Nhân Khẩu Nhật Bản – Wikipedia Tiếng Việt

Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách cập nhật cho bài viết này. (tháng 2/2023)
Nhân khẩu Nhật Bản
Dân số126,672,000 người[1]
Mật độ343,28/km2 (889,1/sq mi) (2022)[2]
Tỷ lệ sinh trưởngTăng – 0.44% (2024)
Tuổi thọTăng 84.83 năm
Tỷ lệ sinh sảnGiảm 1.14 trẻ em sinh ra/phụ nữ (2024)
Tỷ lệ sinh và tử của Nhật Bản kể từ năm 1950. Sự sụt giảm vào năm 1966 là do đây là năm "hinoe uma" được xem là một điềm xấu của Hoàng đạo Nhật Bản.[3][Cần cập nhật]

Theo thống kê của Bộ Nội vụ và Truyền thông, dân số Nhật Bản là 126,4 triệu người (được xác định vào tháng 1 năm 2020) và là quốc gia đông dân thứ sáu ở châu Á và thứ mười một trên thế giới. Sau thế kỷ 20, do Nhật Bản gia nhập xã hội hậu công nghiệp, tỷ lệ sinh của dân số đã giảm và điều kiện y tế được cải thiện. Ngoài ra, chính sách kiểm soát nhập cư nghiêm ngặt đã khiến Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia có dân số già nhất thế giới và Nhật Bản cũng bình quân đầu người. Chất lượng cuộc sống được cải thiện và việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là hai lý do khiến Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới. Tuổi thọ trung bình của người Nhật Bản đã được cải thiện đáng kể sau Thế chiến II, tăng thêm 20 tuổi từ năm 1945 đến năm 1955. Khi tuổi thọ trung bình tiếp tục tăng, Nhật Bản dự kiến sẽ gặp khó khăn trong việc chăm sóc thế hệ người cao tuổi trong tương lai. Tình trạng thiếu hụt nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ đã là một mối lo ngại lớn, với nhu cầu về điều dưỡng viên và nhân viên chăm sóc ngày càng tăng. Hiện tại, tổng dân số và lực lượng lao động của Nhật Bản tiếp tục giảm.

Phân phối

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhật Bản là một quốc gia có mức độ đô thị hóa cao với khoảng 92% dân số sống ở các khu vực thành thị và hiện chỉ có 5% dân số là nông nghiệp. Khoảng 80 triệu người sống ở phía Thái Bình Dương của đảo Honshu và phía bắc của đảo Kyushu. Tokyo số dân hơn 9,7 triệu người, những nơi khác như thành phố Yokohama có 3,8 triệu người; Osaka có 2,8 triệu người; Nagoya Thành phố có 2,3 triệu người; Sapporo có 2 triệu người; thành phố Kobe có 1,5 triệu người; Thành phố Kyoto có 1,5 triệu người; Fukuoka Thành phố có 1,6 triệu người, 1,5 triệu người người ở thành phố Kawasaki và 1.000.211 người ở thành phố Kitakyushu. [4]

Quốc tịch

[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc tịch Nhật Bản được sử dụng và những người thiểu số nói tiếng Nhật đơn ngữ thường cư trú ở Nhật Bản trong nhiều thế hệ dưới tư cách thường trú nhân mà không có được quyền công dân tại quốc gia họ sinh ra, mặc dù về mặt pháp lý họ được phép làm như vậy. Điều này là do luật pháp Nhật Bản không công nhận hai quốc tịch sau tuổi trưởng thành và vì vậy mọi người trở thành công dân Nhật Bản nhập tịch phải từ bỏ quyền công dân của các quốc gia khác khi họ đến tuổi 20. Một số người Hàn Quốc và Trung Quốc và con cháu của họ (chỉ có thể nói Người Nhật và thậm chí có thể chưa bao giờ đến thăm quốc gia có quốc tịch mà họ nắm giữ) không muốn từ bỏ quốc tịch khác này.

