Lào – Wikipedia Tiếng Việt

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Tên bản ngữ
  • ສາທາລະນະລັດ ປະຊາທິປະໄຕ ປະຊາຊົນລາວ (tiếng Lào)Sathalanalat Paxathipatai Paxaxôn Lao(Latinh hóa)République démocratique populaire lao (tiếng Pháp)
Quốc kỳ Lào Quốc kỳ Quốc huy Lào Quốc huy
Tiêu ngữ: "ສັນຕິພາບ ເອກະລາດ ປະຊາທິປະໄຕ ເອກະພາບ ວັດທະນະຖາວອນ"("Hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng")
Quốc ca: "Pheng Xat Lao"(tiếng Việt: "Bài ca của người Lào)
Hiện bản đồ địa cầuHiện bản đồ Đông Nam ÁVị trí của Lào (xanh lục)

ở ASEAN (xám đậm)  –  [Chú giải]

Tổng quan
Thủ đôvà thành phố lớn nhấtViêng Chăn17°58′B 102°36′Đ / 17,967°B 102,6°Đ / 17.967; 102.600
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Lào
• Ngôn ngữ được công nhậnTiếng Pháp[1]
Ngôn ngữ được nói
  • Lào
  • Hmong
  • Khơ Mú
  • Pháp
Sắc tộc (2015[3]) Danh sách sắc tộc
  • 53,2% Người Lào
  • 11% Người Khơ Mú
  • 9,2% Người H'Mông
  • 3,4% Người Phouthai
  • 3,1% Người Thái
  • 2,5% Người Makong
  • 2,2% Người Katang
  • 2,0% Người Lự
  • 1,8% Người Akha
  • 1,3% Người Việt
  • 10,3% khác
Tôn giáo chính
  • 66,0% Phật giáo
  • 30,7% Tín ngưỡng dân gian Thái
  • 1,5% Kitô giáo
  • 1,8% không tôn giáo[2]
Tên dân cưNgười Lào
Chính trị
Chính phủĐơn nhất đơn đảng xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Marx-Lenin
• Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thongloun Sisoulith
• Thủ tướng Sonexay Siphandone
• Chủ tịch Quốc hội Saysomphone Phomvihane
• Bí thư Trung ương, Phó Chủ tịch nước Pany Yathotou
Lập phápQuốc hội
Lịch sử
Thành lập
• Vương quốc Lan Xang 1353–1707
• Vương quốc Luang Phrabang, Viêng Chăn & Champasak 1707–1778
• Chư hầu của Xiêm 1778–1893
• Lào thuộc Pháp 1893–1953
• Thống nhất vương quốc 11 tháng 5 năm 1947
• Độc lập từ Pháp 22 tháng 10 năm 1953
• Chế độ quân chủ bị bãi bỏ 2 tháng 12 năm 1975
• Hiến pháp hiện hành 14 tháng 8 năm 1991
Địa lý
Diện tích  
• Tổng cộng237.955 km2 (hạng 82)91.875 mi2
• Mặt nước (%)2
Dân số 
• Ước lượng 20237.588.163 (hạng 105)
• Điều tra 2015[4]6.492.228
• Mật độ26,7/km2 (hạng 151)77,5/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2023
• Tổng số74,205 tỷ đô la Mỹ[5] (hạng 106)
• Bình quân đầu người9.787 đô la Mỹ[5] (hạng 125)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2023
• Tổng số14,244 tỉ đô la Mỹ[6] (hạng 145)
• Bình quân đầu người1.878 đô la Mỹ[6] (hạng 152)
Đơn vị tiền tệKíp (₭) (LAK)
Thông tin khác
Gini? (2012)36,4[7]trung bình
HDI? (2022)Tăng 0,620[8]trung bình · hạng 139
Múi giờUTC+7 (ICT)
Cách ghi ngày thángntn
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+856
Mã ISO 3166LA
Tên miền Internet.la
  1. Bao gồm hơn 100 sắc tộc nhỏ hơn.

Lào (tiếng Lào: ລາວ, phát âm tiếng Lào: [láːw], Lao), tên chính thức là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (tiếng Lào: ສາທາລະນະລັດ ປະຊາທິປະໄຕ ປະຊາຊົນລາວ, chuyển tự Sathalanalat Paxathipatai Paxaxon Lao, sǎːtʰáːlanalat pásáːtʰipátàj pásáːsón láːw), là quốc gia nội lục có chủ quyền tại bán đảo Đông Dương, Đông Nam Á, phía Tây Bắc giáp với Myanmar và Trung Quốc, phía Đông giáp với Việt Nam, phía Đông Nam giáp với Campuchia, phía Tây và Tây Nam giáp với Thái Lan.[9]

Lào là nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa độc đảng, theo chủ nghĩa Marx và do Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền. Thủ đô của Lào, đồng thời là thành phố lớn nhất, là Viêng Chăn. Các thành thị lớn khác là Luang Prabang, Savannakhet, và Pakse. Đây là một quốc gia đa dân tộc, người Lào chiếm khoảng 60% dân số, họ chủ yếu cư trú tại vùng thấp và chiếm ưu thế về chính trị và văn hóa. Các dân tộc Môn-Khmer, H'Mông và dân tộc bản địa vùng cao khác chiếm khoảng 40% dân số và sống tại khu vực đồi núi.

Quốc gia Lào hiện tại có nguồn gốc lịch sử và văn hóa từ Vương quốc Lan Xang.[10] Do vị trí địa lý "trung tâm" ở Đông Nam Á, vương quốc này trở thành một trung tâm thương mại trên đất liền, trau dồi về mặt kinh tế cũng như văn hóa. Sau một giai đoạn xung đột nội bộ, Lan Xang chia thành 3 vương quốc Luang Phrabang, Viêng Chăn và Champasak cho đến năm 1893 khi chúng hợp thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Pháp. Lào được tự trị vào năm 1949 và độc lập vào năm 1953 với chính thể quân chủ lập hiến. Cuộc nội chiến Lào kết thúc vào năm 1975 với kết quả là chấm dứt chế độ quân chủ, phong trào Pathet Lào lên nắm quyền. Lào phụ thuộc lớn vào viện trợ quân sự và kinh tế từ Liên Xô cho đến năm 1991.

Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Lào vẫn là một trong những nước có tình trạng tham nhũng thuộc mức trung bình cao trên thế giới. Điều này đã ngăn cản đầu tư từ nước ngoài và tạo ra những vấn đề lớn với quy định của pháp luật, bao gồm cả khả năng của quốc gia để thực thi hợp đồng và quy định kinh doanh. Điều này đã góp phần làm cho khoảng 1/3 dân số Lào hiện đang sống dưới mức nghèo khổ theo mức quốc tế (dưới mức 1,25 USD/ngày). Kinh tế Lào là một nền kinh tế đang phát triển với thu nhập thấp, với một trong những quốc gia có bình quân thu nhập đầu người hàng năm thấp nhất trên thế giới và một trong các nước kém phát triển nhất. Năm 2014, Lào chỉ xếp hạng 141 trên Chỉ số Phát triển Con người (HDI). Theo Chỉ số đói nghèo toàn cầu (2015), Lào đứng thứ 29 trong danh sách 52 quốc gia có tình trạng đói nghèo nhất.

Chiến lược phát triển của Lào dựa trên sản xuất thủy điện và bán điện năng sang các quốc gia láng giềng, cũng như trở thành một quốc gia liên kết giao thương lục địa.[11] Ngoài ra, lĩnh vực khai mỏ của Lào cũng khá phát triển, quốc gia này được đánh giá là một trong các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương.[12][13]

Lào là thành viên của Hiệp định thương mại châu Á - Thái Bình Dương (APTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Hội nghị cấp cao Đông Á và Cộng đồng Pháp ngữ. Lào xin trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 1997; vào ngày 2 tháng 2 năm 2013, Lào đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này.[14]

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ nguyên của từ Lào chưa được biết một cách rõ ràng, song nó có thể liên hệ với các bộ tộc được gọi là Ai Lao (tiếng Lào: ອ້າຍລາວ, tiếng Isan: อ้ายลาว, tiếng Trung: 哀牢; bính âm: Āiláo) xuất hiện trong các ghi chép từ thời nhà Hán tại khu vực mà nay là tỉnh Vân Nam.

