Lịch Sử Văn Hóa Dòng Họ Lê Nho ở Xã Hoài Thượng , Huyện Thuận ...
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ >>
- Luận Văn - Báo Cáo >>
- Thạc sĩ - Cao học
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.3 MB, 133 trang )
B GIO DC V O TOTRNG I HC S PHM H NI HNG TH HI MINHLịch sử - văn hóa dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thợng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (từ thế kỉ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI)Chuyên ngành : Lịch sử Việt NamMã số : 60.22.03.13LUN VN THC S KHOA HC LCH SNgi hng dn khoa hc: PGS.TS. NGND Nguyn Cnh MinhH NI - 2013LỜI CẢM ƠNXin trân trọng cảm ơn:Các thầy cô tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam cùng các thầy, cô khoa Lịch sử Trường Đại học sư phạm Hà Nội đã giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.Đặc biệt xin cảm ơn PGS. TS. NGND Nguyễn Cảnh Minh (khoa Lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội) đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thành Luận văn.Xin chân thành cảm ơn ông Lê Nho Đằng - Trưởng ban Hội đồng gia tộc trị sự họ Lê Nho đã cung cấp những tư liệu giúp tôi hoàn thành luận văn.Chân thành cảm ơn: thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội, thư viện Quốc gia, thư viện Viện sử học, thư viện tỉnh Bắc Ninh, Uỷ ban nhân dân xã Hoài Thượng đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.Xin chân thành cảm ơn toàn thể gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, con cháu dòng họ Lê Nho, đã động viên tôi hoàn thành khóa học này.Hà Nội, tháng 7 năm 2013Tác giả Luận vănHàng Thị Hải MinhMỤC LỤCPHỤ LỤCMỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiThực tế lịch sử đã chứng minh rằng: các chế độ chính trị xã hội thay đổi theo tiến trình phát triển của lịch sử, song tổ chức gia đình và dòng tộc thì luôn trường tồn cùng non sông đất nước. Dòng họ là một hiện tượng lịch sử - xã hội đặc biệt mang tính phổ quát của nhân loại. Ý thức về dòng họ là dấu hiệu quan trọng đánh dấu bước phát triển của xã hội loài người. Mỗi dòng tộc, nhất là các dòng tộc lớn, đều có truyền thống văn hóa, bản sắc riêng của mình. Những nét riêng ở mỗi dòng tộc đã góp phần hình thành nên nền văn hóa dân tộc. Nói cách khác, văn hóa các dòng họ chính là cơ sở, nền tảng của truyền thống và bản sắc văn hóa quốc gia. Vì vậy, việc nghiên cứu về dòng họ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nhận thức, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Dòng họ là nơi bảo tồn những di sản văn hóa của các thành viên trong họ như: văn bia, câu đối, nhà thờ, thơ văn, gia phả, sách truyện, nghề truyền thống… Việc tìm hiểu về văn hóa các dòng họ, một mặt góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá, mặt khác góp phần củng cố và khơi dậy ý thức, biết ơn và tự hào về công đức của tổ tiên. Từ đó tiếp tục phát huy truyền thống gia tộc, xây dựng gia đình, quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. Vì thế việc nghiên cứu về lịch sử - văn hóa của các dòng họ là một yêu cầu bức thiết.Hiện nay, trong xã hội đang hình thành một xu hướng, một trào lưu là trùng tu nhà từ đường, chắp nối gia phả, xây dựng và tôn tạo nhà thờ… Đây là biểu hiện của ý thức “uống nước nhớ nguồn”, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, cùng với ý nghĩa nhân văn của xu hướng này đã thấy có những mặt trái của nó. Đó chính là việc xây dựng nhà thờ một cách bừa bãi, tranh giành đất đai, kiện cáo, học hỏi văn hóa lai căng… Vì vậy, việc tìm hiểu đầy đủ và nghiêm túc về lịch sử - văn hóa của các dòng họ là việc “gạn đục khơi trong”, giữ gìn bản sắc cho các dòng họ, cho đất nước.1Mỗi một địa phương bao gồm nhiều dòng họ cùng chung sống với nhau. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng ta cần phải làm rõ những đóng góp riêng của mỗi dòng họ ở địa phương ấy. Vì vậy, nghiên cứu về dòng họ thì chúng ta không chỉ nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của dòng họ mà đặc biệt phải tìm hiểu những đóng góp của dòng họ đó đối với lịch sử dân tộc.Một dòng họ thường tập trung sinh sống ở một địa phương hoặc một số địa phương nhất định. Do đó, việc nghiên cứu về lịch sử, văn hóa của một dòng họ trên một địa phương cụ thể không chỉ góp phần làm phong phú hơn bộ sử địa phương mà còn góp phần thiết thực vào việc nâng cao nhận thức về lịch sử dân tộc, vì lịch sử địa phương là một bộ phận của lịch sử dân tộc. Ngoài ra, chúng ta có nhận thức đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa các dòng họ, đặc biệt là quan hệ tác động qua lại giữa gia đình, dòng họ với các danh nhân. Trên cơ sở đó rút ra những bài học, phát huy những mặt tích cực của dòng họ, xóa bỏ những mặt hạn chế, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, lí do nữa khiến em lựa chọn đề tài này bởi Bắc Ninh là một vùng đất cổ xưa, có bề dày văn hóa với những “tính cách riêng”. Việc nghiên cứu về lịch sử - văn hóa truyền thống dòng họ Lê Nho sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này.Với những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề nghiên cứu: “Lịch sử - văn hóa dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI”, làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử của mình.