Nhận Thức Và ứng Xử đúng Quy Luật Với Vấn đề Bóc Lột Trong Quá ...

Tiền công và lợi nhuận vận động ngược chiều nhau nên giữa tư bản và lao động có mâu thuẫn, dù có cải thiện đời sống vật chất của người công nhân như thế nào đi nữa cũng không xóa bỏ được sự đối lập lợi ích của công nhân và lợi ích của nhà tư bản trong việc phân phối giá trị mới_Ảnh: Tư liệu

Để làm sáng tỏ vấn đề nêu trên, cần điểm lại lịch sử ra đời, biến đổi của quan hệ bóc lột và xác định quan điểm lịch sử cụ thể trong cách ứng xử với vấn đề bóc lột.

Quá trình ra đời, biến đổi và tiêu vong của quan hệ bóc lột

Sự ra đời và biến đổi của quan hệ bóc lột

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, trên cơ sở sở hữu công cộng và lao động tập thể và trong điều kiện năng suất lao động (NSLĐ) hết sức thấp, chưa có sản phẩm thặng dư, người ta buộc phải thực hiện sự phân phối sản phẩm lao động một cách bình quân, vì nếu phân phối kẻ nhiều, người ít thì người nhận phần ít không thể sống được, sẽ dẫn đến hậu quả là hủy diệt bản thân công xã. Chính vì vậy, trong công xã nguyên thủy, chưa xuất hiện quan hệ bóc lột.

Cuối chế độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất (LLSX) phát triển, biểu hiện ở sự phát triển phân công xã hội thay thế phân công tự nhiên và công cụ lao động bằng kim loại (đồng, sắt) thay thế công cụ thô sơ. NSLĐ tăng cao hơn trước và sức lao động có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu sinh hoạt hơn số tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động, nghĩa là xuất hiện sản phẩm thặng dư.

Sự phân công lao động tự phát ở trong gia đình làm nghề nông cho phép nó sử dụng thêm một hay nhiều sức lao động của người ngoài, song bản thân công xã lại không có sẵn sức lao động thừa, tự do. Thế nhưng, chiến tranh đã cung cấp sức lao động đó. Trước đây, người ta không biết dùng tù binh để làm gì và lấy gì để nuôi sống tù binh, vì vậy, chỉ giản đơn đem giết đi. Bây giờ người ta để cho họ sống và sử dụng sức lao động của họ, biến họ thành nô lệ và chế độ nô lệ xuất hiện.

Ph. Ăng-ghen đã nhận xét: “Từ sự phân công xã hội lớn lần đầu tiên, đã nảy sinh ra sự phân chia xã hội lớn đầu tiên trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột”(1).

Chủ nô nắm quyền sở hữu cả tư liệu sản xuất (TLSX) và nô lệ, người nô lệ trở thành một “công cụ biết nói”. Nô lệ chịu sự chi phối hoàn toàn của chủ nô. Chủ nô cưỡng bức nô lệ phải lao động cật lực, chỉ cấp cho nô lệ một ít tư liệu sinh hoạt đủ sống và chiếm đoạt bộ phận sản phẩm còn lại, gồm không chỉ sản phẩm thặng dư mà cả một phần sản phẩm tất yếu của nô lệ. Lao động nô lệ hoàn toàn do bị cưỡng bức, nên người nô lệ không những không hứng thú lao động mà còn tìm cách phá hoại sản xuất. Những cuộc khởi nghĩa của nô lệ nổ ra ở khắp nơi, tuy bị thất bại, nhưng đã làm lung lay tận gốc chế độ chiếm hữu nô lệ. Tình hình trên đã làm cho những chủ nô thức thời nhận ra rằng nếu giải phóng cho nô lệ, rồi đem ruộng đất của mình chia thành những mảnh nhỏ giao cho nô lệ được tự do canh tác và chịu một số nghĩa vụ nhất định đối với chủ đất, thì họ sẽ quan tâm đến sản xuất và có lợi cho chủ đất hơn. Đó là nguyên nhân ra đời lệ nông - tiền thân của nông nô thời trung cổ, bước chuyển sang chế độ phong kiến.

Trong chế độ phong kiến, thuở ban đầu hình thức bóc lột điển hình là địa tô lao dịch, trong đó một phần của tuần lễ người sản xuất trực tiếp canh tác mảnh đất được địa chủ giao với những công cụ lao động (cày, súc vật,...) trên thực tế hoặc trên pháp lý thuộc quyền sở hữu của anh ta, còn những ngày khác trong tuần anh ta lao động không công trên lãnh địa của địa chủ. Như vậy, lao động cần thiết để nuôi sống bản thân người nông nô và gia đình họ tách rời lao động thặng dư làm cho địa chủ, cả về không gian và thời gian.