Cái tên Laos trong tiếng Anh bắt nguồn từ Laos trong tiếng Pháp. Đế quốc thực dân Pháp thống nhất vương quốc Lào vào Liên bang Đông Dương vào năm 1893 và đặt tên quốc gia theo tên của nhóm dân tộc chiếm đa số, đó là người Lào.

Trong tiếng Lào, nước này được gọi là Muang Lao (ເມືອງ ລາວ) hoặc Pathet Lao (ປະ ເທດ ລາວ), cả hai đều có nghĩa là Quốc gia Lào.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Lịch sử Lào

Sơ khai

[sửa | sửa mã nguồn]

Phát hiện một sọ người cổ đại trong hang Tam Pa Ling thuộc Dãy Trường Sơn tại miền bắc Lào; hộp sọ có niên đại ít nhất là 46.000 năm, là hoá thạch người hiện đại có niên đại xa nhất được phát hiện tại Đông Nam Á.[15] Các đồ tạo tác bằng đá, trong đó có đồ theo kiểu văn hoá Hoà Bình, được phát hiện trong các di chỉ có niên đại từ thế Canh Tân muộn tại miền bắc Lào.[16] Bằng chứng khảo cổ học cho thấy xã hội nông nghiệp phát triển trong thiên niên kỷ 4 TCN. Các bình và các loại đồ khác được chôn cho thấy một xã hội phức tạp, có các đồ vật bằng đồng xuất hiện khoảng năm 1500 TCN, và các công cụ đồ sắt được biết đến từ năm 700 TCN. Thời kỳ lịch sử nguyên thủy có đặc điểm là tiếp xúc với các nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Theo bằng chứng ngôn ngữ học và lịch sử khác, các bộ lạc nói tiếng Thái di cư về phía tây nam đến các lãnh thổ Lào và Thái Lan ngày nay từ Quảng Tây khoảng giữa các thế kỷ 8 và 9.[17]

Lan Xang

[sửa | sửa mã nguồn]

Lào có nguồn gốc lịch sử từ Vương quốc Lan Xang (Triệu Voi) được Phà Ngừm thành lập vào thế kỷ XIV,[18]:223. Phà Ngừm là hậu duệ của một dòng dõi quân chủ Lào, có tổ tiên là Mông Bì La Các. Ông lập Phật giáo Thượng toạ bộ làm quốc giáo và khiến Lan Xang trở nên thịnh vượng. Trong vòng 20 năm hình thành, vương quốc bành trướng về phía đông đến Chăm Pa và dọc Dãy Trường Sơn. Tuy nhiên, các triều thần không chịu được tính tàn nhẫn của ông nên họ đày ông đến khu vực mà nay thuộc tỉnh Nan của Thái Lan vào năm 1373,[19]. Con trai cả của Phà Ngừm là Oun Heuan đăng cơ với tước hiệu Samsenthai, Lan Xang trở thành một trung tâm mậu dịch quan trọng trong thời gian 43 năm Samsenthai cai trị. Sau khi Samsenthai mất vào năm 1421, Lan Xang sụp đổ thành các phe phái xung khắc trong 100 năm sau đó.

Năm 1520, Photisarath đăng cơ và dời đô từ Luang Prabang đến Viêng Chăn nhằm tránh Miến Điện xâm chiếm. Setthathirat trở thành quốc vương vào năm 1548 sau khi cha ông bị ám sát, ông ra lệnh xây dựng That Luang, công trình hiện trở thành biểu trương quốc gia của Lào. Setthathirat mất tích khi trở về sau một cuộc viễn chinh sang Cao Miên, Lan Xang bắt đầu suy yếu nhanh chóng.

Phải đến năm 1637, khi Sourigna Vongsa đăng cơ, Lan Xang mới bành trướng biên giới hơn nữa. Thời gian Sourigna Vongsa cai trị thường được đánh giá là thời hoàng kim của Lào. Đến khi ông mất, Lan Xang không có người kế vị và bị phân thành ba thân vương quốc: Luang Phrabang, Viêng Chăn và Champasak. Từ năm 1763 đến năm 1769, các đội quân Miến Điện tràn vào miền Bắc Lào và sáp nhập Luang Phrabang, trong khi Champasak cuối cùng nằm dưới quyền bá chủ của Xiêm La.

Chao Anouvong được người Xiêm phong làm vua chư hầu của Viêng Chăn. Ông khuyến khích phục hưng mỹ thuật và văn học Lào, cải thiện quan hệ với Luang Phrabang. Chao Anouvong tiến hành khởi nghĩa chống Xiêm La vào năm 1826, kết quả là thất bại và Viêng Chăn bị cướp phá.[20]

Một chiến dịch quân sự của Xiêm La tại Lào vào năm 1876 được một nhà quan sát Anh mô tả là đã "chuyển đổi thành một cuộc tập kích săn nô lệ quy mô lớn".[21]

Pháp thuộc

[sửa | sửa mã nguồn]
Binh sĩ Lào bản địa trong vệ binh thuộc địa Pháp, k. 1900.

Đến cuối thế kỷ 19, Luang Prabang bị Quân Cờ Đen từ Trung Quốc sang cướp phá.[22] Pháp giải cứu Quốc vương Oun Kham và đưa Luang Phrabang thành một xứ bảo hộ. Ngay sau đó, Vương quốc Champasak và lãnh thổ Viêng Chăn cũng trở thành xứ bảo hộ của Pháp. Quốc vương Sisavang Vong của Luang Phrabang trở thành quân chủ của một nước Lào thống nhất và Viêng Chăn lại trở thành thủ đô.

Lào chưa từng quan trọng đối với Pháp,[23] đây chỉ là một vùng đệm giữa Thái Lan chịu ảnh hưởng của Anh với Trung Kỳ và Bắc Kỳ vốn quan trọng hơn về kinh tế. Trong thời gian cai trị, người Pháp đưa vào hệ thống sưu dịch, buộc mọi nam giới tại Lào đóng góp 10 ngày lao động chân tay mỗi năm cho chính phủ thực dân. Lào sản xuất thiếc, cao su và cà phê, song chưa từng chiếm hơn 1% xuất khẩu của Đông Dương thuộc Pháp. Đến năm 1940, có khoảng 600 công dân Pháp sống tại Lào.[24] Dưới sự cai trị của Pháp, người Việt Nam được khuyến khích di cư sang Lào, những người thực dân Pháp nhìn nhận như là một giải pháp hợp lý cho một vấn đề thực tế. Đến năm 1943, dân số Việt Nam chiếm gần 40.000 người, chiếm đa số ở các thành phố lớn nhất của Lào và được hưởng quyền bầu lãnh đạo của họ. Kết quả là 53% dân số Viêng Chăn, 85% người Thakhek và 62% người Pakse là người Việt Nam, ngoại trừ Luang Phrabang nơi dân số chủ yếu là người Lào. Cuối năm 1945, Pháp thậm chí còn lập kế hoạch đầy tham vọng để di chuyển dân số Việt Nam sang ba vùng trọng điểm, tức là vùng đồng bằng Viêng Chăn, vùng Savannakhet, cao nguyên Bolaven. Nếu không, theo Martin Stuart-Fox, Lào có thể đã mất quyền kiểm soát đất nước của họ.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng Pháp Vichy, Thái Lan, Đế quốc Nhật Bản, Pháp Tự do, Trung Quốc lần lượt chiếm đóng Lào. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, một nhóm dân tộc chủ nghĩa tuyên bố Lào độc lập, thủ đô là Luang Prabang song đến ngày 7 tháng 4 năm 1945 binh sĩ Nhật Bản chiếm đóng thành phố.[25] Người Nhật nỗ lực ép buộc Sisavang Vong tuyên bố Lào độc lập song đến ngày 8 tháng 4 cùng năm, ông chỉ tuyên bố Lào chấm dứt là lãnh thổ bảo hộ của Pháp. Sau đó ông bí mật phái Thân vương Kindavong đại diện cho Lào trong Đồng Minh và Hoàng tử Sisavang làm đại diện bên người Nhật.[25] Khi Nhật Bản đầu hàng, một số nhân vật dân tộc chủ nghĩa tại Lào (bao gồm Thân vương Phetsarath) tuyên bố Lào độc lập, song đến đầu năm 1946, người Pháp tái chiếm đóng và trao quyền tự trị hạn chế cho Lào.

