Khu Di Tích Cổ Loa

Thành gắn liền với những truyền thuyết kỳ thú của dân tộc Việt, về việc Vua An Dương Vương định đô xây thành, về việc chiếc nỏ thần Kim Quy bắn một phát hạ hàng trăm tên giặc, về mối tình bi thương và cảm động của Mỵ Châu - Trọng Thuỷ... Từ bao đời nay, dấu vết của ngôi thành cổ này cùng với những nhân vật được huyền thoại hoá đã đi vào tiềm thức của người dân Việt Nam. Trong phạm vi bài viết này mới chỉ nêu những nét khái quát nhất về khu di tích có giá trị đặc biệt của Thủ đô ngàn năm tuổi.

1. Vị trí của Cổ Loa

Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác Châu thổ sông Hồng, là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ.  Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như vậy, về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại Đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc Bộ Việt Nam. Qua sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc Bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.

Khu di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội). (Ảnh: TL)

2. Con người đến với Cổ Loa qua dấu vết Khảo cổ học

Những người đầu tiên được môi trường - cảnh quan tiền Cổ Loa hấp dẫn đến khai phá và làm chủ nơi này là nhóm cư dân đã để lại dấu tích ở Di chỉ Đồng Vông. Vậy những người đầu tiên có mặt ở Cổ Loa - Đồng Vông, từ đâu tới? Nghiên cứu Khảo cổ học về Đồng Vông cho biết, trước hết, đây “là một di chỉ thuộc nhóm di tích giai đoạn Phùng Nguyên” (4000 - 3500 năm trước Công nguyên), hoặc là Phùng Nguyên muộn. Cố GS Trần Quốc Vượng cho biết: “Cả một cụm di chỉ phần nhiều là Phùng Nguyên muộn, đầu thời đại đồng thau - đã phát hiện dọc đôi bờ Ngũ Huyện Khê, cũng như ở nhánh Tiêu Tương phía hạ lưu của nó, ở khu vực Cổ Loa. Đó là Đồng Vông, là Xuân Kiều, xa hơn chút nữa là chân núi Tiên Sơn và vùng đồi Lim, cho đến tận Võ Cường, mé ngoài thị xã Bắc Ninh, trên sườn đồi giáp mé sông của những làng quan họ sau này”.

Khai phá đầu tiên khu vực Cổ Loa từ nửa đầu thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên, những người ở Đồng Vông ngày xưa, trong khi mở rộng sự phát triển của văn hoá Khảo cổ học Phùng Nguyên, về phương diện lịch sử đã tham gia tích cực vào việc khởi phát thời kỳ tiền Hùng Vương. Điều này cũng có nghĩa Cổ Loa, với sự xuất hiện những cư dân đầu tiên ở Đồng Vông, đã khởi động lịch sử của mình, kèm theo ý nghĩa là một địa vực sớm được khai phá, ngay từ buổi đầu thời đại Hùng Vương.

Liền sau nhóm cư dân Đồng Vông là hai nhóm cư dân đến sinh sống ở Cổ Loa. Người xưa đã lưu dấu tích lại ở hai di chỉ Xuân Kiều và Tiên Hội. Sự phát triển liên tục ấy, chính thức đến giai đoạn quan trọng nhất: giai đoạn Văn hoá Gò Mun - Đông Sơn trên đất Cổ Loa. Hai di chỉ khảo cổ học tiêu biểu cho giai đoạn này đã được phát hiện ở đây là Đình Tràng (Chàng) và Đường Mây. Sự “hội tụ văn hoá” ở Cổ Loa vậy là đã thấy rõ vào thời gian phát triển cuối cùng của Di chỉ Đình Chàng. Có nghĩa là: khi ấy, họ chứng kiến hoặc tham gia vào việc chuyển Cổ Loa từ thời tiền Cổ Loa sang thời Cổ Loa đích thực - Cổ Loa thời An Dương Vương.

(Ảnh: TL)

3. Kết cấu thành Cổ Loa

Cổ Loa được hình thành cùng với thời kỳ An Dương Vương - Thục Phán. Thời kỳ đó được mở đầu bằng việc xây đắp một toà thành ở Cổ Loa. Đắp thành ở Cổ Loa, An Dương Vương đã chuyển khu vực Cổ Loa thời tiền Cổ Loa trở thành Kinh đô nước Âu Lạc.