Sản xuất phát triển lên trình độ cao hơn, địa tô lao dịch chuyển thành địa tô hiện vật. Bây giờ địa chủ không nhận cái phần lao động thặng dư dưới hình thái tự nhiên của nó nữa, mà dưới hình thái tự nhiên của cải sản phẩm, trong đó lao động thặng dư được thực hiện.

Khi sản xuất hàng hóa phát triển, địa tô hiện vật lại chuyển thành hình thái địa tô bằng tiền. Người sản xuất trực tiếp trả giá cả sản phẩm cho kẻ sở hữu ruộng đất (dù đó là nhà nước hay tư nhân), chứ không nộp chính ngay sản phẩm.

Cùng với sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa trong xã hội phong kiến, cũng xuất hiện những tá điền tư bản chủ nghĩa (TBCN) và nhiều nông nô trước kia cũng chuộc lại nghĩa vụ trả tô của mình và trở thành nông dân độc lập có quyền sở hữu đầy đủ về ruộng đất mà anh ta canh tác, đồng thời xuất hiện một lớp người không có của, làm thuê để lấy tiền và tiểu thủ công cũng phát triển.

Những ưu điểm của sản xuất hàng hóa nhỏ là những người trực tiếp sản xuất có thể chủ động kết hợp sức lao động của mình với TLSX thuộc quyền sở hữu của mình để chuyên môn hóa sản xuất một hay một vài sản phẩm có điều kiện thuận lợi, có thể cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất, thúc đẩy phân công lao động xã hội và xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới riêng biệt, độc lập. Tuy sản xuất hàng hóa nhỏ, vận động theo công thức H-T-H, chủ yếu vẫn hướng vào giá trị sử dụng, nhưng trong những hoàn cảnh thuận lợi, những người lao động trực tiếp vẫn có thể tạo ra giá trị thặng dư (GTTD), thậm chí GTTD siêu ngạch và họ chiếm đoạt toàn bộ GTTD đó, không bị ai bóc lột.

Nhưng đến một trình độ nhất định, sản xuất hàng hóa nhỏ bộc lộ những nhược điểm và kìm hãm LLSX, như quy mô sở hữu nhỏ về TLSX đã loại trừ mọi việc ứng dụng những phương pháp cải tiến hiện đại, loại bỏ sự tích tụ TLSX, do đó cũng loại bỏ sự hợp tác lao động. Sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa nhỏ dẫn đến phân hóa hai cực: một mặt, những người gặp thuận lợi sẽ ngày càng mạnh lên, những người gặp khó khăn sẽ ngày càng suy yếu, dẫn đến kết quả là một số ít người giàu lên thành những nhà tư bản, đa số người bị phá sản, chỉ còn làm chủ sở hữu sức lao động, buộc phải bán sức lao động để kiếm sống, trở thành công nhân làm thuê; mặt khác, do lao động cá thể, phân tán, kỹ thuật lạc hậu, vốn hạn hẹp, phải vay nặng lãi, nên sức cạnh tranh yếu, những doanh nghiệp nhỏ đã bị đại công nghiệp và đại nông nghiệp đè bẹp. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chỉ rõ: Sự phát triển của công nghiệp đã xóa bỏ và hằng ngày vẫn tiếp tục xóa bỏ sở hữu của người tiểu tư sản và của tiểu nông. Trong xã hội TBCN, chế độ tư hữu đã bị xóa bỏ đối với 9/10 số thành viên xã hội.

Thêm vào đó, các biện pháp bạo lực của cái gọi là tích lũy nguyên thủy đã, một mặt, tách rời người lao động khỏi quyền sở hữu những điều kiện lao động của họ, biến họ thành công nhân làm thuê; mặt khác, biến TLSX và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản, thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản.

Khi phân tích xu hướng lịch sử của tích lũy tư bản, C. Mác đã rút ra kết luận về số phận của phương thức sản xuất (PTSX) dựa trên chế độ sở hữu tư nhân nhỏ: “Đến một trình độ nhất định thì phương thức sản xuất đó lại đẻ ra những phương tiện vật chất để thủ tiêu bản thân nó... Phương thức sản xuất đó phải bị xóa bỏ, và nó đã bị xóa bỏ. Sự xóa bỏ phương thức sản xuất đó, việc biến những tư liệu sản xuất cá nhân và phân tán thành những tư liệu sản xuất tích tụ có tính chất xã hội, do đó biến sở hữu nhỏ bé của số đông thành sở hữu to lớn của một số ít người... đó chính là tiền sử của tư bản”(2).

Chế độ tài sản tư hữu có được nhờ lao động của bản thân người lao động đã bị thay thế bằng chế độ tư hữu TBCN dựa trên sự chiếm đoạt lao động thặng dư của người công nhân làm thuê mà không trả vật ngang giá, nghĩa là bóc lột GTTD.