Trong Chiến tranh Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập tổ chức kháng chiến Pathet Lào. Pathet Lào bắt đầu chiến tranh chống lực lượng thực dân Pháp với viện trợ của Việt Minh. Năm 1950, Pháp trao cho Lào quyền bán tự trị với vị thế một "nhà nước liên kết" trong Liên hiệp Pháp. Pháp duy trì quyền kiểm soát thực tế cho đến ngày 22 tháng 10 năm 1953 thì Pháp quyết định trao trả chủ quyền trong hòa bình, khi Lào độc lập hoàn toàn với chính thể quân chủ lập hiến.

Độc lập

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiệp định Genève năm 1954 kết thúc Chiến tranh Đông Dương. Năm 1955, Hoa Kỳ lập một đơn vị đặc biệt nhằm thay thế Pháp ủng hộ Lục quân Hoàng gia Lào chống Pathet Lào cộng sản.

Năm 1960, giao tranh bùng phát giữa Lục quân Hoàng gia Lào và các du kích Pathet Lào được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Liên Xô hậu thuẫn. Một chính phủ lâm thời đoàn kết dân tộc thứ nhì được Thân vương Souvanna Phouma thành lập vào năm 1962 song thất bại, và tình hình dần xấu đi và biến thành nội chiến quy mô lớn giữa chính phủ Hoàng gia Lào và Pathet Lào. Pathet Lào được quân đội và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ủng hộ.

Di chỉ Muang Khoun bị bom Mỹ tàn phá trong thập niên 1960.

Lào giữ vai trò quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam do Quân đội nhân dân Việt Nam tiến vào và nắm giữ nhiều lãnh thổ của Lào để mở đường tiếp tế cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Đáp lại, Hoa Kỳ oanh tạc các vị trí của quân đội Việt Nam, ủng hộ các lực lượng chống cộng sản chính quy và không chính quy tại Lào và hỗ trợ quân Việt Nam Cộng hòa xâm nhập Lào.

Năm 1968, Quân đội nhân dân Việt Nam phát động tấn công giúp Pathet Lào chống lại lực lượng Hoàng gia Lào. Cuộc tấn công này khiến lực lượng Quân đội Hoàng gia Lào tan rã ở mức độ lớn, thế lực chống cộng chính tại Lào chuyển sang lực lượng H'Mông dưới quyền Vàng Pao do Hoa Kỳ và Thái Lan ủng hộ.

Cuộc oanh tạc trên không chống lại Pathet Lào và Quân đội nhân dân Việt Nam đã được thực hiện bởi Hoa Kỳ để ngăn chặn sự sụp đổ của Chính phủ Hoàng gia Lào và từ chối việc sử dụng Đường mòn Hồ Chí Minh để tấn công lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1964 đến năm 1973, Hoa Kỳ ném hai triệu tấn bom tại Lào, gần bằng lượng bom họ ném tại châu Âu và châu Á trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khiến Lào trở thành quốc gia bị ném bom nặng nề nhất trong lịch sử nếu so với dân số; The New York Times lưu ý rằng "mỗi người Lào nhận gần một tấn bom."[26] Khoảng 80 triệu quả bom không phát nổ và vẫn còn rải rác khắp đất nước, khiến nhiều vùng đất rộng lớn không thể canh tác và làm thiệt mạng hàng chục người Lào mỗi năm.[27]

Năm 1975, Pathet Lào cùng Quân đội nhân dân Việt Nam lật đổ chính phủ Vương quốc Lào, buộc Quốc vương Savang Vatthana thoái vị vào ngày 2 tháng 12 năm 1975. Từ 20.000 đến 70.000 người Lào chết trong nội chiến.[28][29][30][31]

Vào ngày 2 tháng 12 năm 1975, sau khi nắm quyền kiểm soát đất nước, chính phủ Pathet dưới quyền Kaysone Phomvihane đổi tên nước thành Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và ký kết các thỏa thuận cho Việt Nam quyền được bố trí lực lượng vũ trang và bổ nhiệm các cố vấn hỗ trợ giám sát đất nước. Trong một bài báo được xuất bản năm 1990, nhà hoạt động nhân quyền Hmong Vang Pobzeb đã viết rằng Lào là lãnh thổ thuộc địa của Việt Nam kể từ ngày 2 tháng 12 năm 1975 và được chỉ đạo bởi Việt Nam trong các vấn đề nội bộ và đối ngoại. Mối quan hệ chặt chẽ giữa Lào và Việt Nam đã được chính thức hóa thông qua một hiệp ước được ký năm 1977, từ đó không chỉ cung cấp hướng dẫn cho chính sách đối ngoại của Lào mà còn là cơ sở cho sự tham gia của Việt Nam ở tất cả các cấp chính trị và kinh tế Lào. Năm 1979, Việt Nam yêu cầu Lào kết thúc quan hệ với Trung Quốc, khiến Lào bị Trung Quốc, Hoa Kỳ và các quốc gia khác cô lập về thương mại. Xung đột giữa phiến quân người H'Mông với Pathet Lào và Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục sau nội chiến tại các khu vực trọng yếu của Lào. Năm 1979 có 50.000 quân Việt Nam đóng quân tại Lào và có tới 6.000 quan chức dân sự Việt Nam, trong đó có 1.000 người trực tiếp gắn bó với các bộ ở Viêng Chăn.

Cuộc xung đột giữa phiến quân H'mong và Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như Pathet Lào do Việt Nam hậu thuẫn tiếp tục tại các khu vực trọng yếu của Lào, bao gồm cả Vùng quân sự khép kín Saysaboune, Khu quân sự khép kín Xaisamboune gần tỉnh Viêng Chăn và tỉnh Xieng Khouang. Từ năm 1975 đến năm 1996, Hoa Kỳ tái định cư khoảng 250.000 người tị nạn Lào từ Thái Lan, trong đó có 130.000 người H'Mông.[32] (Xem: Khủng hoảng tị nạn Đông Dương)

Ngày 2 tháng 12 năm 2015, Lào kỷ niệm 40 năm thành lập nước.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Sông Mê Kông chảy qua Luang Prabang.
Bài chi tiết: Địa lý Lào

Lào là quốc gia nội lục duy nhất tại Đông Nam Á[33], hầu hết lãnh thổ nắm giữa vĩ độ 14° và 23° Bắc, và kinh độ 100° và 108° Đông. Lào có cảnh quan rừng rậm, hầu hết là các dãy núi gồ ghề, đỉnh núi cao nhất là Phou Bia cao 2.818 m, cùng một số đồng bằng và cao nguyên. Sông Mê Kông tạo thành một đoạn dài biên giới phía tây với Thái Lan, còn dãy Trường Sơn tạo thành hầu hết biên giới phía đông với Việt Nam, dãy núi Luangprabang tạo thành biên giới tây bắc với các vùng cao Thái Lan. Có hai cao nguyên là Xiangkhoang tại phía bắc và Bolaven tại phía nam. Lào có khí hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa.[34] Lào có thể được phân thành ba khu vực địa lý: bắc, trung và nam.[35]

Mùa mưa riêng biệt và kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, tiếp đến là mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4. Theo truyền thống địa phương, một năm có ba mùa là mùa mưa, mùa lạnh và mùa nóng, do hai tháng cuối của mùa khô nóng hơn đáng kể so với bốn tháng trước đó. Thủ đô của Lào là Viêng Chăn, các thành thị lớn khác là Luang Prabang, Savannakhet và Pakse.