Về mặt vật chứng, việc nghiên cứu Khảo cổ học thành Cổ Loa đã thể hiện ra những hình thể của di tích toà thành còn lại như sau:

a) Tường thành:

Di tích thành hiện thấy có ba vòng: tường thành ngoại, tường thành trung và tường thành nội.

- Tường thành ngoại là một vòng tường khép kín, lần theo những gò đống thiên nhiên, nên không có hình dáng rõ ràng. Không phải tất cả các vòng tường thành đều do đắp xây, mà nhiều đoạn vốn là gò đất tự nhiên.

- Tường thành trung là một vòng khép kín, không có hình dáng nhất định, cũng do đắp nối các gò tự nhiên và men theo đầm hồ mà thành. Theo cố GS Trần Quốc Vượng, chiều dài thành khoảng 6.500m, theo R.Despierres và Cl.Madrolle thì thành dài 6.150m. Cao từ 6 đến 12m, mặt thành rộng trung bình 10m, chân thành rộng tới 20m.

Điểm độc đáo là vòng tường thành ngoại và trung được đắp bằng nhau ở phía Nam, tạo thành một quãng trống làm cửa ra vào. Hiện tượng nối liền hai vòng tường thành ngoại và trung để tạo lối ra vào và việc cùng thuận theo thế đất tự nhiên để đắp tường, làm cho hai vòng tường thành ngoại và trung có chứng cớ để mang một tuổi chung, đồng thời, có dáng vẻ nguyên thuỷ của một công trình quân sự.

- Tường thành nội mang dáng vẻ khác hẳn hai vòng tường thành trên, có hình chữ nhật nghiêm chỉnh, chu vi khoảng 1.650m, mặt thành rộng khoảng 10m, chân thành rộng khoảng 20m, thành cao chừng 5m.

b) Hào ngoài:

Cả ba vòng tường thành đều có hào ngoài.

Hào thành ngoài, phía Tây Nam, lợi dụng con sông Hoàng, chảy gần sát tường thành. Phía Tây Nam, từ gò Cột Cờ; phía Đông, từ Đầm Cả, người xưa đã đào khắp ven phía ngoài tường thành. Như vậy, nước sông Hoàng có thể chảy thông khắp quanh thành.

Hào thành giữa cũng nối với hào thành ngoài ở gò Cột Cờ và Đầm Cả.

Hào thành trong được đào quanh tường thành. Đó là một vòng hào khép kín, nối với sông Hoàng bằng một trong năm lạch nước ở thành giữa.

Pho tượng công chúa Mỵ Châu bị chặt đầu được đặt bên trong đền thờ. (Ảnh: TL)

c) Cửa thành:

Vòng thành trong được xây dựng theo bốn hướng chính: Nam, Bắc, Đông, Tây, nhưng chỉ mở một cửa ở chính giữa tường thành phía Nam.

Vòng thành giữa mở bốn cửa: cửa Trấn Nam, cửa Bắc, cửa Tây Bắc, cửa Tây Nam.

4. Di tích trong khu vực Cổ Loa

Khu vực Cổ Loa còn lại đến ngày nay không chỉ là một di tích nhỏ bé mà là cả một quần thể di tích, đó là:

- Đền Thục An Dương Vương: xây dựng năm 1687, đời Lê Hy Tông, sửa lại năm 1689, thường gọi là Đền Thượng, đứng trên một quả đồi xưa có Cung thất của Vua. Cửa đền có hai con rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, nghệ thuật điêu khắc thời Lê. Nhà bia có 3 tấm bia đá khắc năm 1606. Trong đền có đôi ngựa hồng làm năm 1716, tượng đồng Vua Thục đúc năm 1897, nặng 255kg.

- Giếng Ngọc: ngay trước đền là một hồ hình bán nguyệt, giữa đắp bờ tròn tạo thành giếng ngọc. Tương truyền, đây là nơi sau khi phản bội, Trọng Thuỷ tự tử, nước giếng này đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng đẹp bội phần cho nên thành tên đó.

- Am Bà chúa: ngay sau cây đa nghìn tuổi tỏa bóng mát cả một vùng sân rộng, gốc đa rẽ đôi thành chiếc cửa tò vò thiên nhiên mở lối đi vào am. Tượng bà chúa Mỵ Châu là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Huyền thoại kể rằng: sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía Đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ.