Khi nói về lòng thèm khát vô hạn của chủ xưởng và lãnh chúa đối với lao động thặng dư, C. Mác đã viết: Tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư. Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất, dù kẻ chiếm hữu đó là nhà quý tộc, chủ nô lệ, lãnh chúa, nhà điền chủ hiện đại hay nhà tư bản thì cũng vậy(3).

Từ những điều trình bày ở trên, có thể hiểu bóc lột là hành vi của người sở hữu TLSX chiếm đoạt lao động thặng dư (và có khi cả một bộ phận lao động cần thiết) của người sản xuất trực tiếp. Phương pháp bóc lột có tính đặc thù tùy theo từng hình thái kinh tế - xã hội và chủ yếu do cách kết hợp sức lao động với TLSX quyết định. Chính các hình thức trong đó người ta bóp nặn lao động thặng dư trở thành tiêu chí để phân biệt những hình thái kinh tế - xã hội.

Lịch sử quá trình ra đời và biến đổi của các hình thức bóc lột trên đây là theo sự phát triển tuần tự của xã hội loài người nói chung, còn ở từng nước có thể do những điều kiện riêng mà có những sự phát triển đặc thù. Thí dụ: theo tư liệu lịch sử, Việt Nam không trải qua phương thức chiếm hữu nô lệ mà từ chế độ công xã nguyên thủy tiến thẳng lên chế độ phong kiến.

Dự báo về sự tiêu vong của quan hệ bóc lột

C. Mác đã dự báo: Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí mà phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy trong sản xuất. Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu là một loại lao động, trong đó con người là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao động trực tiếp. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy. Khi ấy, tri thức trở thành LLSX trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề này thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn thành một quá trình khoa học. Lao động trực tiếp về lượng sẽ quy vào một phần nhỏ hơn, còn về chất sẽ được chuyển hóa thành một yếu tố cần thiết, nhưng là thứ yếu so với lao động khoa học phổ biến và đối với sự áp dụng khoa học tự nhiên vào công nghệ.

Một khi lao động dưới hình thái trực tiếp không còn là nguồn gốc của của cải nữa thì nền sản xuất dựa trên giá trị trao đổi sẽ bị sụp đổ và sự rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhằm tăng thời gian lao động thặng dư sẽ thay bằng tăng thời gian nhàn rỗi cho xã hội nói chung và cho từng thành viên của xã hội, nghĩa là tạo ra khả năng rộng rãi để phát triển một cách hoàn toàn đầy đủ LLSX của từng người, do đó, cũng là của cả xã hội.

Trong điều kiện nói trên, quần chúng công nhân phải tự mình chiếm hữu lấy lao động thặng dư của mình. Khi nào công nhân bắt đầu thực hiện việc đó, thì khi ấy, một mặt, thước đo thời gian lao động cần thiết sẽ là những nhu cầu cá nhân xã hội; mặt khác, sự phát triển của sức sản xuất xã hội sẽ diễn ra nhanh chóng đến mức mặc dù sản xuất sẽ nhằm vào sự giàu có của tất cả mọi người, nhưng thời gian nhàn rỗi của mỗi người sẽ tăng lên. Bởi vậy, sự giàu có thật sự là sức sản xuất phát triển của tất cả các cá nhân. Khi ấy, thước đo sự giàu có tuyệt nhiên sẽ không còn là thời gian lao động nữa, mà là thời gian nhàn rỗi(4).

Dự báo khoa học nói trên có nhiều điểm rất phù hợp với sự phát triển kinh tế tri thức hiện nay và đã chỉ ra điều kiện để quan hệ bóc lột bị tiêu vong, đó là sự phát triển rất cao của LLSX, khi mà kinh tế tri thức đã đạt đỉnh cao. Bởi vậy, phải nắm vững nguyên lý: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành”(5).

Như vậy, không thể nóng vội xóa bỏ bóc lột khi LLSX chưa đòi hỏi, khi quan hệ bóc lột chưa trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển LLSX, khi những điều kiện cho sự tiêu vong của quan hệ bóc lột chưa xuất hiện.