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đềNghiên cứu lịch sử - văn hóa một dòng họ và những gương mặt tiêu biểu của dòng họ là việc làm có ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn cao. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình khoa học, những bài viết bàn về vấn đề này.Trong những năm 90 của thế kỉ XX, có một số công trình tiêu biểu viết 2về dòng họ như:Năm 1996, hiệp hội câu lạc bộ Unessco Việt Nam - Câu lạc bộ thông tin về dòng họ đã xuất bản cuốn “Cội nguồn”, đề cập đến vấn đề dòng họ và tập trung nghiên cứu về nguồn gốc của các dòng họ.Năm 1999, Phạm Côn Sơn với cuốn “Tinh thần gia tộc dã sử ngoại phả”. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản, tập trung viết về truyền thống của các dòng họ Việt Nam.Ngoài ra còn có một số khóa luận tốt nghiệp của sinh viên và học viên cao học khoa lịch sử trường Đại học sư phạm Hà Nội viết về dòng họ ở địa phương mình như: “Bước đầu tìm hiểu dòng họ Nguyễn Tất ở Tân Sơn - Đô Lương - Nghệ An” của sinh viên Phạm Thị Dung bảo vệ năm 2001. Hay sinh viên Trần Thị Hợi với luận văn tốt nghiệp năm 2004: “Tìm hiểu truyền thống uống nước nhớ nguồn qua gia phả một số dòng họ ở Việt Nam”.Một số luận văn của thạc sĩ khoa học lịch sử viết về đề tài dòng họ như: “Lịch sử - văn hóa dòng họ Đặng ở Lương Điền, Thanh Chương, Nghệ An từ thế kỉ XVII đến nay” của Nguyễn Thị Phương Thảo, ĐH Vinh, 2006. Hay “Tìm hiểu về dòng họ Hà ở huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang từ 1945 đến nay của Lý Thị Thu, ĐHSP Hà Nội, 2007. Gần đây năm 2009, Trần Ngọc Uyển cũng nghiên cứu đề tài: “Lịch sử - văn hóa dòng họ Đàm Thận ở Hương Mạc, Từ Sơn, Bắc Ninh từ thế kỉ XV đến nay”.Như vậy cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên khảo nào nói về dòng họ Lê Nho, gốc tích ở Bắc Ninh (xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Nhưng những sách liên quan ít nhiều tới dòng họ Lê Nho khá nhiều, do đây là dòng họ có truyền thống hiếu học và đấu tranh cách mạng anh dũng, hào hùng trong thời chiến cũng như thời bình.Tác phẩm “Đại Mão làng quê văn hiến” của nhóm nghiên cứu, biên soạn Đại Mão và viện Hán Nôm”, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 1997 đề cập đến 3những nhân vật lịch sử tiêu biểu của dòng họ Lê Nho có nhiều đóng góp trên một số lĩnh vực sau:- Về giáo dục: Tiêu biểu là cụ Hiến Hồ (Lê Nho Thạc) đỗ thủ khoa Nho sinh (cử nhân), giữ chức Hiến phó sứ Sơn Nam trấn. Sau khi nghỉ hưu cụ làm nghề dạy học, học trò có nhiều người thành đạt, cùng thời có tới 43 vị đỗ đại khoa.Cụ Lê Chu Kiều (Lê Nho Kiều) đỗ đầu cử nhân, làm tri huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ, là một viên quan liêm khiết, có 5 người con trai đều đỗ cử nhân. - Về y học: Có một số cụ làm nghề thầy thuốc, cứu lấy sinh mạng nhiều người như cụ Lê Nho Liêu, Lê Nho Giác.- Về quân sự: Đây là dòng họ có nhiều anh hùng liệt sĩ đã hi sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ như Lê Nho Bổng, Lê Nho Hưởng…- Tác giả Thế Anh, năm 1998 đã có bài viết trên tạp chí Thế giới mới số 92 với nhan đề: Cụ Hiến Hồ - người thầy mẫu mực. Nội dung chủ yếu của bài báo nói về tiểu sử, ca ngợi tài năng của cụ Hiến Hồ (Lê Nho Thạc).Trong cuốn “Lịch sử họ Lê Bắc Ninh” của Nguyễn Sinh, Nxb Văn học, Hà Nội, 2010 đề cập đến những nội dung sau:- Truyền thống hiếu học và khoa cử của họ Lê Nho thời phong kiến với những gương mặt tiêu biểu như cụ Tất Văn, cụ Phan Lân, cụ Khâm Bật, cụ Lê Chu Kiều, Lê Nho Thạc. Ngày nay, dòng họ Lê Nho có nhiều người làm nghề dạy học, là giáo viên dạy giỏi (Lê Nho Ánh, Lê Nho Tỳ) và đặt biệt là nhà giáo ưu tú Lê Nho Nùng. - Khái quát những đóng góp của họ Lê Nho trên các lĩnh vực: giáo dục, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự.Năm 2011, trên báo Bắc Ninh số 11089, nhà báo Vĩnh Tân với bài báo “Nhớ về những bến bờ xưa”, tập trung viết về tài năng và đức độ của Nhà giáo 4ưu tú Lê Nho Nùng nguyên Giám đốc Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Bắc Ninh, nhấn mạnh vai trò của ông trong việc thúc đẩy sự nghiệp giáo dục tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm tháng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên của ngành giáo dục tỉnh gặp nhiều khó khăn. Đồng thời ca ngợi sự hi sinh, tận tụy của ông đối với nghề, với học trò có hoàn cảnh khó khăn.Năm 2012, trên báo Bắc Ninh số 13065, nhà báo Huy Chương cho đăng bài “Nhà giáo Lê Nho Nùng - Một đời tâm huyết với