Năm 1993, chính phủ Lào dành ra 21% diện tích đất cho bảo tồn môi trường sống tự nhiên.[36] Đây là một trong các quốc gia thuộc khu vực trồng thuốc phiện "Tam giác Vàng". Theo cuốn sách thực tế của UNODC vào tháng 10 năm 2007 về trồng trọt thuốc phiện ở Đông Nam Á, diện tích trồng cây thuốc phiện là 15 km vuông, giảm 3 km vuông so với năm 2006.

Lào có thể được coi là bao gồm ba khu vực địa lý: bắc, trung và nam.

Hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Lào được phân thành 17 tỉnh (khoueng) và thủ đô Viêng Chăn. Tỉnh mới nhất là Xaisomboun, được thành lập vào năm 2013. Các tỉnh được chia thành huyện (muang) rồi đến bản (ban). Một bản "đô thị" về cơ bản là một thị trấn.[35]

Tỉnh Thủ phủ Diện tích (km²) Dân số 2000
0  Lào Thủ đô Viêng Chăn 3.920 726.000
1 Attapeu Attapeu (Samakkhixay) 10.320 114.300
2 Bokeo Ban Houayxay (Houayxay) 6.196 149.700
3 Bolikhamxai Paksan (Paksan) 14.863 214.900
4 Champasak Pakse (Pakse) 15.415 575.600
5 Hua Phan Xam Neua (Xamneua) 16.500 322.200
6 Khammuane Thakhek (Thakhek) 16.315 358.800
7 Luang Namtha Luang Namtha (Namtha) 9.325 150.100
8 Luang Prabang Luang Prabang (Louangprabang) 16.875 408.800
9 Oudomxay Xay (Xay) 15.370 275.300
10 Phongsaly Phongsali (Phongsaly) 16.270 199.900
11 Xayabury Xayabury (Xayabury) 16.389 382.200
12 Salavan Salavan (Salavan) 10.691 336.600
13 Savannakhet Kaysone Phomvihane (trước là Khanthaboury) 21.774 721.500
14 Sekong Sekong (Lamarm) 7.665 83.600
15 Tỉnh Viêng Chăn Phonhong (Phonhong) 15.927 373.700
16 Xiengkhuang Phonsavan (hay Pek) 15.880 229.521
17 Xaisomboun Xaisomboun 4.506 62.000

Môi trường

[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm thông tin: Nạn phá rừng ở Lào

Lào ngày càng gặp nhiều vấn đề về môi trường, với nạn phá rừng là một vấn đề đặc biệt quan trọng như mở rộng khai thác thương mại rừng, kế hoạch bổ sung các công trình thủy điện, nhu cầu nước ngoài cho động vật hoang dã và lâm sản ngoài gỗ cho thực phẩm và thuốc truyền thống và dân số tạo ra áp lực ngày càng tăng.

Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc cảnh báo: "Bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên ở Lào là yếu tố quan trọng để giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế."

Vào tháng 4 năm 2011, tờ The Independent đưa tin Lào đã bắt đầu làm việc trên đập Xayaburi gây tranh cãi trên sông Mê Kông mà không được chính thức phê duyệt. Các nhà môi trường nói rằng đập sẽ ảnh hưởng xấu đến 60 triệu người và Campuchia và Việt Nam - quan ngại về dòng chảy của nước - chính thức phản đối dự án. Ủy ban sông Mê Kông, một cơ quan liên chính phủ khu vực được thiết kế để thúc đẩy "quản lý bền vững" dòng sông, nổi tiếng với cá da trơn khổng lồ của nó, đã thực hiện một nghiên cứu cảnh báo nếu Xayaburi và các kế hoạch tiếp theo đi trước, nó "cơ bản sẽ làm suy yếu sự phong phú, năng suất và sự đa dạng của các nguồn tài nguyên cá Mekong ". Quốc gia láng giềng Việt Nam cảnh báo rằng con đập sẽ gây hại cho đồng bằng sông Cửu Long, nơi có gần 20 triệu người và cung cấp khoảng 50% sản lượng gạo của Việt Nam và hơn 70% sản lượng thủy sản và trái cây.

Milton Osborne, Tham dự viên tại Viện Chính sách Quốc tế Lowy, người đã nghiên cứu chuyên sâu về sông Mê Kông, cảnh báo: "Kịch bản tương lai của sông Mê Kông không còn là nguồn của cá."

Khai thác gỗ bất hợp pháp cũng là một vấn đề lớn. Các nhóm môi trường ước tính 500.000 mét khối đang bị các công ty hợp tác với Quân đội Nhân dân Lào khai thác và sau đó vận chuyển từ Lào sang Việt Nam hàng năm, với hầu hết đồ nội thất cuối cùng được xuất khẩu sang các nước phương Tây. Một cuộc điều tra của chính phủ năm 1992 chỉ ra rằng rừng chiếm khoảng 48 phần trăm diện tích đất của Lào. Độ che phủ rừng giảm xuống còn 41% trong một cuộc khảo sát năm 2002. Chính quyền Lào đã nói rằng, trên thực tế, độ che phủ của rừng có thể không quá 35% do các dự án phát triển như thủy điện.

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Chính trị Lào Tổng Bí thư, Chủ tịch nướcThongloun SisoulithThủ tướngSonexay Siphandone

Lào là một nhà nước xã hội chủ nghĩa công khai tán thành chủ nghĩa cộng sản. Chính đảng hợp pháp duy nhất là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước, người này đồng thời là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Thủ tướng là một thành viên trong Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Các chính sách của chính phủ được Đảng xác định thông qua Bộ Chính trị gồm 11 thành viên và Ủy ban Trung ương Đảng gồm 61 thành viên. Các quyết định quan trọng của chính phủ do Hội đồng Bộ trưởng xem xét. Việt Nam duy trì ảnh hưởng đáng kể đến Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.

Hiến pháp đầu tiên của Lào được ban hành vào ngày 11 tháng 5 năm 1947, trong đó tuyên bố Lào là một nhà nước độc lập trong Liên hiệp Pháp. Hiến pháp sửa đổi vào ngày 11 tháng 5 năm 1957 bỏ qua đề cập đến Liên hiệp Pháp, song vẫn còn quan hệ mật thiết về giáo dục, y tế, kỹ thuật với cường quốc thực dân cũ. Văn kiện năm 1957 bị bãi bỏ vào ngày 3 tháng 12 năm 1975, khi thành lập chế độ mới theo chủ nghĩa cộng sản. Một hiến pháp mới được thông qua vào năm 1991, trong đó xác định "vai trò lãnh đạo" của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.

Cuộc bầu cử quốc hội 1992 bầu ra 85 đại biểu, số đại biểu tăng lên 99 vào năm 1997, 115 vào năm 2006 và 132 vào năm 2011.

Quân đội Nhân dân Lào có quy mô nhỏ, ít ngân sách và không đủ nguồn lực; sứ mệnh của họ tập trung vào an ninh biên giới và nội địa, chủ yếu là chống lại các nhóm nổi dậy người H'Mông và đối lập khác. Cùng với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và chính phủ, Quân đội Nhân dân Lào là trụ cột thứ ba của bộ máy nhà nước, và được dự kiến ngăn chặn bất ổn chính trị và dân sự hoặc tình huống khẩn cấp tương tự. Không tồn tại mối đe dọa từ bên ngoài đối với Lào, và Quân đội Nhân dân Lào duy trì quan hệ mạnh mẽ với Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngoại giao

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Quan hệ ngoại giao của Lào

Kinh tế

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Kinh tế Lào

Là một quốc gia không giáp biển, lại có cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện và phần lớn lực lượng lao động thiếu kĩ năng, Lào vẫn là một trong những nước nghèo nhất Đông Nam Á. Kinh tế Lào phụ thuộc nhiều vào đầu tư và thương mại với các nước láng giềng. Năm 2009, dù Lào về chính thức vẫn là nhà nước cộng sản, song chính quyền Obama tuyên bố Lào không còn là nước Marx–Lenin và bỏ lệnh cấm các công ty Lào nhận tài chính từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hoa Kỳ (Ex-Im Bank).[37] Năm 2011, Sở Giao dịch Chứng khoán Lào bắt đầu giao dịch. Năm 2016, Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào kinh tế Lào, tính luỹ kế họ đã đầu tư 5,395 tỷ USD trong giai đoạn 1989–2014, xếp thứ nhì và thứ ba trong giai đoạn này là Thái Lan (4,489 tỷ USD) và Việt Nam (3,108 tỷ USD).[38].