Ngoài ra, những người mang quốc tịch Nhật Bản phải đặt tên bằng cách sử dụng bộ ký tự tiếng Nhật hiragana, katakana và/hoặc kanji. Tên sử dụng bảng chữ cái phương Tây, bảng chữ cái Hàn Quốc, ký tự tiếng Ả Rập, vv không được chấp nhận làm tên hợp pháp. Các ký tự Trung Quốc thường được chấp nhận về mặt pháp lý vì gần như tất cả các ký tự Trung Quốc được chính phủ Nhật Bản công nhận là hợp lệ. Chuyển ngữ tên không phải tiếng Nhật bằng katakana (ví dụ ス ミ "Sumisu " cho "Smith") cũng được chấp nhận về mặt pháp lý.

Tuy nhiên, một số người nước ngoài nhập tịch cảm thấy rằng trở thành công dân Nhật Bản có nghĩa là họ có tên tiếng Nhật và họ nên từ bỏ tên nước ngoài của họ, và một số cư dân nước ngoài không muốn làm điều này mặc dù hầu hết người Hàn Quốc thường trú và người Trung Quốc đã sử dụng tiếng Nhật tên. Tuy nhiên, khoảng 10.000 người Hàn Quốc tại Nhật nhập tịch mỗi năm. Khoảng 98,6% dân số là công dân Nhật Bản và 99% dân số nói tiếng Nhật là ngôn ngữ đầu tiên của họ. Người không phải dân tộc Nhật Bản trong quá khứ, và ở một mức độ nào đó trong hiện tại, cũng sống với số lượng nhỏ trong quần đảo Nhật Bản.

Dân số

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử dân số

[sửa | sửa mã nguồn] Lịch sử dân số
NămSố dân±%
191050.984.840—    
191554.935.755+7.7%
192055.963.053+1.9%
192559.736.822+6.7%
193064.450.005+7.9%
193569.254.148+7.5%
194073.075.071+5.5%
194571.998.104−1.5%
195083.199.637+15.6%
195589.275.529+7.3%
196093.418.501+4.6%
196598.274.961+5.2%
1970103.720.060+5.5%
1975111.939.643+7.9%
1980117.060.396+4.6%
1985121.048.923+3.4%
1990123.611.167+2.1%
1995125.570.246+1.6%
2000126.925.843+1.1%
2005127.767.994+0.7%
2010128.057.352+0.2%
2015127.094.745−0.8%
2018126.440.000−0.5%
2020126.304.543−0.1%
2022124.997.578−1.0%
2023124.370.947−0.5%
2024123.753.041−0.5%
2025123.103.479−0.5%
Nguồn: Worldometers (https://www.worldometers.info/world-population/japan-population/) 2017 ước lượng[5] 2018 ước lượng[6]

Theo số liệu từ điều tra dân số tháng 10 năm 2010, dân số Nhật Bản lên đến đỉnh điểm ở 128.057.352. Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 2015, dân số đã giảm xuống còn 127.094.745 - biến Nhật Bản trở thành quốc gia đông dân thứ mười thế giới vào thời điểm đó. Tổng dân số đã giảm 0,8% kể từ thời điểm điều tra dân số năm 2012, lần đầu tiên giảm kể từ cuộc điều tra dân số năm 1945.[7] Quy mô dân số của Nhật Bản có thể được quy cho với tốc độ tăng trưởng cao có kinh nghiệm trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Kể từ năm 2010, Nhật Bản đã trải qua mất dân số ròng do tỷ lệ sinh giảm và hầu như không nhập cư, mặc dù có một trong những tuổi thọ cao nhất thế giới, ở mức 85,00 tuổi tính đến năm 2016 (đứng ở mức 81,25 vào năm 2006). Sử dụng ước tính hàng năm cho tháng 10 hàng năm, dân số đạt đỉnh vào năm 2008 ở mức 128.083.960 và đã giảm 2.983.352 vào tháng 10 năm 2021.

Dựa trên 2012 dữ liệu từ Viện Quốc gia về Dân số và Nghiên cứu An Sinh Xã Hội, dân số Nhật Bản sẽ tiếp tục giảm thêm khoảng một triệu người mỗi năm trong những thập kỷ tới, trong đó sẽ rời Nhật Bản với dân số 42 triệu trong 2110. Hơn 40% dân số dự kiến sẽ ở độ tuổi trên 65 vào năm 2060. Vào năm 2021, dân số đã giảm trong mười lăm năm liên tiếp 644.000 người vào năm nay, mức giảm lớn nhất được ghi nhận kể từ năm 1945 và cũng phản ánh mức thấp kỷ lục là 831.000 ca sinh. Tính đến năm 2013, hơn 20% dân số Nhật Bản từ 65 tuổi trở lên.

