Nhà Thơ Hữu Loan (1916 - 2010) - TẠP CHÍ TAO ĐÀN

Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa…

Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da diết Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, Màu tím hoa sim)

Bài thơ Màu tím hoa sim có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây đã được xác nhận là bản gốc. Bài thơ này đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Hồ, Hồng Vân. Vợ tác giả tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái cụ Lê Đỗ Kỳ. Lê Đỗ Kỳ cùng công tác tại Uỷ ban tỉnh Thanh Hoá sau Cách mạng tháng Tám với Hữu Loan. Cụ Kỳ nguyên là Chánh Thanh tra Lâm nghiệp toàn Đông Dương. Cụ Kỳ có nhiều con trai là sỹ quan quân đội Nhân dân VN nổi tiếng: Con trai cả là Lê Đỗ Khôi, hy sinh tại Điện Biên Phủ 5 tiếng đồng hồ trước khi quân ta cắm cờ trên sở chỉ huy của Pháp. Tiếp đó là Lê Đỗ Nguyên, tức Trung tướng Hồng Cư. Em ông Cư là Lê Đỗ An, tức Nguyễn Tiên Phong, sau là Bí thư Trung ương Đoàn TNCS HCM. Em ông Nguyên là Đại tá Lê Đỗ Thái. Hai ông Hồng Cư và Lê Đỗ Thái hiện sống ở Hà Nội và đều lấy con gái GS.Đặng Thai Mai.

Tại thời điểm những năm 1950 – 1951, bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan đã mở đầu cho một giai đoạn thơ trữ tình kháng chiến viết về các mối tình “bi tráng” hậu phương – tiền tuyến của những lứa đôi mà tiếp theo dòng chảy ấy là các bài thơ Núi đôi của Vũ Cao thời chống Pháp và sau này Quê Hương của Giang Nam thời chống Mỹ. Bà vợ sau của Hữu Loan kém ông gần ba chục tuổi, hai ông bà sau này sinh được 10 người và 37 đứa cháu. Năm 2004, bài thơ Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan được một Công ty tư nhân bỏ ra 100 triệu đồng mua bản quyền với lòng trân trọng và quý mến tài thơ của ông. Đóng thuế thu nhập mất 10 triệu đồng, ông cho con cháu 60 triệu đồng, còn 30 triệu đồng, ông để in tập thơ Hữu Loan và đề “phòng thân” lúc cuối đời.

Năm 1988 , khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhà thơ Hữu Loan bắt đầu “tái xuất giang hồ” và trong chuyến “hành hương phương Nam” năm ấy, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo được đón tác giả Màu tím hoa sim ở cố đô Huế và tổ chức cuộc nói chuyện của nhà thơ Hữu Loan với các nhà văn miền Trung. Đêm gặp mặt ấy, khi một người đưa cho Hữu Loan chiếc micro để ông nói cho to hơn trước đám đông thì nhà thơ gạt đi và nói “Tôi lâu lắm không tiếp xúc đám đông. Thời cướp chính quyền hồi đầu cách mạng, tôi cũng có dịp nói chuyện trước đồng bào nhưng lâu quá rồi nên quên mất thói quen ấy!”. Nguyễn Trọng Tạo dí dỏm nhận xét: “Sau cả nửa thế kỷ, Hữu Loan vẫn giữ nguyên tác phong của một cán bộ cách mạng kháng chiến. Nhưng điều quan trọng hơn, ông ấy là một nhà cách – mạng – thơ thật sự”. Ông được anh em văn chương quý trọng cả về nhân cách thơ và nhân cách sống vì ông là người khí khái, cương trực.

Theo đánh giá của nhiều nhà phê bình văn học, thi ca kháng chiến với Nhớ máu của Trần Mai Ninh và Đèo Cả của Hữu Loan là hai cột mốc đáng ghi nhớ. Bài thơ Đèo Cả của nhà thơ Hữu Loan vào năm 1946, có thể nói đã mở ra một thời kỳ mới của thơ ca cách mạng vào với tính tráng ca lẫm liệt với âm hưởng hùng vĩ giàu sức chiến đấu:

Từ khóa » Tiểu Sử Hữu Loan