Nông nghiệp tự cấp vẫn chiếm đến một nửa GDP và tạo 80% số việc làm. Chỉ có 4,01% diện tích lãnh thổ là đất canh tác và chỉ 0,34% diện tích lãnh thổ được sử dụng làm đất trồng trọt lâu dài,[39] đây là tỷ lệ thấp nhất trong Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng. Lúa chi phối nông nghiệp Lào do khoảng 80% diện tích đất canh tác dành cho trồng lúa.[40] Khoảng 77% nông hộ Lào tự cung cấp gạo.[41] Sản lượng lúa tăng 5% mỗi năm từ năm 1990 đến năm 2005 nhờ cải tiến về giống và cải cách kinh tế,[42] Lào lần đầu đạt được cân bằng ròng về xuất nhập khẩu gạo vào năm 1999.[43] Lào có lẽ có nhiều giống gạo nhất trong Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng. Từ năm 1995, chính phủ Lào làm việc cùng Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế tại Philippines nhằm thu thập các mẫu hạt của hàng nghìn giống lúa tại Lào.[44]

Chợ sáng tại Viêng Chăn.

Kinh tế Lào nhận được viện trợ phát triển từ IMF, ADB và các nguồn quốc tế khác, cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài về phát triển xã hội, công nghiệp thủy điện và khai mỏ (đáng chú ý nhất là đồng và vàng). Du lịch là ngành tăng trưởng nhanh chóng.[45]

Lào giàu tài nguyên thiên nhiên, song phải nhập khẩu dầu khí. Luyện kim là một ngành quan trọng và chính phủ hy vọng thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển các mỏ than, vàng, bô xít, thiếc, đồng và kim loại có giá trị khác. Ngoài ra, nguồn tài nguyên nước phong phú và địa hình núi non cho phép Lào sản xuất và xuất khẩu thủy điện với số lượng lớn. Lào xuất khẩu điện sang Thái Lan và Việt Nam.[46]

Ngành du lịch Lào tăng trưởng nhanh chóng, đạt gần 4,7 triệu du khách quốc tế trong năm 2015, đông nhất là khách Thái Lan (2,32 triệu), Việt Nam (1,19 triệu) và Trung Quốc (0,51 triệu)[47] Du lịch đóng góp 679,1 triệu USD cho GDP vào năm 2010, dự tính tăng lên 1,5857 tỷ USD vào năm 2020. Năm 2010, 1/10,9 số công việc là trong lĩnh vực du lịch. Thu nhập xuất khẩu từ du khách quốc tế và hàng hóa du lịch dự kiến tăng lên 484,2 triệu USD vào năm 2020, chiếm 12,5% xuất khẩu.[48] Luang Prabang với văn hóa Phật giáo và kiến trúc thuộc địa, cùng tổ hợp đền cổ Khmer Wat Phu là các di sản thế giới UNESCO, Cánh đồng Chum cũng được đề cử.

Các sân bay chính của Lào là sân bay quốc tế Wattay tại Viêng Chăn và sân bay quốc tế Luang Prabang, sân bay quốc tế Pakse cũng có một vài đường bay quốc tế. Hãng hàng không quốc gia của Lào là Lao Airlines. Các hãng hàng không khác có đường bay đến Lào là Bangkok Airways, Vietnam Airlines, AirAsia, Thai Airways International, China Eastern Airlines và Silk Air. Phần lớn nước Lào thiếu cơ sở hạ tầng đẩy đủ. Lào chỉ có một đoạn đường sắt ngắn nối Viêng Chăn với Thái Lan qua cầu Hữu nghị Thái-Lào. Các tuyến đường bộ liên kết các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là Đường 13, được nâng cấp trung thời gian qua, song các làng nằm xa các đường chính chỉ có thể tiếp cận bằng đường mòn. Tồn tại hạn chế về viễn thông, song điện thoại di động trở nên phổ biến tại các trung tâm đô thị. Trong nhiều khu vực nông thôn, ít nhất cũng có điện năng cục bộ. Xe Songthaew được sử dụng để vận chuyển đường dài và địa phương.

Tại Lào, người Hoa là thế lực chi phối nền kinh tế. Hiện Lào có khoảng 13 đặc khu kinh tế của Trung Quốc, trong đó có Đặc khu Kinh tế Tam giác vàng (GTSEZ) rộng 10.000 hecta. Paul Chamber, giám đốc nghiên cứu của Viện nghiên cứu các vấn đề Đông Nam Á tại Thái Lan, cho biết: "Phía bắc nước Lào giờ đây đã gần như bị biến thành một đất nước Trung Quốc mới". Vào năm 2014, nhiều người dân Lào sống tại GTSEZ đã biểu tình chống lại việc chính quyền giải tỏa và thu hồi đất để mở rộng đặc khu kinh tế này. Theo lời của chuyên gia tư vấn Linh tại Bokeo: "Trung Quốc sẽ tiếp tục xây dựng mối quan hệ tại đây và có thể biến Lào thành một Tây Tạng kế tiếp".[49]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Nhân khẩu Lào Lịch sử dân số
NămSố dân±%
1880 870.000—    
1900 999.000+14.8%
1950 1,680,000—    
1960 2,000,000—    
1970 2,600,000—    
1980 3,300,000—    
1990 4,200,000—    
1995 5,300,000—    
2005 5,870,000—    
2010 6,450,000—    
2017 6,800,000—    
Lịch sử dân số
NămSố dân±%
2020 7,200,000—    
2030 8,380,000—    
2040 9,600,000—    
2050 10,100,000—    
2060 10,800,000—    
2070 10,900,000—    
2080 11,000,000—    
2090 10,800,000—    
2100 10,300,000—    

Dân số Lào ước tính đạt 6,5 triệu người vào năm 2012, phân bổ không đều trên lãnh thổ. Hầu hết dân chúng sống tại các thung lũng của sông Mekong và các chi lưu của nó. Thủ đô Viêng Chăn có 740 nghìn cư dân vào năm 2008. Mật độ dân số Lào đạt 27/km².[50] Cư dân Lào thường được phân chia theo độ cao, gần tương ứng với dân tộc.

Hơn một nửa dân số (60%) là người Lào, chiếm phần lớn cư dân vùng thấp, họ là dân tộc chiếm ưu thế về chính trị và văn hóa tại Lào. Người Lào thuộc nhóm ngôn ngữ Thái, họ bắt đầu di cư từ Trung Quốc về phía nam vào thiên niên kỷ 1. 10% dân số là các nhóm vùng thấp khác, họ cùng với người Lào hợp thành Lào Loum. Tại vùng núi miền trung và miền nam, các bộ lạc Môn-Khmer gọi chung là Lào Theung, hay Lào vùng giữa, chiếm ưu thế. Họ từng là cư dân bản địa tại miền bắc Lào. Một số người Việt, Hoa và Thái vẫn ở lại, đặc biệt là tại các đô thị, song nhiều người dời đi khi Lào độc lập vào cuối thập niên 1940, nhiều người trong số họ tái định cư tại Việt Nam, Hồng Kông hay sang Pháp. Lào Theung chiếm khoảng 30% dân số.[51] Các dân tộc vùng cao như H'Mông, Dao, Shan và một số dân tộc Tạng-Miến sống trong các khu vực cô lập tại Lào trong thời gian dài. Các bộ lạc vùng đồi núi có nguồn gốc hỗn hợp về dân tộc/văn hóa-ngôn ngữ tại miền bắc Lào bao gồm người Lua và người Khơ Mú, họ là dân tộc bản địa của Lào. Các dân tộc này được gọi chung là Lào Soung hay Lào vùng cao. Người Lào Soung chiếm khoảng 10% dân số.[52]

Ngôn ngữ chính thức và chi phối tại Lào là tiếng Lào, đây là một ngôn ngữ có thanh điệu thuộc nhóm ngôn ngữ Thái. Tuy nhiên, chỉ hơn một nửa dân chúng nói tiếng Lào bản ngữ, phần còn lại nói các dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở nông thôn. Chữ cái Lào tiến triển trong khoảng giữa thế kỷ XIII và XIV, bắt nguồn từ chữ viết Khmer cổ và tương đồng với chữ Thái Lan.[53] Ngoài ra, còn có các ngôn ngữ thiểu số như Khơ Mú và Mông, đặc biệt là tại vùng giữa và vùng cao.