Xếp hạng dân số thế giới của Nhật Bản giảm từ thứ 7 xuống thứ 8 năm 1990, xuống thứ 9 năm 1998 và xuống thứ 10 vào đầu thế kỷ 21.[8] Trong giai đoạn 2010 đến 2015, dân số giảm gần một triệu.

Mật độ dân số

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ mật độ dân số của Nhật Bản theo từng thành phố , tháng 7 năm 2025.

Mật độ dân số của Nhật Bản là 336 người/km2 tính đến năm 2014 (874 người trên mỗi dặm vuông) theo các chỉ số phát triển thế giới. Nó đứng thứ 35 trong danh sách các quốc gia theo mật độ dân số, xếp hạng ngay trên Philippines (347 mỗi km2) và ngay dưới Curacao (359 mỗi km2). Từ năm 1955 đến 1989, giá đất tại sáu thành phố lớn nhất đã tăng 15.000% (+ 12% một năm). Giá đất đô thị thường tăng 40% từ 1980 đến 1987; tại sáu thành phố lớn nhất, giá đất tăng gấp đôi trong khoảng thời gian đó. Đối với nhiều gia đình, xu hướng này khiến việc sở hữu nhà ở tại các thành phố trung tâm trở nên xa vời.

Kết quả là việc đi lại kéo dài đối với nhiều công nhân ở các thành phố lớn, đặc biệt là ở khu vực Tokyo, nơi việc đi lại hàng ngày hai giờ mỗi chiều là phổ biến. Năm 1991, khi nền kinh tế bong bóng bắt đầu sụp đổ, giá đất bắt đầu giảm mạnh và trong vài năm đã giảm 60% so với mức đỉnh. Sau một thập kỷ giảm giá đất, cư dân bắt đầu quay trở lại các khu vực trung tâm thành phố (đặc biệt là 23 phường của Tokyo), bằng chứng là số liệu thống kê dân số năm 2005. Mặc dù gần 70% Nhật Bản bị rừng bao phủ, công viên ở nhiều thành phố lớn, đặc biệt là Tokyo và Osaka, nhỏ hơn và khan hiếm hơn so với các thành phố lớn ở Tây Âu hoặc Bắc Mỹ. Tính đến năm 2014, công viên trên mỗi người dân ở Tokyo là 5,78 mét vuông, gần bằng một nửa so với 11,5 mét vuông của Madrid.

Chính phủ quốc gia và khu vực dành nguồn lực để làm cho các thành phố và khu vực nông thôn trở nên hấp dẫn hơn bằng cách phát triển mạng lưới giao thông, dịch vụ xã hội, công nghiệp và các cơ sở giáo dục trong nỗ lực phân cấp định cư và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, các thành phố lớn, đặc biệt là Tokyo, Yokohama và Fukuoka, và ở mức độ thấp hơn là Kyoto, Osaka và Nagoya, vẫn hấp dẫn đối với những người trẻ tuổi tìm kiếm giáo dục và việc làm.

Tỷ lệ sinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 2 năm 2007, Nhật Bản đã trải qua tốc độ tăng trưởng âm đầu tiên trong 40 năm. Do tỷ lệ sinh ở Nhật Bản thấp hơn, Nhật Bản sẽ bước vào thời kỳ tăng trưởng dân số âm trong 50 năm tới. Nhiều người cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội. Một số nhà nhân khẩu học tin rằng lợi ích của việc giảm dân số của Nhật Bản là Nhật Bản không còn là một quốc gia đông đúc và việc giảm dân số có lợi cho môi trường sinh thái.