  - Đình Ngự Triều Di Quy: xây dựng trên nền điện thiết triều cũ, năm 1907 thời Nguyễn. Dáng vóc vững chãi, bề thế, mái đao vút cong, cột đình có đôi câu đối của Tôn Thất Thuyết, một Thủ lĩnh Cần Vương chống Pháp:

Tặc đáo Loa thành tùy diệt một

Điện vô quy nỗ dũng uy linh

Nghĩa là:

Giặc đến thành Loa theo diệt hết

Điện không nỏ báu vẫn linh thiêng

Hội đền Cổ Loa tổ chức vào đầu xuân hàng năm, từng có câu rằng: “chết bỏ con cháu, sống không bỏ mồng sáu tháng Giêng”.

(Ảnh: TL)

5. Tính chất, ý nghĩa và giá trị của thành Cổ Loa

- Thành Cổ Loa, trước hết là Kinh thành đồng thời là một quân thành, một thị thành.

Kinh thành Cổ Loa thời An Dương Vương - Thủ đô của nước Âu Lạc, nơi đặt bộ máy triều chính của Nhà nước Âu Lạc, đó là một Kinh thành với dáng vẻ của những Kinh đô “tam trùng thành quách” mà ở các thời phong kiến về sau, cũng đã được hình dung ra: Vua và Hoàng gia ở tại thành Nội, các quan văn võ và quân đội ở tại thành Trung, dân chúng ở tại thành Ngoại. Rồi thì kiến trúc Cung đình cũng phải mọc lên, không đến nỗi lộng lẫy vàng son xa hoa như ở các Kinh thành thời sau nhưng cũng đã đủ các chi tiết vật thể: “Nền nhà lát gạch kẻ hoa văn, mái lợp ngói ống và ngói bản. Ngói có đóng đinh và đinh ngói cũng nặn bằng đất sét nung, đầu đinh vẽ hoa văn trang trí. Diềm mái chạy một hàng đầu ngói ống với các loại hoa văn trang trí hình mây cuốn...”.

Những vòng thành Cổ Loa khoanh lại đã tạo nên một căn cứ quân sự, một quân thành có địa vị Quốc đô, hay đúng hơn: một Kinh thành kiêm cả chức năng quân thành - đó là một thực tế sáng giá ở Cổ Loa thời An Dương Vương.

Thị thành Cổ Loa thời An Dương Vương cũng là một tính chất đặc trưng của Cổ Loa ở thời đích thực này, nhưng mới được nhận diện cho phù hợp với những dẫn liệu ngày càng thấy rõ hơn ở Cổ Loa. Đó là dấu tích của hai khu vực sản xuất thủ công: luyện kim - đúc đồng, không những quy mô lớn, mà còn chuyên hoá trong việc sản xuất các chế phẩm, đã được phát hiện và khẳng định ở Cổ Loa thời này. Từ Cổ Loa, con đường vận chuyển, buôn bán, trao đổi với đầu mối Cổ Loa cũng đã được phát hiện, tập trung vào đường thuỷ, tập trung từ Đầm Cả - Vườn Thuyền Ao Mắm... Và chợ Cổ Loa thời An Dương Vương cũng đã được nhận diện, đó là chợ Sa, ngày nay vẫn phồn thịnh...

- Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ Nhà Vua, Triều đình và Kinh đô. Đồng thời, đây cũng là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.

Năm 1962, thành Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. (Ảnh: TL)

- Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp và có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.

- Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Hàng năm, vào ngày 6 tháng Giêng Âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, tạo dựng lên Khu Di tích Cổ Loa.

Từ những đặc điểm đã nêu ở trên về vị trí, ý nghĩa của thành Cổ Loa cho thấy đó là một thành cổ ra đời từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên do Thục Phán An Dương Vương khởi dựng. Tích hợp vào Thủ đô Hà Nội bây giờ, Cổ Loa vừa tăng sự lâu đời của đô thị Hà Nội thêm lên hàng nghìn tuổi, vừa bổ sung cho vị trí và vai trò trung tâm, đầu não, phồn thịnh của miền đất Thượng kinh này. Những tính chất đặc trưng một thời vàng son của thành cổ: Kinh thành, quân thành, thị thành cổ đại, cùng với những giá trị của một quá trình rất lâu dài đấu tranh bảo vệ - bảo tồn bản sắc - bản lĩnh của mình đã làm tôn lên giá trị của Cổ Loa và Thăng Long - Hà Nội một ngàn năm tuổi.

Hiền Lương - Nguyễn Tuyết Anh

Từ khóa » Sơ đồ Khu Di Tích Thành Cổ Loa