Những người có lời nói hoặc việc làm có thể gây ảnh hưởng đến việc phạm tội của người khác nhưng không có ý định thúc đẩy người này phạm tội thì cũng không phải là người xúi giục. 

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm 

Trong thực tế, giúp sức về vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện hoặc khắc phục những trở ngại… để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội phạm được dễ dàng, thuận lợi hơn. 

Giúp sức về tinh thần là cung cấp điều kiện không có tính vật chất như chỉ dẫn, góp ý kiến cho việc chuẩn bị, việc thực hiện hoặc việc che giấu tội phạm; cung cấp tình hình nơi tội phạm được thực hiện hoặc tình hình về nạn nhân v.v. hoặc hứa hẹn trước sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong.

Lời hứa hẹn trước của người giúp sức tuy không tạo ra những điều kiện thuận lợi cụ thể nhưng có tác động đến việc thực hiện tội phạm.

Hành vi thực hiện tội phạm có thể xảy ra hay không xảy ra, có thể tiếp tục xảy ra hay dừng lại có thể phụ thuộc vào lời hứa hẹn của người giúp sức. Lời hứa hẹn của người giúp sức có thể xảy ra trước khi tội phạm được thực hiện nhưng cũng có thể xảy ra khi việc thực hiện tội phạm đang diễn ra. 

Người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức có thể được gọi tên chung là người tòng phạm để phân biệt với người thực hiện tội phạm.

BLHS chỉ quy định 3 dạng người tòng phạm – tổ chức thực hiện; xúi giục thực hiện và giúp sức thực hiện nhưng trong thực tế có thể xảy ra các dạng khác như xúi giục giúp sức hoặc giúp sức xúi giục v.v. theo nguyên tắc “bắc cầu”, các hành vi “đặc biệt” này đều có thể được quy về 3 dạng người tòng phạm.

Hành vi xúi giục người khác giúp sức cho người thực hiện tội phạm cũng bị coi như xúi giục thực hiện tội phạm và chủ thể thực hiện hành vi xúi giục này cũng bị coi là người xúi giục.

Tương tự như vậy, hành vi giúp sức cho một người để họ xúi giục người khác thực hiện tội phạm cũng bị coi như giúp sức thực hiện tội phạm và chủ thể thực hiện hành vi giúp sức này cũng bị coi là người giúp sức v… 

Khoản 4 của điều luật xác định: Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành. Quy định này thể hiện nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm.

Trong vụ đồng phạm, mỗi người đồng phạm tuy phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm nhưng do trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân nên việc xác định trách nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm vẫn phải dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi người.

Do đó, mỗi người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người đồng phạm khác. Trong đó, hành vi vượt quá của người đồng phạm được hiểu là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm và hành vi này có thể cấu thành tội phạm khác hoặc thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. Ví dụ: A và B đã bàn bạc và thống nhất sẽ vào trộm cắp tài sản nhà anh X.

Trong khi A đứng gác, B đã bí mật vào nhà anh X. Trong khi đang lấy tài sản, B đã bị anh X phát hiện và bắt giữ. B đã đánh anh X bị thương để tẩu thoát. Việc làm này nằm ngoài kế hoạch của A và B.

Hành vi gây thương tích của B có thể cấu thành tội độc lập là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS) hoặc thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài sản (điểm đ khoản 2 Điều 173 BLHS). Điều này tùy thuộc vào mức độ thương tích.

Trên đây là nội dung bài viết Đồng phạm là gì? của Công ty Luật Hoàng Phi? Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn 1900.6557

Từ khóa » Những Người đồng Phạm Là Gì