67% người Lào là tín đồ Phật giáo Thượng tọa bộ, 1,5% là tín đồ Cơ Đốc giáo và 31,5% theo các tôn giáo khác hoặc không xác định[54] theo điều tra nhân khẩu năm 2005.[55] Phật giáo từ lâu đã là một thế lực xã hội quan trọng tại Lào. Phật giáo Thượng tọa bộ tồn tại hòa bình với thuyết đa thần địa phương từ khi được truyền bá đến.

Tuổi thọ dự tính khi sinh của nam giới Lào là 60,85 năm, còn của nữ giới là 64,76 năm tính đến 2012.[55] Tuổi thọ triển vọng khỏe mạnh là 54 năm vào năm 2007.[56] Năm 2008, 43% dân số không được tiếp cận nguồn nước vệ sinh, song con số này giảm còn 33% vào năm 2010.[55]

Tỷ lệ biết chữ của người thành niên tại Lào vượt quá hai phần ba.[57] Tỷ lệ biết chữ của nam giới cao hơn của nữ giới.[56] Tỷ lệ biết chữ đạt 73% theo ước tính vào năm 2010. Năm 2004, tỷ lệ nhập học tiểu học đạt 84%.[56] Đại học Quốc gia Lào là đại học công lập, thành lập vào năm 1996.

Tôn giáo tại Lào (2021)[58]

  Phật giáo (64.7%)  Tôn giáo dân gian Lào (31.5%)  Kitô giáo (1.7%)  Khác (2.1%)

Văn hóa

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Văn hóa Lào
Vũ công Lào trong dịp tết.
Pha That Luang tại Viêng Chăn là biểu trưng quốc gia của Lào.
Các nhà sư khất thực tại Luang Prabang.

Phật giáo Thượng tọa bộ có ảnh hưởng chi phối trong văn hóa Lào, được phản ánh trên khắp đất nước từ ngôn ngữ trong chùa và trong mỹ thuật, văn học, nghệ thuật trình diễn. Nhiều yếu tố trong văn hóa Lào có trước khi Phật giáo truyền đến, chẳng hạn như âm nhạc Lào do nhạc cụ dân tộc là khèn chi phối, nó có nguồn gốc từ thời tiền sử. Tiếng khèn theo truyền thống đi kèm với người hát theo phong cách dân gian lam. Trong các phong cách lam, lam saravane có lẽ được phổ biến nhất.

Gạo nếp là một loại lương thực đặc trưng và có ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo đối với người Lào. Gạo nếp thường được ưa chuộng hơn gạo nhài, và trồng lúa nếp được cho là bắt nguồn tại Lào. Tồn tại nhiều truyền thống và nghi lễ liên quan đến sản xuất lúa trong các môi trường khác nhau và trong nhiều dân tộc. Chẳng hạn, các nông dân Khơ Mú tại Luang Prabang trồng loại lúa Khao Kam với số lượng nhỏ gần lều để tưởng nhớ cha mẹ đã mất, hoặc tại góc ruộng để thể hiện cha mẹ vẫn sống.[59]

Trong thời gian gần đây, Beerlao của nhà máy bia quốc doanh Lào đã trở nên phổ biến ở Lào và được người nước ngoài và cư dân trong nước đánh giá rất cao. Năm 2004, tạp chí Time đã ca ngợi Beerlao là loại bia tốt nhất châu Á.

Sinh là một loại trang phục truyền thống mà nữ giới Lào mặc trong sinh hoạt thường ngày, tương tự như áo dài của Việt Nam. Đây là một loại váy lụa dệt tay, có thể nhận diện nữ giới mặc nó theo nhiều cách, chẳng hạn như khu vực xuất thân.

Đa thê là một tội tại Lào theo pháp luật, song hình phạt ở mức thấp, và đa thê vẫn phổ biến trong người H'Mông.[60]

Chùa Wat Xieng Thong, Luang Prabang.

Toàn bộ báo chí tại Lào đều do chính quyền phát hành, trong đó có nhật báo Anh ngữ Vientiane Times và tuần báo Pháp ngữ Le Rénovateur. Thông tấn xã chính thức của quốc gia là Khao San Pathet Lao, hãng này phát hành các phiên bản tiếng Anh và Pháp tờ báo của họ. Lào hiện có chín nhật báo, 90 tạp chí, 43 đài phát thanh, và 32 đài truyền hình hoạt động khắp đất nước. Tính đến năm 2011[cập nhật], Báo Nhân Dân của Việt Nam và Tân Hoa xã của Trung Quốc là các tổ chức truyền thông ngoại quốc duy nhất được phép mở văn phòng tại Lào. Chính phủ Lào kiểm soát nghiêm ngặt toàn bộ các kênh truyền thông nhằm ngăn chặn phê bình các hành động của họ. Công dân Lào chỉ trích chính phủ là đối tượng bị mất tích, bắt giữ tùy tiện và tra khảo.[61][62]

Kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, chỉ có rất ít phim được sản xuất tại Lào. Một trong các phim thương mại đầu tiên là Sabaidee Luang Prabang, sản xuất vào năm 2008.[63] Nhà làm phim người Úc Kim Mordount sản xuất The Rocket tại Lào với dàn diễn viên nói tiếng Lào, phim xuất hiện trong Liên hoan Phim quốc tế Melbourne 2013 và thắng ba giải tại Liên hoan Phim quốc tế Berlin.[64] Gần đây, một vài công ty sản xuất địa phương kế tục sản xuất các phim Lào và giành được công nhận quốc tế. Trong số đó có At the Horizon do Anysay Keola làm đạo diễn[65]Chanthaly do Mattie Do làm đạo diễn.[66][67]

Muay Lào là môn thể thao quốc gia, tương tự như Muay Thái, Lethwei Myanmar và Pradal Serey Campuchia. Bóng đá phát triển thành môn thể thao phổ biến nhất tại Lào. Giải vô địch Lào là giải đấu chuyên nghiệp cao nhất của các câu lạc bộ bóng đá Lào. Từ khi bắt đầu giải đấu, Câu lạc bộ Quân đội Lào là đội thành công nhất.[68]

Câu nói

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 13-3-1963, tại sân bay Gia Lâm trong lễ tiễn Vua Sri Savan Vatthana cùng các vị khách Lào lên đường về nước kết thúc chuyến thăm Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc một câu thơ về quan hệ Việt - Lào:

Thương nhau mấy núi cũng trèo.Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.Việt - Lào hai nước chúng taTình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long[69]
— Hồ Chí Minh

