Làm Sáng Tỏ Nhận định: Mỗi Câu Thơ Là Một Lần Lặn Vào Trang Giấy ...

Trong “Nghĩ về thơ, nghĩ về thơ, nghĩ…” (Đối thoại mới – 1973), Chế Lan Viên Viết:

“Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy Lặn vào cuộc đời Rồi lại ngoi lên”.

Bằng trải nghiệm văn học của mình, anh chị hãy làm sáng tỏ những ý kiến trên.

* Gợi ý làm bài:

1. Giải thích:

– Trong quá trình sáng tạo, nghệ sĩ phải “lặn vào” để “say”, để trải nghiệm, thẩm thấu, chiếm lĩnh hiện thực, nhưng đồng thời cũng phải biết “ngoi lên” để tạo một độ lùi, một sự gián cách với đối tượng phản ánh để “tỉnh”, để chiêm nghiệm, khám phá hiện thực dưới nhiều góc độ và mang tính khái quát cao hơn.

– Văn học là một hình thái ý thức xã hội, luôn lấy hiện thực đời sống làm đối tượng và chất liệu phản ánh. Hai ý kiến đề cập đến động thái của người nghệ sĩ với hiện thực đời sống trong quá trình sáng tạo. Người nghệ sĩ phải thâm nhập để thấu hiểu hiện thực, đồng thời cũng phải biết vượt lên hiện thực để chiêm nghiện.

2. Bàn luận và chứng minh:

– Hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, là mảnh đất dồi dào, màu mỡ của nghệ thuật. Văn học bao giờ cũng là sự nhận thức và phản ánh hiện thực.

– Nhà văn muốn phản ánh hiện thực một cách sâu sắc thì phải “lặn vào” hiện thực để thâm nhập vào đối tượng một cách tuyệt đối cả trên bề rộng lẫn chiều sâu. Đời sống bao giờ cũng phức tạp, đa chiều và luôn biến chuyển, nhà văn phải trải nghiệm thì mới có vốn sống, mới hiểu sâu vào đời sống để sáng tác.

– Tuy nhiên, không chỉ đắm mình trong thế giới hiện thực để khai thác chất liệu đời sống, người nghệ sĩ phải biết “ngoi lên” khỏi môi trường chất liệu ấy, dùng chính lí trí và cảm xúc, cái say và cái tỉnh của mình để quan sát, soi ngắm một cách kỹ lưỡng, thấu suốt để khám phá mọi ngóc ngách, mọi giá trị của hiện thực, đồng thời, khái quát hoá lên tầm triết lí, tầm tư tưởng để đạt ngưỡng “cao siêu”.

– “lawnj vào” là để thâm nhập vào nhân quần, “ngoi lên” là dùng chính bản thể sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ để chiêm nghiệm nhân quần ấy. Vì vậy, nhận định còn cho thấy vai trò của cá nhân người nghệ sĩ đối với hiện thực được tái hiện. Đó là quá trình chuyển hoá cái khách quan thành cái chủ quan, đưa khách thể vào cái nhìn của chủ thể. như vậy, sự phản ánh mới sâu sắc và có giá trị về mặt tư tưởng.

3. Đánh giá:

– Ý kiến đặt ra những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với người cầm bút.

– Nhận định này không chỉ miêu tả quá trình, trạng thái sáng tạo mà còn thể hiện phương pháp và ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ.

4. Kết thúc:

Khẳng định mối quan hệ giữa văn học và hiện thực – một mối quan hệ tất yếu giữa cái phản ánh và cái được phản ánh- sẽ góp phần làm nên sức sống vững bền của tác phẩm cũng như tên tuổi của người nghệ sĩ.

Bài văn tham khảo:

Nguyễn Bính đã từng thở than về số kiếp long đong của những người “dính vào duyên bút mực”. Có lẽ bởi nhà thơ đã vất vả trải đời ngược xuôi để rồi mới viết được những câu thơ hay và độc đáo. Phải chăng vì thế mà Khâu Chấn Thanh, nhà lý luận văn học Trung Quốc cho rằng: “Nhà thơ, đối với vũ trụ nhân sinh, nên bước vào bên trong, mà lại nên đi ra bên ngoài. Bước vào bên trong mới có thể viết được. Đi ra bên ngoài mới có thể quan sát được. Bước vào bên trong mới có sinh khí. Đi ra bên ngoài mới đạt cao siêu”. Và trong Nghĩ về thơ, nghĩ về thơ, nghĩ…in trong tập Đối thoại mới (1973), Chế Lan Viên Viết:

Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy Lặn vào cuộc đời Rồi lại ngoi lên.