sự nghiệp trồng người” viết khái quát về quá trình 37 năm công tác giảng dạy và quản lý trong ngành Giáo dục, 10 năm làm công tác khuyến học của ông Lê Nho Nùng. Ông là người rất tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, đã cùng đồng nghiệp và các cộng sự của mình đóng góp tích cực cho sự phát triển giáo dục của tỉnh Bắc Ninh. Ông đã được nhà nước tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng Ba và phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.Dòng họ Lê Nho cũng như các dòng họ khác trên mảnh đất Kinh Bắc lịch sử và văn hiến này có nhiều truyền thống tốt đẹp như truyền thống yêu nước, truyền thống hiếu học và khoa cử, truyền thống liêm khiết, công minh, cần kiệm, khiêm nhường, yêu lao động và trọng đạo lý làm người.Dòng họ Lê Nho còn cống hiến cho quê hương đất nước trên nhiều lĩnh vực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tất cả những cuốn sách, bài viết trên ít nhiều đề cập đến một số thành viên của dòng họ Lê Nho. Tuy nhiên còn mang tính sơ lược, riêng lẻ, chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về lịch sử - văn hóa dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI; những đóng góp của dòng họ cho quê hương, đất nước. Từ đó đặt ra cho chúng tôi nhiệm vụ nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn về lịch sử - văn hóa dòng họ này, cũng là một việc nhỏ góp phần giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.53. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ khoa học của đề tài3.1. Đối tượng nghiên cứuĐề tài nghiên cứu nguồn gốc và lịch sử phát triển của dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, văn hóa truyền thống của dòng họ Lê Nho cũng như những đóng góp của dòng họ này đối với lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc.3.2. Phạm vi nghiên cứuĐề tài nghiên cứu lịch sử - văn hóa của dòng họ Lê Nho từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.3.3. Nhiệm vụ khoa học của đề tàiVới đề tài “Lịch sử - văn hóa dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI” người nghiên cứu nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau:- Tìm hiểu về cội nguồn và quá trình phát triển của dòng họ Lê Nho từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI. - Luận văn đi sâu tìm hiểu truyền thống văn hóa dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh qua những di sản văn hóa của dòng họ.- Luận văn trình bày những đóng góp của dòng họ Lê Nho trong lịch sử dân tộc trong các thời kỳ: phong kiến, cận đại, hiện đại trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, giáo dục…4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu4.1. Nguồn tài liệuNguồn tài liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu gồm:4.1.1. Nguồn tư liệu thành văn- Gia phả dòng họ Lê Nho ở thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh và gia phả của các chi nhánh của dòng họ Lê Nho ở các địa phương khác.6- Văn bia, câu đối, sắc phong dòng họ Lê Nho.- Các sách, các tạp chí, các tài liệu về lịch sử văn hóa.- Các sách, các tạp chí, các tài liệu có liên quan đến lịch sử văn hóa dòng họ Lê Nho.4.1.2. Nguồn tư liệu vật chất- Nhà thờ dòng họ Lê Nho.- Lăng mộ cụ thủy tổ.4.1.3. Nguồn tư liệu truyền miệngĐể bổ sung cho tính hạn chế của các nguồn tư liệu trên chúng tôi đặc biệt chú ý đến nguồn tư liệu truyền miệng, những câu chuyện của con cháu dòng họ kể lại về cụ thủy tổ, những nhân vật có nhiều đóng góp cho dòng họ.4.2. Phương pháp nghiên cứuKhi tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày vấn đề, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể, phương pháp lôgic, phương pháp so sánh, thống kê, phương pháp liên ngành để làm sáng tỏ nội dung của luận văn. 5. Đóng góp khoa học của đề tàiTrên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn, luận văn đã có những đóng góp nhất định:- Luận văn “Lịch sử - văn hóa dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI” là một công trình khảo cứu công phu, nghiêm túc về đề tài đã trình bày, cung cấp cho người đọc bức tranh toàn cảnh về nguồn gốc, lịch sử phát triển của dòng họ Lê Nho trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là văn hóa truyền thống của dòng họ với nề nếp gia phong mẫu mực, là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo.Khi xem luận văn này những người trong dòng họ hiểu rõ cội nguồn gia tộc mình với những truyền thống nhân văn cao quý của dòng họ như lời cụ 7trưởng tổ Lê Nho Tính trong phần đầu cuốn gia phả: “Thường nghe vật giá ở trời: người gốc ở tổ; như nước nghìn dòng, muôn phái chảy ra cũng bởi ở nguồn, cây nghìn cành muôn lá nảy lên cũng do từ gốc, đến như người có tổ tiên sau có cha mẹ, có cha mẹ sau có bản thân, có bản thân sau có con cháu. Lễ có nói: “biết nhớ ơn sâu từ cha mẹ (nên đến tổ tiên là người không quên gốc)”. Vì vậy, họ nhà vẫn có gia phả lưu truyền” [11,1].