NGƯỜI KHMER - Ủy Ban Dân Tộc

Tiếng Việt | English VN | EN Toggle navigation
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
  • TIN TỨC
  • TIN ĐA PHƯƠNG TIỆN
  • THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
  • THƯ ĐIỆN TỬ
  • ĐIỀU HÀNH TÁC NGHIỆP
GIỚI THIỆU

Chức năng, nhiệm vụ

Cơ cấu tổ chức

Lịch sử phát triển của Ủy ban Dân tộc

Cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc tại địa phương

TIN HOẠT ĐỘNG

Hoạt động của Bộ trưởng, Chủ nhiệm

Hoạt động của Ủy ban Dân tộc

Ủy ban Dân tộc với Bộ ngành

Ủy ban Dân tộc với địa phương

Hoạt động của các Ban Dân tộc

Cải cách hành chính

TIN TỔNG HỢP

Chủ trương - Chính sách

Thời sự - Chính trị

Kinh tế - Xã hội

Y tế - Giáo dục

Văn hóa - Văn nghệ - Thể thao

Khoa học - Công nghệ - Môi trường

Pháp luật

Quốc tế

Nghiên cứu - Trao đổi

Gương điển hình tiên tiến

Thông tin thị trường giá cả

TIN VIDEO

Tin hoạt động

Điểm báo

Phim tư liệu

TIN ẢNH

Ảnh hoạt động

Ảnh tư liệu

"Đổi mới tư duy, xây dựng pháp luật, từng bước nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp và chất lượng trong công tác xây dựng pháp luật"
  1. Trang chủ
  2. Giới thiệu
  3. Cộng đồng 54 dân tộc

NGƯỜI KHMER

03:56 PM 04/11/2015 | Lượt xem: 57668 | In bài viết | Đọc bài viết A+ A-

Tên tự gọi: Người Khmer. Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.319.652 người, (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Tạo dáng đồ gốm.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Cày hai trâu là một đặc trưng kỹ thuật nông nghiệp của người dân Khmer.

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Chùa và sinh hoạt Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và xã hội.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo: Bức tranh Văn hóa các Dân tộc Việt Nam (NXB Giáo dục)

[ Quay lại ]

File đính kèm

(Bức tranh Văn hóa các Dân tộc Việt Nam - NXB Giáo dục)

Từ khóa Tin liên quan Tin khác Thông báo tình hình thực hiện dự toán quý II và 6 tháng năm 2023 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (6 giờ trước) Thông báo tình hình thực hiện dự toán quý III và 9 tháng năm 2023 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (6 giờ trước) Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 7) (6 giờ trước) Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 6) (6 giờ trước) Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 2) (6 giờ trước) Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 4) (6 giờ trước) Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 3) (6 giờ trước) Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 2) (6 giờ trước) Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban (lần 1) (6 giờ trước)
  • MỚI NHẤT
  • XEM NHIỀU

Thông báo tình hình thực hiện dự toán quý II và 6 tháng năm 2023 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc 6 giờ trước

Thông báo tình hình thực hiện dự toán quý III và 9 tháng năm 2023 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc 6 giờ trước

Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 7) 6 giờ trước

Quyết định công bố công khai điều chỉnh dự toán NSNN năm 2024 của Văn phòng Ủy ban Dân tộc (lần 6) 6 giờ trước

"Đổi mới tư duy, xây dựng pháp luật, từng bước nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp và chất lượng trong công tác xây dựng pháp luật" 80274 lượt xem

Gia Lai: Đặc sắc Chương trình nghệ thuật “Vũ khúc Dã quỳ - Chư Đang Ya” 2205 lượt xem

Khai mạc Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021 - 2025 khu vực miền Trung - Tây Nguyên 2035 lượt xem

Cần cơ chế đặc thù để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số 2031 lượt xem

THÔNG BÁO

Mời tham gia thực hiện thẩm tra Báo cáo kinh tế - kỹ thuật dự án "Xây dựng Tạp chí dân tộc điện tử" (15/11/2024) Xin ý kiến các địa phương về dự thảo Tờ trình, Quyết định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT phê duyệt điều chỉnh, bổ sung và hiệu chỉnh tên huyện, xã, thôn ĐBKK; thôn thuộc vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2025 (11/11/2024) Bộ tài liệu đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng thuộc Tiểu dự án 4, Dự án 5 Chương trình 1719 (29/11/2023) Xem thêm >>

CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM

NGƯỜI CHƠ RO

Xem thêm>>
  • ẢNH

  • VIDEO

Phim tài liệu: Chặng đường vẻ vang 70 năm công tác dân tộc

Xem thêm>>

Các hoạt động của Ban Dân tộc về giáo dục, tuyên truyền, pháp luật và kinh tế - xã hội

Xem thêm>> VN | EN Toggle navigation
  • TRANG CHỦ
  • CƠ QUAN QUẢN LÝ VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TẠI ĐỊA PHƯƠNG
Trang chủ Lên đầu trang

Từ khóa » Dân Tộc Khmer Sống ở Vùng Nào