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Ngôn ngữ tại Nhật Bản

Xã hội Nhật Bản của người Yamato là ngôn ngữ đồng nhất với quần thể nhỏ của Hàn Quốc (0,9 triệu), Trung Quốc/Đài Loan (0,65 triệu), Philippines (306.000, một số là người Philippines gốc Nhật). Người Brasil (300.000 người, nhiều người trong số họ là người Nhật Bản) cũng như người Peru và người Argentina có nguồn gốc từ Mỹ Latinh và Nhật Bản. Nhật Bản có các nhóm thiểu số bản địa như người Ainu và Lưu Cầu, những người thường nói tiếng Nhật.

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Tỷ lệ tôn giáo Nhật Bản
Thần đạo    99%
Phật giáo (Đồng thời cả Thần đạo)    80%
Kitô giáo    1%
Khác, không rõ    7.1%
Cơ quan Tình báo Trung ương Khảo sát năm 2012[9]

Hiến pháp Nhật Bản đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân và không có tôn giáo nhà nước. Do đó, tôn giáo Nhật Bản rất đa dạng. Tuy nhiên, dựa trên các yếu tố lịch sử, Thần đạo và Phật giáo Nhật Bản là tôn giáo chính của Nhật Bản. Trong văn hóa, hầu hết người dân Nhật Bản tin vào Thần đạo và Phật giáo cùng một lúc. Thần đạo Nhật Bản dạy khoảng 99% dân số, và Phật tử chiếm khoảng 80% dân số. Nhưng cũng có nhiều thanh niên Nhật Bản vẫn tham gia vào các nghi lễ tôn giáo, nhưng họ nghĩ rằng họ là người theo thuyết bất khả tri hoặc vô thần.

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Địa lý Nhật Bản

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Statistics Bureau Home Page/Population Estimates Monthly Report". Statistics Bureau of Japan. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2025.
  2. ^ "Japan - population density 2022". Statista (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2025.
  3. ^ Clyde Haberman (ngày 15 tháng 1 năm 1987). "Japan's Zodiac: '66 was a very odd year". The New York Times. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
  4. ^ "Japan - Urbanization 2023 | Statista". Statista (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2025.
  5. ^ "最新結果一覧 政府統計の総合窓口 GL08020101". www.e-stat.go.jp.
  6. ^ 最新結果一覧 政府統計の総合窓口 GL08020101. Statistics Bureau of Japan. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  7. ^ "Japan's population declines in 2015 for first time since 1920". Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ United Nations Department of Economics and Social Affairs, Population Division (2015). World Population Prospects: The 2015 Revision, Key Findings and Advance Tables (PDF) (Báo cáo). tr. 23. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
  9. ^ CIA World Factbook "Japan" Lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2020 tại Wayback Machine 2015 Xem ngày 30 tháng 11 năm 2008. Nhiều định dạng phản hồi

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện về Nhân khẩu Nhật Bản.
  • Japan Population Census 2010
  • Expatriates in Japan Lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2017 tại Wayback Machine
  • The Dilemma Posed by Japan's Population Decline, discussion paper by Julian Chapple in the electronic journal of contemporary japanese studies, ngày 18 tháng 10 năm 2004.
  • The Exodus to North Korea Museum (commemorates the story of the 93,340 people who migrated from Japan to North Korea in the period 1959-1984)
  • Another Tsunami Warning: Caring for Japan’s Elderly, Brief on what the future of Japan looks like for an increasingly aging population, and if this demographic transition is limited to Japan alone.
  • Morita, Kiriro and Saskia Sassen. "The New Illegal Immigration in Japan, 1980-1992." International Migration Review, Vol. 28, No. 1 (Spring, 1994), pp. 153–163
  • x
  • t
  • s
Nhật Bản Nhóm sắc tộc ở Nhật Bản
Tiền sử
  • Jōmon
  • Yayoi
Cổ đại
  • Wajin
  • Hayato
  • Azumi
  • Emishi
  • Kumaso
  • Kuzu
  • Tsuchigumo
  • Mishihase
  • Satsumon
  • Okhotsk
Hậu cổ đại – Hiện đại
  • Hoa
    • Mân
  • Yamato
  • Ryukyuan
  • Ainu
  • Nivkh
  • Hàn
  • Orok
  • Nga
  • Tatars
  • Matagi
  • Burakumin
  • Hāfu
  • Ogasawara

Từ khóa » Dân Số Già Tiếng Nhật