- Luận văn là công trình nghiên cứu tổng hợp những đóng góp của dòng họ trên nhiều lĩnh vực qua các thời kì lịch sử, giúp con cháu ghi nhớ, biết ơn và noi theo công đức, phát huy truyền thống, gương sáng của tổ tiên.- Luận văn góp phần vào việc biên soạn lịch sử, truyền thống văn hóa của dòng họ Lê Nho nói riêng, địa phương nói chung và địa chí của huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.- Đối với những người làm công tác giảng dạy lịch sử, luận văn có ý nghĩa thực tiễn là cung cấp tài liệu bổ ích cho việc tìm hiểu, giảng dạy lịch sử, truyền thống văn hóa địa phương. Từ đó giáo dục lòng tự hào truyền thống của dòng họ, trân trọng giữ gìn những di tích lịch sử - văn hóa mà cha ông để lại, quyết tâm xây dựng quê hương đất nước mình giàu đẹp hơn.Thông qua việc nghiên cứu lịch sử - văn hóa dòng Lê Nho, tác giả làm rõ giá trị lịch sử về gia phả của dòng họ Lê Nho như một di sản văn hóa địa phương. Đồng thời, tác giả hi vọng góp phần tăng cường nhận thức khách quan của nhân dân, các cấp lãnh đạo huyện Thuận Thành về giá trị lịch sử của gia phả các dòng họ. Ngoài ra, luận văn còn làm sống lại văn hóa các gia tộc trong di sản văn hóa Việt, góp phần thực hiện chiến lược con người trong thế kỷ XXI, làm nền tảng cơ sở để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .86. Bố cục luận vănNgoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:Chương 1: Nguồn gốc và lịch sử phát triển của dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh từ thế kỉ XV đến những năm đầu thế kỉ XXI.Chương 2: Văn hóa dòng họ Lê Nho ở xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.Chương 3: Những đóng góp của dòng họ Lê Nho đối với lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc.9Bản đồ huyện Thuận Thành [3,21]10CHƯƠNG 1NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ LÊ NHO Ở XÃ HOÀI THƯỢNG, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH TỪ THẾ KỈ XV ĐẾN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI1.1. Vài nét về mảnh đất và con người xã Hoài Thượng1.1.1. Địa giới hành chính và điều kiện tự nhiên Về địa giới hành chính:Hoài Thượng là một xã nhỏ nằm ở phía Đông Bắc thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Phía bắc giáp với sông Đuống, bên Bắc Đuống có Hán Quảng, Chi Lăng (Quế Võ), phía Nam giáp với xã An Bình, phía Đông Nam giáp với xã Mão Điền, phía Tây giáp với xã Song Hồ.Trải qua các thời kì lịch sử, đơn vị hành chính của Hoài Thượng có nhiều thay đổi và phụ thuộc vào đơn vị hành chính cấp trên.Thời Tây Hán, Hoài Thượng thuộc đất Luy Lâu.Thời Hai Bà Trưng (năm 40), thuộc đất Long Biên.Thời Tống thuộc Tống Bình.Khi đơn vị hương được thành lập, Hoài Thượng thuộc hương Thổ Lỗi.Năm Thiên Hương Bảo tượng thời Lý Thánh Tông (1068), hương Thổ Lỗi được đổi tên là hương Siêu Loại.Tháng 5 năm 1417, nhà Minh chia nước ta thành 17 phủ, lộ, Hoài Thượng thuộc huyện Siêu Loại, phủ Bắc Giang.Cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, khi cấp tổng được thành lập, Hoài Thượng thuộc tổng Thượng Mão, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An.Năm 1862, phủ Thuận An được đổi tên là phủ Thuận Thành.Năm 1912, huyện Siêu Loại được đổi tên là thành huyện Thuận Thành, lúc này Hoài Thượng trực thuộc tổng Thượng Mão, huyện Thuận Thành.11Tháng 9 năm 1945, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ, các xã của đất Hoài Thượng trực thuộc huyện Thuận Thành.Tháng 5 năm 1946, các xã nhỏ được sáp nhập với nhau thành xã lớn. Lúc này các xã Nghĩa Vi, Lam Cầu, Bình Cầu được sáp nhập thành một xã lấy tên là xã Hoài Đức. Các xã, thôn: Đại Mão, Đông Miếu, Dực Vi, Thượng Trì, Ngọ Xá được sáp nhập thành một xã lấy tên là xã Thượng Mão.Năm 1965, hai xã Hoài Đức và Thượng Mão hợp nhất thành xã Hoài Thượng.Hiện nay, xã Hoài Thượng gồm có 9 thôn: Đại Mão (làng Giữa), Lam Cầu (làng Lam), Bình Cầu (làng Lam), Nghĩa Vi, Dực Vi (làng Rộng), Đông Miếu, Ngọ Xá (làng Ngọ), Thượng Trì Làng (Đìa làng), Thượng Trì Ấp (Đìa Ấp).Về điều kiện tự nhiên:Xã có diện tích đất tự nhiên là 552,12 ha, dân số là 9.178 người, mật độ dân cư 1.712,2 người/km2 (số liệu tháng 9 năm 2005).Xã Hoài Thượng nằm dọc theo bờ nam sông Đuống, thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Xã có 9 thôn nằm trải dài ven đê sông Đuống.Về địa hình tương đối bằng phẳng, hệ thống giao thông, thuỷ lợi thuận tiện, có đường đê, đường thuỷ sông Đuống chạy dọc theo chiều dài của xã nên thuận lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Hầu hết diện tích đất trong xã đều có độ dốc nhỏ hơn 30 xuôi từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Kết cấu địa chất chủ yếu là đất phù sa cổ tạo điều kiện cho sản xuất nhiều loại cây trồng.Khí hậu nhiệt độ trung bình cả năm là 23,3oC, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 29oC tập trung vào tháng 7 đến