Người dân tộc Sán Dìu Sán Dìu là một dân tộc ít người sinh sống ở miền trung du của một số tỉnh miền Bắc Việt Nam. Dân tộc Sán Dìu còn có các tên gọi khác là Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán quần cộc, Mán váy xẻ. Dân tộc này thuộc nhóm ngôn ngữ Hoa với dân số khoảng 126.237 người. Dân tộc Sán Dìu được tạo lập từ thời nhà Minh tại Quảng Đông, Trung Quốc; sau đó dần dần di chuyển đến Việt Nam. Mặc dù nói tiếng Quảng Đông và sử dụng chữ Hán, người Sán Dìu không phải là người Hoa. Trong quá khứ, dân tộc Sán Dìu từng được coi là một nhánh của dân tộc Dao. Dân số và địa bàn cư trú Dân tộc Sán Dìu chủ yếu sống ở miền trung du các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang; chiếm tỷ lệ khoảng 97% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam. Ngoài ra còn có một số người Sán Dìu từ các tỉnh miền Bắc di cư vào khu vực Tây Nguyên để lập nghiệp, họ lập thành các bản làng riêng hay sống rải rác tại các tỉnh, thành phố khác. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam với dân số 146.821 người, có mặt tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người dân tộc Sán Dìu cư trú tập trung tại các tỉnh Thái Nguyên 44.131 người, chiếm tỷ lệ 30,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam; tỉnh Vĩnh Phúc 36.821 người, chiếm tỷ lệ 25,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam, tỉnh Bắc Giang 27.283 người, tỉnh Quảng Ninh 17.946 người, tỉnh Tuyên Quang 12.565 người, tỉnh Hải Dương 1.872 người, tỉnh Đồng Nai 850 người, Thành phố Hà Nội 832 người, tỉnh Lâm Đồng 662 người, tỉnh Đăk Nông 617 người... Tổ chức cộng đồng, nhà cửa và trang phục Người dân tộc Sán Dìu ở tập trung thành từng chòm xóm nhỏ. Nhà cửa của người Sán Dìu thường là loại nhà đất. Nhà của dân tộc này không có những nét đặc trưng riêng. Có lẽ vì vậy mà người Sán Dìu đã tiếp thu mẫu nhà của người dân tộc Kinh khá dễ dàng. | Lễ đón dâu trong đám cưới của dân tộc Sán Dìu, xã Ninh Lai (Sơn Dương). |
Trang phục của người dân tộc Sán Dìu đã và đang đổi thay gần giống với trang phục người dân tộc Kinh. Phụ nữ người Sán Dìu có tập quán ăn trầu và thường mang theo bên mình chiếc túi vải đựng trầu hình múi bưởi, có thêu nhiều hoa văn sặc sỡ; kèm theo là con dao bổ cau có bao bằng gỗ được chạm khắc trang trí đẹp. Về thủ tục cưới xin, ma chay Trong nhà, người chồng, người cha là chủ gia đình; con theo họ cha, con trai được thừa hưởng gia tài. Cha mẹ quyết định việc cưới gả cho con cái. Con trai, con gái phải được xem số, so tuổi trước khi nên duyên vợ chồng. Việc ma chay cũng qua nhiều nghi thức. Từ sau 3 năm, người chết được bốc cốt và cải táng, đây là một dịp vui. Đặc điểm kinh tế, văn hóa Người dân tộc Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, có một phần làm nương, soi, bãi. Thêm vào đó còn chăn nuôi gia súc, khai thác lâm sản, đánh bắt, nuôi thả cá, làm gạch ngói, rèn, đan lát... Từ lâu đời, người dân tộc Sán Dìu đã sáng tạo ra chiếc xe quệt, không cần bánh lăn. Họ dùng trâu kéo để làm phương tiện vận chuyển. Hình thức gánh trên vai hầu như chỉ dùng cho việc đi chợ. Hàng ngày, người Sán Dìu dùng cả cơm lẫn cháo, đồ giải khát thông thường là nước cháo loãng. Ngoài ra họ còn hay uống rượu trong sinh hoạt. Về văn hóa, thơ ca dân gian của người dân tộc Sán Dìu phong phú, họ dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ (Soọng cô) rất phổ biến. Truyện kể chủ yếu là truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh la, não bạt... cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi dân tộc được họ ưa thích là đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông kiểu Sán Dìu, kéo co... |