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “The Languages spoken in Laos”. Studycountry. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2018.
  2. ^ https://assets.pewresearch.org/wp-content/uploads/sites/11/2012/12/globalReligion-tables.pdf
  3. ^ “Results of Population and Housing Census 2015” (PDF). Lao Statistics Bureau. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2020.
  4. ^ “Laos”. Lao Department of Statistics. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2016.
  5. ^ a b “World Economic Outlook Database, April 2022”. IMF.org. International Monetary Fund. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2022.
  6. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên IMF database 2018
  7. ^ “Gini Index”. World Bank. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  8. ^ https://kpl.gov.la/En/detail.aspx?id=81769
  9. ^ “ABOUT LAOS: GEOGRAPHY”. Asia Pacific Parliamentary Forum. Government of Laos. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2016.
  10. ^ Stuart-Fox, Martin (1998). The Lao Kingdom of Lan Xang: Rise and Decline. White Lotus Press. tr. 49. ISBN 974-8434-33-8.
  11. ^ “Laos approves Xayaburi 'mega' dam on Mekong”. BBC News. ngày 5 tháng 11 năm 2012.
  12. ^ “Lao PDR [Overview]”. World Bank. tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016.
  13. ^ “Laos Securities Exchange to start trading”. Ft.com. ngày 10 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  14. ^ “Lao People's Democratic Republic and the WTO”. World Trade Organization. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  15. ^ Demeter, F; Shackelford, L. L.; Bacon, A. M.; Duringer, P; Westaway, K; Sayavongkhamdy, T; Braga, J; Sichanthongtip, P; Khamdalavong, P; Ponche, J. L.; Wang, H; Lundstrom, C; Patole-Edoumba, E; Karpoff, A. M. (2012). “Anatomically modern human in Southeast Asia (Laos) by 46 ka”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 109 (36): 14375–80. doi:10.1073/pnas.1208104109. PMC 3437904. PMID 22908291.
  16. ^ White, J.C.; Lewis, H.; Bouasisengpaseuth, B.; Marwick, B.; Arrell, K (2009). “Archaeological investigations in northern Laos: New contributions to Southeast Asian prehistory”. Antiquity. 83 (319).
  17. ^ Pittayaporn, Pittayawat (2014). Layers of Chinese Loanwords in Proto-Southwestern Tai as Evidence for the Dating of the Spread of Southwestern Tai Lưu trữ 2015-06-27 tại Wayback Machine. MANUSYA: Journal of Humanities, Special Issue No 20: 47–64.
  18. ^ Coedès, George (1968). Walter F. Vella (biên tập). The Indianized States of Southeast Asia. trans.Susan Brown Cowing. University of Hawaii Press. ISBN 978-0-8248-0368-1.
  19. ^ “Fa Ngum”. History.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  20. ^ “Let's hope Laos hangs on to its identity”. Asianewsnet.net. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  21. ^ "Slavery in Nineteenth-Century Northern Thailand: Archival Anecdotes and Village Voices". The Kyoto Review of Southeast Asia
  22. ^ Librios Semantic Environment (ngày 11 tháng 8 năm 2006). “Laos: Laos under the French”. Culturalprofiles.net. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  23. ^ Cummings, Joe and Burke (2005). Laos. Lonely Planet, Andrew. tr. 23–. ISBN 978-1-74104-086-9.
  24. ^ “History of Laos”. Lonelyplanet.com. ngày 9 tháng 8 năm 1960. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  25. ^ a b Savada, Andrea Matles (editor) (1994) "Events in 1945" A Country Study: Laos Federal Research Division, Library of Congress
  26. ^ Kiernan, Ben; Owen, Taylor (ngày 26 tháng 4 năm 2015). “Making More Enemies than We Kill? Calculating U.S. Bomb Tonnages Dropped on Laos and Cambodia, and Weighing Their Implications”. The Asia-Pacific Journal. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2016.
  27. ^ Wright, Rebecca (ngày 6 tháng 9 năm 2016). “'My friends were afraid of me': What 80 million unexploded US bombs did to Laos”. CNN. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2016.
  28. ^ T. Lomperis, From People's War to People's Rule, (1996), estimates 35,000 total.
  29. ^ Eckhardt, William, in World Military and Social Expenditures 1987–88 (12th ed., 1987) by Ruth Leger Sivard.
  30. ^ Rummel, Rudolph J.: Death By Government (1994)
  31. ^ Obermeyer (2008), "Fifty years of violent war deaths from Vietnam to Bosnia", British Medical Journal.
  32. ^ Laos (04/09). U.S. Department of State.
  33. ^ “LAOS”. National Geographic Kids. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  34. ^ “Laos – Climate”. Countrystudies.us. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  35. ^ a b “Nsc Lao Pdr”. Nsc.gov.la. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2012.
  36. ^ “Laos travel guides”. Indochinatrek.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  37. ^ THOMAS FULLER (ngày 17 tháng 9 năm 2009). “Communism and Capitalism Are Mixing in Laos”. New York Times.
  38. ^ Lowe, Sandra (ngày 10 tháng 12 năm 2016). “Out of obscurity”. www.atimes.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2016.
  39. ^ Field Listing – Land use Lưu trữ 2014-03-26 tại Wayback Machine, CIA World Factbook.
  40. ^ Rice: The Fabric of Life in Laos. Lao_IRRI Project
  41. ^ Barclay, Adam and Shrestha, Samjhana (April–June 2006) "Genuinely Lao", Rice Today.
  42. ^ "Fifteen years of support for rice research in Lao PDR" Asia brief: Filling the rice basket in Lao PRD partnership results Genuinely Lao, Prepared by IRRI's International Programs Management Office
  43. ^ “The Green Revolution comes to Laos”. Eurekalert.org. ngày 15 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2010.
  44. ^ “A Race Against Time” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2010.
  45. ^ Özden, Çaḡlar; Schiff, Maurice W. (2006). International migration, remittances, and the brain drain. World Bank Publications. ISBN 978-0-8213-6372-0.
  46. ^ “Preparing the Cumulative Impact Assessment for the Nam Ngum 3 Hydropower Project: Financed by the Japan Special Fund” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2010.
  47. ^ “Visitor Statistics, 2009–2015” (PDF). mekongtourism.org. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2017.
  48. ^ “Laos – Key Facts”. World Travel & Tourism Council. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  49. ^ Lào trước cỗ máy bành trướng kinh tế của Trung Quốc
  50. ^ “Background notes – Laos”. US Department of State. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2012.
  51. ^ “Khmu people of Laos. OMF International”. Omf.org. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  52. ^ “Laos – Ethnic groups and languages”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  53. ^ Benedict, Paul K. (1947). “Languages and Literatures of Indochina”. The Far Eastern Quarterly. 6 (4): 379. doi:10.2307/2049433. JSTOR 2049433.
  54. ^ Pew Research Center's Global Religious Landscape 2010 – Religious Composition by Country Lưu trữ 2018-02-19 tại Wayback Machine.
  55. ^ a b c Laos Lưu trữ 2010-12-29 tại Wayback Machine. CIA – The World Factbook. Cia.gov. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2013.
  56. ^ a b c “Human Development Report 2009. Lao People's Democratic Republic”. HDRstats.undp.org. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2010.
  57. ^ “Human Development Report 2009 – Lao People's Democratic Republic”. Hdrstats.undp.org. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2010.
  58. ^ Pew Research Center - Global Religious Landscape 2010 - religious composition by country Lưu trữ 2018-02-19 tại Wayback Machine.
  59. ^ “Evaluation Synthesis of Rice in Lao PDR” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2010.
  60. ^ “Lao PDR: Family Code”. Genderindex.org. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  61. ^ “2012 Human Rights Reports: Laos”. State.gov. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  62. ^ “Off the air in Laos”. Asia Times Online. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  63. ^ Buncomb, Andrew (ngày 10 tháng 6 năm 2010). “Good Good Morning, Luang Prabang – and hello to Laos's film industry”. The Independent. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  64. ^ “Q&A with director Kim Mordaunt (The Rocket)”. Melbourne International Film Festival. MIFF. tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2013.
  65. ^ Catt, Georgia (ngày 22 tháng 8 năm 2012). “A tale of revenge in Laos challenges censors”. BBC. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  66. ^ “Chanthaly”. Fantastic Fest. 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2014.
  67. ^ Marsh, James (ngày 26 tháng 9 năm 2013). “Fantastic Fest 2013 Review: Chanthaly is A Haunting Portrait of Modern Day Laos”. Twitch. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2014.
  68. ^ “Laos – List of Champions” (bằng tiếng Anh). RSSSF. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016.
  69. ^ “Báo Nhân Dân”. Báo điện tử Nhân Dân. Truy cập 17 tháng 12 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Tìm hiểu thêm vềLàotại các dự án liên quan
Tìm kiếm Wiktionary Từ điển từ Wiktionary
Tìm kiếm Commons Tập tin phương tiện từ Commons
Tìm kiếm Wikinews Tin tức từ Wikinews
Tìm kiếm Wikiquote Danh ngôn từ Wikiquote
Tìm kiếm Wikisource Văn kiện từ Wikisource
Tìm kiếm Wikibooks Tủ sách giáo khoa từ Wikibooks
Tìm kiếm Wikiversity Tài nguyên học tập từ Wikiversity
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lào. Wikivoyage có cẩm nang du lịch về Lào.
  • Wikimedia Atlas của Laos
  • Lào trên DMOZ
  • Mục “Laos” trên trang của CIA World Factbook.
  • Hồ sơ quốc gia trên BBC News
  • Lào Lưu trữ 2009-02-04 tại Wayback Machine trên UCB Libraries GovPubs
  • Lào trên Encyclopædia Britannica
Biểu đồ gió  Myanmar  Trung Quốc Việt Nam Biểu đồ gió
 Thái Lan Việt Nam
    Lào    
 Thái Lan  Campuchia Việt Nam
  • x
  • t
  • s
Quốc gia và lãnh thổ khác ở Đông Nam Á
Các quốc gia độc lập