Nhà thơ, đối với vũ trụ nhân sinh, với hiện thực cuộc sống bộn bề này cần phải “bước vào bên trong”, cần “lặn vào cuộc đời”. Đó là cách nhà thơ thâm nhập một cách sâu sắc nhất vào hiện thực cuộc sống và con người. Có bước vào bên trong, có lặn vào cuộc đời, thì anh mới có thể viết được. Câu thơ của anh mới có sinh khí, mới có hơi thở của sự sống ngoài kia.

“Với vũ trụ nhân sinh, nhà thơ nên bước vào trong mà lại nên đi ra ngoài” nữa. “Ra bên ngoài” hay lại ngoi lên khỏi cuộc đời, khỏi trang giấu trắng để nhà thơ có thời gian suy ngẫm, có điểm tựa tinh thần để rút ra những bài học, những tư tưởng muốn gửi gắm trong tác phẩm. Có như thế, anh mới “quan sát được”. Có như thế, thơ ca anh mới đạt cao siêu. Như vậy, qua hai nhận định tương đồng của Khâu Chấn Thanh và Chế Lan Viên, ta thấy được vai trò, sứ mệnh của nhà thơ: lặn sâu vào cuộc đời để phản ánh hiện thực cuộc sống, đồng thời “ngoi lên”, “bước ra bên ngoài” để quan sát hiện thực, để gửi gắm những tư tưởng cao siêu.

Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống. Đó là một quy luật tất yếu của văn học. Chưa từng thấy một nhà văn nào được đánh giá cao mà lại thoát ly cuộc sống trăm ngàn vẻ, muôn màu sắc này. Nhà văn muốn trở nên chân chính thì phải ướp lên trang văn của mình chút phong trần của đời sống hiện thực. Chính Chế Lan Viên cũng đã từng viết:

“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi, Hãy nhặt những chữ của đời mà góp nên trang”. “Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi Còn một nửa cho mùa thu làm lấy”.

Hãy để cho mùa thu, hãy để cho hiện thực làm hình tượng, làm dấu ấn trong tác phẩm của anh. Nhưng hiện thực cuộc sống đâu phải đơn trị, một chiều. Hiện thực cuộc sống luôn phức tạp, đa đoan với nhiều chiều kích phức tạp của nó. Vì thế chăng mà nhà thơ lại phải “bước chân vào bên trong”, “phải lặn vào trang giấy”, “lặn vào cuộc đời”. Xưa nay, con người ta cứ soi gương và tưởng đó là chân ảnh. Nhưng sự thực không phải vậy, chỉ cần dịch chiếc gương một chút thôi thì hình ảnh trong gương đã khác xa. Hóa ra chân ảnh mà ta nghĩ chỉ là một chuỗi ảo ảnh. Và đôi khi, nhà văn mang sứ mệnh đập vỡ chiếc gương ấy vì sự thật nằm đằng sau chiếc gương. Nhà văn phải đào xới tận cùng cái đáy của xã hội để tìm ra sự thật, để ướp vào trang văn của mình chút “sinh khí”. Để những câu văn được viết nên bằng cả sự trải đời của nhà văn.

Nhưng chỉ có sự trải đời thôi, liệu đã đủ chưa? Chắc hẳn là chưa. Tôi cứ mãi ấn tượng với câu nói của nhà thơ Harold Pinter: “Nhà văn giống như người trần truồng ở giữa chợ, đụng một tí là tử thương”. Va đập với hiện thực, nhà thơ sẽ có những “vết xước”, thậm chí là có những “vết đâm” trong tâm hồn. Quan sát hiện thực từ những nỗi đau ấy, họ “bước ra bên ngoài” và chiêm nghiệm về lẽ đời. Họ gửi gắm những tư tưởng, tình cảm tới độc giả. Văn học thực sự là hoa trong gương, là trăng dưới nước. Chỉ khi bước ra ngoài và “ngoi lên” khỏi hiện thực, nhà văn mới đạt cao siêu.