tháng 8, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8oC tập trung vào tháng 1; lượng mưa trung bình 1.400 đến 121.500 mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm 80% lượng mưa trong năm; độ ẩm trung bình là 78%.Về thủy văn: xã Hoài Thượng có 1 con kênh giữa chảy qua, tạo điều kiện cung cấp nước cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, cũng là nơi trũng, có thể úng ngập cục bộ, do nước của các địa phương khác đổ về.Người dân nơi đây liên tục đương đầu gánh chịu rất nhiều khó khăn do hậu quả lũ lụt gây ra. Điều kiện tự nhiên ấy đã tạo nên sức mạnh của sự đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất của người dân trải trường kỳ trong đấu tranh lao động sản xuất. 1.1.2. Đặc điểm kinh tế của xãSinh tồn trong một vùng đất có sông nước bao quanh, thiên nhiên ở đây vừa hào phóng vừa ưu ái nhưng cũng muôn phần khắc nghiệt. Từ lâu đời, nghề nông đã sớm xuất hiện, là vùng quê lúa nhưng Hoài Thượng lại thường xuyên phải trợ cấp lương thực do hàng năm bị lũ lụt. Trong nông nghiệp, nghề trồng cây ăn quả, trồng sen, trồng dâu nuôi tằm đóng vai trò là ngành kinh tế chủ đạo. Công việc của nhà nông thường bận rộn vào những ngày mùa. Tận dụng thời gian nông nhàn, người nông dân đã phát huy tính cần cù, khéo léo và sáng tạo của mình để làm ra ở những sản phẩm thủ công phong phú và đa dạng. Hoài Thượng có những nghề thủ công truyền thống sau:Nghề dệt: Đầu thế kỉ XVII, cụ Phạm Thị Quý, con gái một vị quan, người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội), là phu nhân của cụ nghè Lê Doãn Giản, mang nghề dệt của quê mình về làm và hướng dẫn cho nhân dân thôn Đại Mão, Dực Vi, Ngọ Xá làm trong dịp nông nhàn.Nghề làm sơn mài, chạm khắc gỗ ở Lam Cầu, Bình Cầu, Đại Mão.Nghề thợ nề ở Đại Mão: thiết kế, trạm trổ, xây dựng các ngôi đình ở các thôn.13Nghề làm nan vàng mã ở Thượng Trì, Ngọ Xá, Đông Miếu, Nghĩa Vi, Bình Cầu.Nghề ép dầu ở Đại Mão, Lam Cầu, Bình Cầu.Nghề làm con tò he ở Đông Miếu.Nghề làm nón hồ ở Ngọ Xá.Với vị trí thuận lợi: nằm sát sông Đuống, thuyền bè đi lại thuận tiện, có bến đò ngang nên thương nghiệp ở đây phát triển sớm. Chợ Giữa được ra đời, họp ở khu vực đình chợ. Đình chợ có 5 gian tiền tế, dùng làm nơi bán vải sợi, 2 gian giải vũ, sân đình, đầu đình là chỗ mua bán các mặt hàng sinh hoạt, vật dụng hàng ngày. 1.1.3. Đặc điểm con người xã Hoài ThượngCư dân sống trên đất Hoài Thượng đều là người Kinh, sống tập trung thành những làng lớn nằm kề nhau. Họ sống bằng nhiều nghề nhưng chủ yếu làm nông nghiệp nên bản tính rất chất phác, cần kiệm.Hoài Thượng là vùng đất cổ, vốn gần với trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu, gần kinh đô Cổ Loa của An Dương Vương, Ngô Quyền khi xưa, lại sát gần với Thăng Long, Hà Nội sau này, nên Hoài Thượng đã trải qua nhiều phen biến đổi, thăng trầm cùng lịch sử - văn hóa dân tộc. Có thể nói nơi đây, hơn bất cứ nơi nào trên đất Việt, trong suốt hai nghìn năm đã diễn ra sôi nổi quá trình giải thể và đan xen, giao lưu, tiếp xúc và biến đổi văn hóa Việt cổ - Hoa cổ - Ấn cổ và nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai khác.Như vậy, từ cốt lõi văn hóa Đông Sơn Việt cổ, hội nhập thêm văn hóa Phật giáo của Ấn Độ, Nho giáo của Trung Hoa và sau này là văn hóa phương Tây con người Hoài Thượng, Bắc Ninh đã được rèn dũa, hình thành nên nét tính cách riêng của mình: rất “phong nhã và thượng võ”.Con người Hoài Thượng rất chuộng văn học và có truyền thống khoa bảng. Theo sách Đại Việt triều đăng khoa thực lục, các cuốn gia phả của dòng 14họ và văn bia văn chỉ thời cổ, Hoài Thượng có các tiến sĩ sau: Nguyễn Đình Khuê, Trịnh Đức Vận, Lê Doãn Giản, Lê Doãn Thân. Đặc biệt, cụ Đỗ Trọng Vỹ đỗ cử nhân, được tôn vinh là Danh nhân, ngôi sao sáng của văn hiến Kinh Bắc. Ông là nhà giáo có nhiều học trò thành đạt, đặc biệt là ông có công tôn tạo Văn Miếu - Bắc Ninh, nơi có 12 tấm bia đá ghi danh gần 700 người đỗ đạt. Ông cũng dày công soạn bộ sách Bắc Ninh địa dư chí ghi chép, đánh giá về thuần phong, mỹ tục của các làng quê và các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh. Ngoài học vị tiến sĩ, đất Hoài Thượng thời phong kiến có gần 60 vị Hương cống, cử nhân và hàng trăm sinh đồ, tú tài. Có nhiều gia đình, nhiều dòng họ có truyền thống khoa cử rất rực rỡ như gia đình cụ Lê Chu Kiều (bố và 5 con trai đều đỗ cử nhân), dòng họ Đỗ 4 đời đều có người đỗ cử nhân. Đặc biệt, có cụ Lê Nho Thạc mặc dù không có học vị tiến sĩ nhưng lại là thầy dạy của hàng ngàn học trò, trong đó có 43 vị đỗ tiến sĩ. Những vị đỗ đại khoa của vùng đất Hoài Thượng đều được ghi danh ở Văn Miếu Bắc Ninh.Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về điều này khi nghiên cứu về lịch sử - văn hóa dòng họ Lê Nho với những gương mặt tiêu biểu.1.1.4. Truyền thống lịch sử - văn hóaTruyền thống lịch sửLà miền quê có truyền thống thượng võ và có lòng yêu nước nồng nàn, các thế hệ người dân Hoài Thượng luôn có tinh thần đoàn kết, tích cực tham gia đóng góp vào công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và bảo vệ Tổ quốc.Theo Thần phả của làng Đại Mão thì vào năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định, có chiêu mộ đinh tráng và tổ chức luyện tập ở đây. Một số địa danh như Đường Trống, Đường Cờ còn ghi lại sự tích đó.Năm 542, Lý Bí đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi quân Lương. Khi ông hành quân qua đây có nghỉ lại ở Thượng Trì. Trong dịp này, nhiều trai đinh của làng đã tình nguyện đi theo nghĩa quân đánh giặc [3,45].15Năm 1884, cuộc khởi nghĩa Yên Thế bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám phong trào nhanh chóng phát triển rộng, nhiều trai tráng trong làng tham gia vào hàng ngũ nghĩa quân và lập được nhiều chiến công. Tiêu biểu là các cụ: Cả Đò, Lê Nho Dung, Lê Nho Huấn, Nguyễn Đình Liêm ở Đại Mão. Cụ Nguyễn Hữu Kiêm, Nguyễn Hữu Tự ở Thượng Trì [3,60].Năm 1884, Nguyễn Cao (người xã Cánh Bi, huyện Quế Võ) đứng lên khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Khi phong trào lan rộng khắp cả vùng, nhiều người có tinh thần yêu nước đã đầu quân ứng nghĩa. Trong số những người đi theo cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Cao có các cụ: Lê Doãn Vãn, Lê Doãn Vát, Nguyễn Đình Dương (Đại Mão), Tống Tuy (Đông Miếu) [3,47].Năm 1885, cuộc khởi nghĩa của Đề Vang nổ ra, lan rộng ra nhiều làng của vùng Siêu Loại. Nhiều trai tráng của làng thuộc tổng Thượng Mão đã tham gia phong trào. Vào một ngày cuối năm 1893, nghĩa quân tập trung ở Thượng Trì chuẩn bị chống giặc. Khi thấy thế giặc mạnh đã rút về Lam Cầu để tác chiến. Tại đây, nghĩa quân tổ chức đánh một trận quyết chiến với giặc Pháp, giết chết một tên quan người Pháp, chặt đầu treo lên cửa võng đình Bình Cầu. Ngày 6 - 2 - 1894, giặc Pháp kéo quân đến triệt hạ 3 làng Đại Mão, Bình Cầu, Lam Cầu. Riêng làng Lam Cầu còn có 8 đôi vợ chồng [3,46].Năm 1885, khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân Hoài Thượng có nhiều người hưởng ứng. Tiêu biểu là cụ Nguyễn Đình Dương, cụ Tán Thái Lạc (Đại Mão).Năm 1907, khi phong trào yêu nước Đông Kinh Nghĩa Thục do cụ Nguyễn Quyền và các đồng chí của mình khởi xướng, nhiều nhà nho của đất Hoài Thượng tích cực tham gia. Đó là các cụ Nguyễn Ngọc Ninh, Nguyễn Ngọc Lợi, Trần Đăng Lâm (ở Ngọ Xá) [3,47]. Năm 1930, phong trào yêu nước của những đảng viên Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo phát triển về đất Hoài Thượng, một số trai 16tráng đã tham gia phong trào, đó là các cụ: Lê Doãn Bàng, Lê Doãn Ý, Lê Doãn Kỹ. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Hoài Đức, Thượng Mão đã tích cực chuẩn bị lực lượng để kháng chiến lâu dài. Nhân dân hai xã đã thành lập ban phá hoại từ xã đến các thôn và phát động toàn dân tiêu thổ kháng chiến, đốt sạch một số cơ sở như đình Đại Mão, đình Thượng Trì không để cho quân địch chiếm đóng. Ở địa phương dấy lên phong trào “tình nguyện tòng quân giết giặc cứu nước, hàng chục thanh niên đã viết đơn xung phong tham gia cứu quốc quân như: Trần Đăng Duyên, Tuấn Anh, Đỗ Trọng Khang, Lê Đình Thỉnh, Lê Văn Dâu… [3,68].Năm 1947, Hoài Đức và Thượng Mão nằm trong vùng tạm chiếm của địch, đời sống nhân dân ngày càng gặp nhiều khó khăn, Ủy ban Hành chính chuyển thành Ủy ban Kháng chiến hành chính. Chính quyền cách mạng của 2 xã phải sơ tán sang Tiên Du, Quế Võ. Cán bộ Đảng viên và du kích ban đêm phải vượt sông về bắt mối gây dựng cơ sở cách mạng, củng cố phong trào. Đây là thời kì khó khăn gian khổ nhất trong phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.Tháng 5 năm 1947, chi bộ Đảng Thượng - Hoài - Mão được thành lập gồm ba xã Hoài Đức, Thượng Mão, Mão Điền. Những Đảng viên kiên trung như Đỗ Trọng Tứ, Đỗ Trọng Khoát, Lê Nho Hiệu, Nguyễn Duy Đức bị thực dân Pháp bắt và tra tấn dã man nhưng họ đã không khai ra cơ sở cách mạng ở xã, sau bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Hỏa Lò. Năm 1947 - 1948, tỉnh ủy Bắc Ninh ra chỉ thị “Tổng phá tề diệt bảo an”, địa phương đã phát động quần chúng nhất tề đấu tranh, trong vòng 1 tuần đã giải tán các ban tề của địch. Thắng lợi này có ý nghĩa chính trị to lớn, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh cách mạng.17Từ giữa năm 1950, phong trào chiến tranh du kích ở 2 xã Hoài Đức, Thượng Mão phát triển mạnh mẽ, đánh địch bằng nhiều hình thức, chủ yếu là hình thức phục kích tiêu diệt địch. Đi đầu trong phong trào này có chiến sĩ Nguyễn Hữu Tài, Phạm Hữu Đoàn, Trần Đăng Chiên, Trịnh Hòa Hoàn [3,77].Năm 1951, du kích 2 xã Hoài Đức và Thượng Mão cùng với bộ đội huyện Thuận Thành đã tổ chức tấn công và tiêu diệt hai bốt Đại Mão và Thượng Trì.Trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cán bộ và nhân dân xã Hoài Đức, Thượng