 Brunei ·  Campuchia ·  Đông Timor ·  Indonesia ·  Lào ·  Malaysia ·  Myanmar ·  Philippines ·  Singapore ·  Thái Lan ·  Việt Nam

Quốc gia phụ thuộc

 Đảo Giáng Sinh  (Úc) ·  Quần đảo Cocos (Keeling)  (Úc)

Khu vực hành chínhcủa các quốc gia độc lập

 Quần đảo Andaman và Nicobar  (Ấn Độ) ·  Hải Nam  (CHND Trung Hoa/Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố chủ quyền)

Vùng lãnh thổ tranh chấp

Các đảo trên sông Naf (Bangladesh, Myanmar) · Bãi Macclesfield (CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc) · Hoàng Sa (CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc, Việt Nam) · Quần đảo Đông Sa (CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc) · Sabah (Malaysia, Philippines) · Bãi cạn Scarborough (Philippines, CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc) · Trường Sa (Brunei, Malaysia, Philippines, CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc, Việt Nam)

  • x
  • t
  • s
Quốc gia và lãnh thổ tại Châu Á
Quốc gia có chủ quyền
  • Afghanistan
  • Ai Cập
  • Ả Rập Xê Út
  • Armenia
  • Azerbaijan
  • Ấn Độ
  • Bahrain
  • Bangladesh
  • Bhutan
  • Brunei
  • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
  • Campuchia
  • Đông Timor
  • Gruzia
  • Hàn Quốc
  • Indonesia
  • Iran
  • Iraq
  • Israel
  • Jordan
  • Kazakhstan
  • Kuwait
  • Kyrgyzstan
  • Lào
  • Liban
  • Malaysia
  • Maldives
  • Mông Cổ
  • Myanmar
  • Nepal
  • Nga
  • Nhật Bản
  • Oman
  • Pakistan
  • Philippines
  • Qatar
  • Singapore
  • Síp
  • Sri Lanka
  • Syria
  • Tajikistan
  • Thái Lan
  • Thổ Nhĩ Kỳ
  • Turkmenistan
  • Bắc Triều Tiên
  • Trung Quốc
  • Uzbekistan
  • Việt Nam
  • Yemen
Quốc gia được công nhận hạn chế
  • Abkhazia
  • Bắc Síp
  • Nam Ossetia
  • Palestine
  • Đài Loan
Lãnh thổ phụ thuộc và Đặc khu hành chính
Anh
  • Akrotiri và Dhekelia
  • Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh
Trung Quốc
  • Hồng Kông
  • Ma Cao
Úc
  • Đảo Giáng Sinh
  • Quần đảo Cocos (Keeling)
  • x
  • t
  • s
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Chính trị
  • Hiến chương
  • Văn bản thành lập
  • Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác
  • Chính sách thị thực
Tổ chức
  • Tổng Thư ký
  • Cộng đồng Kinh tế
  • Cộng đồng An ninh – Chính trị
  • Cộng đồng Văn hóa – Xã hội
  • Hội đồng Liên Nghị viện
  • Các tổ chức liên kết
Biểu tượng
  • Bài hát chính thức
  • Biểu trưng
  • Cờ
  • Ca khúc
Thành viên
Thành viênchính thức
  •  Brunei
  •  Campuchia
  •  Indonesia
  •  Lào
  •  Malaysia
  •  Myanmar
  •  Philippines
  •  Singapore
  •  Thái Lan
  •  Việt Nam
Quan sát viên
  •  Đông Timor
    • tình trạng
  •  Papua New Guinea
    • tình trạng
Sự kiện
Hội nghị
  • Hội nghị cấp cao ASEAN
  • Hội nghị cấp cao Đông Á
  • Hội nghị Thượng đỉnh Đặc biệt Hàn Quốc – ASEAN
  • Hội nghị Thượng đỉnh Đặc biệt Ấn Độ – ASEAN
Khác
  • ASEAN+3
  • Diễn đàn Khu vực ASEAN
  • Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
Thể thao
  • SEA Games
  • University Games
  • School Games
  • Para Games
  • Liên đoàn bóng đá
    • Giải vô địch bóng đá
  • Giải bắn súng quân dụng
Kinh tế
  • Đơn vị tiền tệ chung châu Á
  • Sáng kiến ​​Chiang Mai
  • Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á
  • Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
  • Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
  • Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
  • Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Ấn Độ
  • Chương trình Hợp tác Phát triển ASEAN–Úc
Xã hội
  • Trung tâm Đa dạng sinh học
  • Diễn tập cứu hộ thiên tai
  • Mạng lưới Đô thị thông minh
Nhân quyền
  • Ủy ban Nhân quyền
    • Tuyên bố Nhân quyền ASEAN
  • Nữ quyền
Khác
  • Múi giờ chung
  • 'ASEAN Rise'
  • Quan hệ với EU
  • x
  • t
  • s
Quốc gia thành viên và quan sát viên của Cộng đồng Pháp ngữ
Thành viên
  • Ai Cập
  • Albania
  • Andorra
  • Bỉ (Cộng đồng Pháp ngữ của Bỉ)
  • Bénin
  • Bờ Biển Ngà
  • Bulgaria
  • Burkina Faso
  • Burundi
  • Campuchia
  • Cameroon
  • Canada
    • New Brunswick
    • Québec
  • Cabo Verde
  • Cộng hòa Trung Phi
  • Comoros
  • Cộng hòa Congo
  • Cộng hòa Dân chủ Congo
  • Djibouti
  • Dominica
  • Guinea Xích Đạo
  • Bắc Macedonia Guadeloupe
  • Gabon
  • Ghana*
  • Guinée
  • Guiné-Bissau
  • Haiti
  • Hy Lạp
  • Cộng hòa Síp*
  • Lào
  • Luxembourg
  • Liban
  • Madagascar
  • Mali
  • Mauritanie
  • Mauritius
  • Moldova
  • Monaco
  • Maroc
  • Niger
  • Pháp
    • bao gồm Guyane thuộc Pháp
    • Martinique
    • Saint-Pierre và Miquelon
  • Tchad
  • România
  • Rwanda
  • Saint Lucia
  • São Tomé và Príncipe
  • Sénégal
  • Seychelles
  • Thụy Sĩ
  • Togo
  • Tunisia
  • Vanuatu
  • Việt Nam
Cờ Cộng đồng
Cờ Cộng đồng
Quan sát viên
  • Armenia
  • Áo
  • Croatia
  • Séc
  • Gruzia
  • Hungary
  • Latvia
  • Litva
  • Mozambique
  • Ba Lan
  • Serbia
  • Slovakia
  • Slovenia
  • Ukraina
* Thành viên dự khuyết.    
Cổng thông tin:
  • icon Châu Á

Từ khóa » Dân Số Quốc Gia Lào