Nguyễn Du đã lặn sâu vào cuộc sống, vào vũ trụ nhân sinh kết nên Truyện Kiều bằng sự trăn trở:

“Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Vậy những điều “trải qua một cuộc bể dâu”, “những điều trông thấy” là gì đây nếu không phải là một xã hội đểu cáng, giả dối. Một xã hội mà đồng tiền làm công lý, đồng tiên đủ sức “đổi trắng thay đen khó gì “đồng tiền có ma” ấy mà cha Kiều bị bắt. Vì tiền, Kiều phải hi sinh mối tình đầu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha. Vì tiền, Kiều lại phải chịu cảnh nhơ nhuốc nơi chốn thanh lâu. Để rồi lại bị bọn Tú Bà đánh đập không thương tiếc; để rồi nàng phải ngậm ngùi than thở thốt lên: “Thân lươn bao quản lấm đầu”.

Đó là một xã hội mà bọn lưu manh, côn đồ mặc sức hoành hành: “Đồ tế nguyễn, của riêng tây/ Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Ba chữ “sạch sành sanh” tác động trực tiếp tới thị giác và thính giác của chúng ta. Ta không thể tưởng tượng tình người của bọn lưu manh đặt ở đâu. Bọn quan lại thì có hơn kém gì. Hồ Tôn Hiến là một minh chứng tiêu biểu. Một con người mưu mô, đê tiện. Điều gì đã khiến Nguyễn Du có được nhãn quan tinh nhạy như thế? Là gì nếu không phải 10 năm sống kiếp đời gió bụi. Thực sự, cuộc đời chính là trường đại học của những thiên tài.

“Bước vào bên trong”, “lặn vào cuộc đời”, vào vũ trụ nhân sinh, Nguyễn Du đã phát hiện ra bức tranh hiện thực đương thời. Hơn thế, ông còn “bước ra bên ngoài” rồi ngoi lên để thấy “đau đớn lòng”. Ông thương cho những con người tài hoa bạc mệnh, đặc biệt là những người phụ nữ. Ông khóc cho Đạm Tiên, người kĩ nữ xinh đẹp, tài năng, vậy mà “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Đặc biệt, ông dành nhiều nước mắt cho những người phụ nữ mà ông dành nhiều tình thương nhất: Thúy Kiều. Nguyễn Du thương cho mối tính đầu trong sáng mà thủy chung Kim- Kiều, thương cho thân phận “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” của nàng. Hơn thế, có lẽ, ông thật dụng ý khi phát hiện ra quy luật đau đớn:

“Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Mang trong mình tư tưởng tài mệnh tương đố, nhưng Nguyễn Du vẫn tiến bộ mong muốn con người có một tình yêu tự do. Thi sĩ họ Nguyễn khẳng định điều đó qua bước chân “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của nàng. Ông mong muốn công lý sẽ được thi hành trong xã hội kim tiền như thế qua hình ảnh của Từ Hải. Chao ôi! Nhờ bước ra bên ngoài và ngoi lên khỏi trang giấy, Nguyễn Du thực sự là “người có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”.

Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa người, lầu thơ của ông được cất trên một tấm lòng trần gian. Chủ soái của phong trào Thơ mới – Thế Lữ đã dành những ngôn từ thật đẹp cho Xuân Diệu. Có chăng là để khẳng định Xuân Diệu luôn luôn biết cách “bước vào bên trong”, và “lặn vào cuộc đời”. Thâm nhập sâu vào vũ trụ nhân sinh, Xuân Diệu mới nhận ra được thế giới này đẹp thế nào. Nó thực sự là thiên đường trên mặt đất:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”.

Thiên nhiên sao mà ríu rít, tràn đầy sức sống đến vậy. Đâu đâu cũng thấy có cặp, có đôi: ong- bướm, hoa- đồng nội, lá- cành, yến anh- khúc tình si, tháng giêng- cặp môi gần. Có lẽ quyến rũ nhất chính là hình ảnh “tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Tháng giêng là hình ảnh trừu tượng lại được so sánh với “cặp môi gần” hữu hình. Thế mới thấy Xuân Diệu tài tình thế nào. Xưa nay, ta chỉ thấy tháng giêng đẹp, tháng giêng tươi tắn… chứ chưa ai dám khẳng địn tháng giêng ngon bao giờ. “Ngon” vừa gợi cảm, vừa gợi dục tình. Mùa xuân thật sự là bữa tiệc ngon chốn nhân gian.

Lặn sâu vào cuộc đời, Xuân Diệu thấy cảnh vật chỉ tồn tại ở hai trạng thái: thì- sắc. Còn “thì” là còn sinh sắc, hay nó chính là mảnh vườn tình ái. Còn khi hoang sơ, tiêu điều thì đó lại là sa mạc cô liêu. Trong thơ thi sĩ họ Ngô, mảnh vườn tình ái thì nhiều mà sa mạc cô liêu cũng không ít.

“Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân Chim nghe trời rộng dang thêm cánh Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”

Một buổi chiều thu đang cập bến thơ Xuân Diệu theo đúng nghĩa: một buổi chiều buồn. Mây bay gấp gấp mặc kệ gió. Chim bay về tổ ấm để tránh cái lạnh cuối thu. Sương lạnh và mưa xuống. Đặc biệt là hình ảnh “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Con cò không bay mà lại phân vân, hay chính là cái phân vân của lòng người. Chao ôi từ cánh cò của Vương Bột bay mà cánh phân vân đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân có sự cách biệt cả ngàn năm và cả hai thế giới. Phân tích dẫn chứng chưa hết ý

Lặn sâu vào cuộc đời, Xuân Diệu còn thấu cảm nỗi cô đơn của chính mình:

“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”

Không chỉ có vậy, nhà thơ còn “bước ra bên ngoài”, ngoi lên khỏi hiện thực để gửi gắm những tư tưởng cho độc giả. Đó là tư tưởng về thời gian tuyến tính một đi không trở lại:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.

Chắc chưa có ai trước Xuân Diệu có thể khẳng định trong cái mầm xanh của cây cỏ lại có sự úa tàn của thời gian. Thời gian với nhà thơ thực sự nhanh như bóng câu qua cửa sổ, đã qua rồi thì nhất nhất không lấy lại được nữa. Nên “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Vậy thì ta làm gì để thời gian khỏi chảy trôi? Không cưỡng được tốc độ của thời gian, vậy thì hãy gia tăng cường độ sống. Hãy sống thật vội vàng, cuống quýt để cảm nhận từng vẻ đẹp của cuộc sống, con người. Sống cuồng nhiệt với cuộc đời, Xuân Diệu làm sao quên được đường kênh giao cảm tận độ nhất: tình yêu? Với Xuân Diệu, tình yêu là cả nguồn sống, những ai đã yêu và đang yêu phải rải qua mọi cung bậc: yêu, ghét, giận, hờn. Điều quan trọng nhất trong tình yêu là sự giao cảm về tâm hồn. Như vậy, Xuân Diệu đã bước vào hiện thực để thấy bức tranh tươi đẹp, bước ra để thấy con người cần sống như thế nào. Cần điểm thêm một vài ý, dẫn chứng nữa để thấy được sự phổ quát của vấn đề

Sau này, khi đọc “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên, tôi giật mình khi đọc những vần thơ di cảo:

“Tết Mậu Thân 2000 người xuống đồng bằng 30 người trở về”.

Nếu không lặn sâu vào cuộc đời, liệu Chế Lan Viên có đủ dũng khí để đào xới lại hiện thực, đào xới lại hậu quả khốc liệt của chiến tranh. Hóa ra chiến tranh không chỉ là sự hào nhoáng của lý tưởng. Chiến tranh còn là chốn không nhà, không cửa, không đàn ông, không đàn bà, là chốn bi thương, nơi cái chết luôn trực chờ.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã bước ra ngoài hiện thực ấy, quan sát cảnh ngộ của 30 người trở về, có người giúp vợ con bán nước vỉa hè, huy chương đầy nhà nhưng vẫn không đủ sống. Nhà thơ tự vấn lương tâm rằng: tại tôi, tại tôi và tại tôi. Chính những vần thơ hào hùng cổ vũ của tôi đã khiến anh không thể tiếc đời mình vào chiến trường. Giờ đây những vần thơ ấy đâu chỉ giúp anh khỏi đói. Những tấm huy chương óng ánh kia liệu có giúp được anh có cuộc sống đủ đầy bên vợ con? Nếu không lặn sâu vào cuộc sống, ngoi lên từ cuộc đời, liệu Chế Lan Viên có những tư tưởng “đạt cao siêu” như vậy?

“Sống rồi hãy viết” (Nam Cao). Nhận định của Khâu Chấn Thanh và Chế Lan Viên thật đúng đắn và xác đáng khi đã nêu lên vai trò của người làm thơ. Nhà thơ cần “mở hồn ra và đón lấy những rung động của đời”, từ đó mới quan sát và nâng lên tầm tư tưởng cho thi phẩm. Bạn đọc hãy theo hương mà tìm hoa, theo hiện thực rồi tìm ra tư tưởng. Đọc bằng trái tim và khối óc, đó là trách nhiệm của độc giả.

Nghị luận: Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim (Chế Lan Viên)

Từ khóa » Giải Thích Vạt áo Của Triệu Nhà Thơ