Mão đã được Chính phủ tặng thưởng 11 huân chương kháng chiến hạng ba, 91 huy chương hạng nhất, 70 huy chương hạng hai và 61 bằng khen cho cá nhân và tập thể [3,88].Qua cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, toàn xã có 1479 người tham gia lên đường nhập ngũ, 146 liệt sĩ, 53 thương bệnh binh, 601 gia đình được cấp bằng danh dự có công với nước, 815 người được tặng thưởng Huân huy chương cứu nước, 7 Huân chương Lao động kháng chiến các hạng, 523 Huân chương chiến công giải phóng, 7 mẹ Việt Nam Anh hùng [3,98].Truyền thống văn hóaXã Hoài Thượng được hình thành từ rất sớm, nhân dân sống tập trung thành từng làng, xung quanh làng là những lũy tre bao bọc. Mỗi làng đều có bến nước, cây đa, mái đình có nhiều loại hình nghệ thuật phong phú và sôi động với nhiều thể loại như tuồng cổ, chèo, ca trù, hát nhà tơ Song tiêu biểu hơn cả vẫn là hình thức sinh hoạt văn hóa quan họ. Quan họ là đặc trưng riêng biệt, tạo nên bản sắc văn hóa Bắc Ninh. Trong các lễ hội, một hình ảnh đã trở thành biểu trưng của văn hóa quan họ đó là các liền anh, liền chị mặc áo mớ ba mớ bảy, đội nón quai thao, tóc vấn đuôi gà, cạnh các liền anh áo the khăn xếp, tay cầm ô đen, đứng duyên dáng và hát đối đáp với nhau.18Hoài Thượng có tục lên Lão đối với các cụ 50 tuổi. Tục nhập Hương ẩm vào ngày 10 - 2 và ngày 10 - 8, hàng năm ở Đại Mão thường vào sổ nhập hương ẩm cho trẻ là con trai vào các kỳ mồng mười tháng Hai, mồng mười tháng Tám là ngày xuân tịch và thu tịch cũng như ngày cúng xôi mới của làng vào khoảng tháng Mười âm lịch hàng năm. Khi một đứa trẻ ra đời, vào những ngày trên bố mẹ sắm cơi trầu, chai rượu ra đình làng làm xin lễ “nhập hương ẩm” còn gọi là vào làng.Một nét đẹp nữa trong đời sống tâm linh của người dân Hoài Thượng là tổ chức Xuân tế hàng năm. Xuân tế tổ của các dòng họ trong thôn thường cúng từ ngày 6/1 đến ngày 14/1.Hoài Thượng là vùng đất có nhiều lễ hội. Làng Thượng Trì vào đám ngày 12 đến ngày 22 tháng 2 kỉ niệm ngày sinh của Thành Hoàng, có ca xướng. Làng Lam Cầu vào hội ngày 12 - 2 và ngày 12 - 8, đó là ngày sinh của vị Thành Hoàng. Làng Ngọ Xá mở hội vào ngày 12 - 2 và ngày 13 - 8. Hội tháng Hai mở ra là để kỉ niệm ngày Hai Bà Trưng đánh quân Tô Định.Phần hội là phần thu hút được nhiều người tham gia và tạo nên tính hấp dẫn của lễ hội. Đó là các hội thi để thể hiện tài nghệ, khéo léo của người chơi như thi đấu vật, đánh cờ, chọi gà, đấu ngựa gỗ, thi đọc mục lục đều có ở các làng, thi dệt vải ở Đại Mão, hay nghi lễ rước sắc của ba thôn Đại Mão, Thụy Mão, Đông Miếu. Hội diễn ra cả ngày lẫn đêm. Ở các làng xã của Hoài Thượng có các cuộc tế lễ:- Cầu đảo: có 9 thôn đến đình Đại Mão rước sấm, cầu mưa.- Lễ Mông sơn thí thực: cúng cháo cô hồn vào ngày 1/7 và ngày 15/7.Đối với người dân, lễ hội là dịp vui chơi giải trí, thoát ra khỏi sự nhọc nhằn vất vả sau những ngày lặn lội với đồng ruộng, là nơi để mọi người gặp gỡ nhau. Lễ hội còn là dịp để con cháu đi xa trở về sum họp nơi quê cha đất tổ. Lễ hội luôn luôn là một nét đẹp truyền thống của mỗi làng quê và dù thế 19nào thì hàng năm nó vẫn được diễn ra vì đối với mỗi người dân đó là một hoạt động văn hóa tinh thần không thể thiếu.Xã Hoài Thượng còn có các di tích lịch sử văn hóa. Đó là những công trình kiến trúc tôn giáo như: chùa Lương Đống xây năm 1687, chùa Sùng Ân, chùa Thanh Ngọc được xây dựng vào thời vua Lê Dụ Tông (1719), chùa Mục Đồng (hiện nay không còn).Đình Chợ ở Đại Mão được xây dựng từ thời Lê để thờ các tổ sư bách nghệ. Đình làng Nghĩa Vi và Dực Vi thờ ba vị Thành hoàng là Tây phương Bạch đế, Bắc phương Hắc đế và Nam phương Xích đế. Đó là ba vị thiên thần đã giúp Trưng Trắc phá giặc Tô Định.Văn hóa ẩm thực: Xã Hoài Thượng nổi tiếng với các món đặc sản đậm chất dân dã như: bánh đúc lạc ở Đông Miếu, tương ở Ngọ Xá, bánh tro ở Thượng Trì, rượu nếp ở Bình Cầu.1.1.5. Một số dòng họ lớn trên đất Hoài Thượng Dòng họ Lê Doãn ở Đại Mão, Hoài Thượng, Thuận Thành, Bắc Ninh.Theo gia phả thì cụ Thủy Tổ Lê Quý Công tự Thủ trung phủ quân có lẽ là một chức quan nhỏ triều Lê hoặc dạy học tại thôn Đại Mão, thấy địa thế Đại Mão đẹp bèn sinh cơ lập nghiệp tại đây vào thời vua Lê Uy Mục (1505 - 1509) đến nay vào khoảng 500 năm.Hiện nay, họ Lê Doãn có 4 chi:Chi 1, chi 2, chi 3 ở Đại Mão đều là con cháu của cụ Lê Doãn Nghi (đời thứ 8).Chi 4 ở Nhã Lộng - Phú Bình - Thái Nguyên là con cháu của cụ Lê Doãn Nghiêu tự là Pháp năng (đời thứ 8).Tính đến thời điểm 2013, dòng họ Lê Doãn ở Đại Mão, Hoài Thượng, Thuận Thành, Bắc Ninh đã trải qua 19 đời. Đây là một dòng họ có truyền thống hiếu học và khoa cử. Theo bia phả, tổ tiên họ Lê Doãn chủ yếu làm quan cho 20nhà Lê từ thời Lê Trung Hưng cho đến thời Lê Mạt (Lê Chiêu Thống) trong khoảng thời gian 257 năm (1532-1789) các cụ nối tiếp nhau khoa bảng và kế tiếp nhau 7 thế hệ làm quan phục vụ cho nhà Lê. Như vậy, từ cụ Thủy Tổ đến kết thúc nhà Nguyễn, con cháu thuộc dòng họ con trưởng họ Lê Doãn trong thời gian gần 500 năm vào đời thứ 19 đã có nhiều người đỗ đạt cao, gồm có:Phong tặng Đông các Đại học sỹ: 1 cụ.Đỗ tiến sĩ: 2 cụ.Cử nhân: 10 cụ.Tú tài: 4 cụ [18,34].Thật là một dòng họ khoa bảng lẫy lừng vùng Kinh Bắc. Với những giá trị đó, nhà thờ dòng họ Lê Doãn đã được các cơ quan chuyên môn khảo cứu xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh đầu năm 2012. Dòng họ Lê Đình ở Đông Miếu, Hoài Thượng, Thuận Thành, Bắc Ninh.Họ Lê Đình có lịch sử trên 400 năm, trải qua 16 đời. Cụ Tổ hiệu là “Lê Công tự Phúc Châu”. Theo gia phả ghi chép lại thì từ lúc cụ Tổ đến khai cơ lập nghiệp ở Đông Miếu vào thời kì nhà Mạc, không có người làm quan to trong triều. Đến thế kỉ XX, dòng họ Lê Đình có một số cụ đỗ đạt làm quan cho triều đình như cụ Lê Đình Khoa đỗ tú tài và dạy học, Lê Đình Hoạch đỗ tiến sĩ làm đến chức Tuần phủ. 1.2. Nguồn gốc và lịch sử phát triển của dòng họ Lê Nho ở Đại Mão1.2.1. Làng Đại Mão - quê hương dòng họ Lê NhoTừ thủ đô Hà Nội đi qua cầu Chương Dương, theo đường số 5 đến ga Phú Thị rẽ vào đường số 182 qua chùa Dâu đến ngã tư Đông Côi gặp đường số 38 rẽ tay trái qua huyện lỵ Thuận Thành, lên đò Đuống rẽ tay phải đi theo đường đê chừng 3 km là tới dốc bên trái vào làng Đại Mão.21Đại Mão là một làng cổ của xứ Kinh Bắc ngàn năm văn hiến. Làng Đại Mão nằm bên bờ sông Đuống. Phía Bắc giáp thôn Lam Cầu, phía Đông giáp thôn Đông Miếu, phía Nam giáp xã Mão Điền, phía Tây giáp thôn Bình Cầu, Nghĩa Vi, Dực Vi, Thượng Trì. Làng cách huyện lỵ Thuận Thành chừng 4 km về phía Tây Nam. Cùng vị trí nối tiếp có làng Đông Hồ, nổi tiếng về nghề tranh dân gian. Làng trải dài từ Tây sang Đông với chiều dài chừng 1 km, chiều rộng trung bình 0,2 km. Đại Mão xưa có tên nôm là Trung Thôn (hay còn gọi là làng Giữa) thuộc tổng Thượng Mão, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tên của địa danh này có từ bao giờ, không ai khẳng định được.Làng nằm trên một thế đất tay ngai cao, hình võng khá cao (thấp dần về giữa). Dưới con mắt của các nhà địa lý thì đây là điểm huyệt có long mạch chạy từ Bắc Ninh về. Quanh làng có 40 gò đống mang địa danh khác nhau như Đống Sang, Đống Sến, Đường Cờ, đường Trống, đường Bút… Đại Mão nằm trên bãi bồi bờ Nam sông Đuống, được bao bọc bởi những vạt ruộng lúa, ngô xanh mướt, người Đại Mão truyền nhau rằng làng có thế đất “Tay ngai” và có “Ngũ Mã chấn tiền, Tam Thai ủng hậu”, nên con người nơi đây ham làm và ham học. Theo thuyết phong thủy thì:“Muốn cho con cháu công hầuPhải có thiên mã đứng chầu phương NamMuốn cho con cháu làm quanPhải có thiên mã phương Nam chầu về” [28,13].Long mạch chạy từ núi Phật Tích về hội tụ tại đình làng. Phía trước đình làng và làng là Ngũ Mã (Mã Cao, Mã Chàng, Mã Đường, Mã Thủy, Mã Cuối) chầu vào. Đường sau đình làng lại có “Tam Thai ủng hậu” đó là 3 gò (Con Kim, Con Hỏa, Con Diệu). Hai bên đình làng còn là đường Cờ, đường 22
Tài liệu liên quan
- Tìm hiểu lịch sử văn hoá dòng họ ở quỳnh đôi quỳnh lưu nghệ an
- 93
- 861
- 5
- Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức chuyên môn ở các trường THPT huyện thuận thành, tỉnh bắc ninh luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
- 120
- 1
- 3
- Lịch sử văn hóa dòng họ hà huy ở cẩm hưng, cẩm xuyên, hà tĩnh từ thế kỷ XVI đến nay (2009)
- 104
- 971
- 4
- Lịch sử văn hoá dọng họ hồ ở nghệ an
- 57
- 627
- 1
- Lịch sử văn hoá dòng họ lê bật ở cổ định xã tân ninh triệu sơn thanh hoá từ thế kỷ XIII đến năm 2007
- 150
- 1
- 9
- Lịch sử văn hoá dòng họ ngô ở can lộc ( hà tĩnh ) từ thế kỷ XV đếnnay ( 2007 )
- 109
- 1
- 3
- Lịch sử văn hoá dòng họ nguyễn hà ở phương khê, triệu sơn, thanh hoá từ thế kỷ XVII đến năm 2010
- 155
- 757
- 1
- Lịch sử văn hoá dòng họ nguyễn sỹ ở thanh lương thanh chương nghệ an (từ thế kỉ XVI đến nay)
- 144
- 948
- 6
- Lịch sử văn hoá dòng họ nguyễn tiên điền ở nghi xuân (hà tĩnh) cuối thế kỷ XVI đến nay
- 78
- 877
- 2
- Lịch sử văn hoá dòng họ trịnh ở thanh hoá
- 100
- 619
- 0
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(11.58 MB - 133 trang) - LỊCH SỬ VĂN HÓA DÒNG HỌ LÊ NHO Ở XÃ HOÀI THƯỢNG , HUYỆN THUẬN THÀNH TỈNH BẮC NINH Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Họ Lê Nho
-
Họ Lê Nho – Đại Mão, Hoài Thượng, Thuận Thành, Bắc Ninh
-
Nhà Thờ Họ Lê Nho - Xã Hoài Thương - Wikimapia
-
Lê (họ) – Wikipedia Tiếng Việt
-
Ý Nghĩa Của Tên Lê Nho
-
Họ Lê Nho'ss Út | Facebook
-
Họ Lê Nho'k | Facebook
-
Họ Lê Bắc Ninh Trong Dòng Chảy Dân Tộc
-
Nguồn Gốc Họ Lê Việt Nam Qua Các Nguồn Phả, Ngọc Phả Của Một ...
-
Nhớ Những Người Họ Lê - Báo Lao động
-
Các Dòng Họ Việt Nam
-
Họ Le NHo (Church) - Huyện Quế Vo, Bắc Ninh - Helpmecovid
-
Nhà Thờ Họ Lê Thế Tướng đón Nhận Bằng Xếp Hạng Di Tích Cấp Tỉnh
-
Nho Giáo Và Văn Hóa Dòng Họ - Văn Bản Hồ Thượng Thư Gia Lễ