Xác định quan điểm lịch sử cụ thể khi xử lý quan hệ bóc lột

Những điều trình bày ở trên cho thấy, sự biến đổi các hình thức bóc lột gắn liền với sự phát triển LLSX. Bởi vậy, khi ứng xử với quan hệ bóc lột không nên dựa vào tình cảm để xác định nó là tốt hay xấu, mà phải xét vai trò lịch sử của nó đối với sự phát triển LLSX trong từng hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, chế độ chiếm hữu nô lệ rất tàn bạo và đã từng bị lên án, nhưng so với chế độ công xã nguyên thủy nó lại là một bước tiến của lịch sử xã hội loài người, mặc dù trong công xã nguyên thủy không có quan hệ bóc lột. Chính vì vậy, Ph.  Ăng-ghen đã nhận định: “Muốn dùng được một người nô lệ, người ta phải có hai thứ: một là, có những công cụ và đối tượng lao động cho người nô lệ và hai là, có những tư liệu để nuôi sống người nô lệ đó một cách nghèo nàn. Bởi vậy, trước khi chế độ nô lệ có thể xuất hiện được, người ta đã phải đạt tới một trình độ sản xuất nào đó...”. “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có Đế chế La Mã. Mà không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và Đế chế La Mã thì không có châu Âu hiện đại. Chúng ta không bao giờ được quên rằng tiền đề của toàn bộ sự phát triển kinh tế, chính trị và trí tuệ của chúng ta là một trạng thái trong đó chế độ nô lệ cũng hoàn toàn cần thiết giống như nó được tất cả mọi người thừa nhận. Theo ý nghĩa đó, chúng ta có quyền nói rằng: không có chế độ nô lệ cổ đại, thì không có chủ nghĩa xã hội hiện đại”(6).

Hay là, sản xuất GTTD là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tư bản ra đời “thấm đầy máu và bùn nhơ trong mỗi lỗ chân lông của nó”, nhưng nó lại tiến bộ hơn sản xuất nhỏ, phân tán của nông dân và thợ thủ công độc lập, cá thể, mặc dù sản xuất hàng hóa nhỏ không có quan hệ bóc lột. Vì lẽ đó, C.  Mác đã nhấn mạnh: “Chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những tai họa của thời đại hiện nay ra, chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do chỗ các phương thức sản xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra”(7).

Ph. Ăng-ghen cũng nhận xét: “Mác nhấn mạnh những mặt xấu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách gay gắt như thế nào thì ông cũng chứng minh một cách rõ ràng như thế rằng hình thái xã hội đó là cần thiết để phát triển lực lượng sản xuất của xã hội tới một trình độ cao đến mức làm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có thể phát triển như nhau một cách xứng đáng với con người. Tất cả các hình thái xã hội trước đây đều quá nghèo nàn để có thể làm được điều đó. Chỉ có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra được những của cải và những lực lượng sản xuất cần thiết để làm việc đó; nhưng đồng thời với số công nhân bị áp bức đông đảo nó cũng tạo ra cái giai cấp xã hội ngày càng đứng trước sự cần thiết phải nắm lấy những của cải và những lực lượng sản xuất ấy vào tay mình để sử dụng chúng cho toàn thể xã hội, chứ không phải cho riêng một giai cấp độc quyền như hiện nay”(8).

Đứng về phía những người bị bóc lột mà xét, sẽ thấy các hình thức bóc lột sau bớt hà khắc hơn các hình thức bóc lột trước đó. Người nô lệ bị bán đứt cho chủ nô và chỉ nhận được một lượng tư liệu sinh hoạt thường xuyên và cố định, còn toàn bộ sản phẩm thặng dư và một phần sản phẩm tất yếu đều bị chủ nô chiếm đoạt.

Người nông nô chỉ phải nộp cống vật cho địa chủ dưới hình thái địa tô lao dịch, địa tô hiện vật và cuối cùng là địa tô tiền. Trong địa tô lao dịch, lao động mà người sản xuất trực tiếp làm cho bản thân mình (lao động cần thiết) tách rời về không gian và thời gian với lao động thặng dư mà họ làm cho địa chủ. Tuy vẫn là quan hệ bóc lột, nô dịch và thống trị, nhưng so với những người nô lệ thì sự lệ thuộc đã giảm nhẹ dần cho đến khi chỉ còn là một nghĩa vụ cống nạp. Trong địa tô lao dịch, người sản xuất trực tiếp được lao động tự do trên mảnh đất mà họ chiếm hữu nên họ tích cực lao động và họ có thể cải thiện hoàn cảnh của mình, có thể trở nên khá giả và sản xuất được một số dôi ra ngoài các tư liệu sinh hoạt cần thiết của họ, nghĩa là họ có thể làm tăng tài sản của họ một cách độc lập, hay là làm tăng sự giàu có của họ.

Khi địa tô lao dịch chuyển thành địa tô sản phẩm, thì người sản xuất trực tiếp, người chiếm hữu các điều kiện lao động cần thiết, phải cung cấp cho người sở hữu những điều kiện lao động ấy, tức là chủ ruộng, những sản phẩm thặng dư, chẳng kể địa chủ là tư nhân hay nhà nước. Địa tô sản phẩm khác với địa tô lao dịch là lao động thặng dư không bắt buộc phải thực hiện dưới hình thái tự nhiên của nó, vì vậy cũng không phải thực hiện dưới sự giám sát và sự cưỡng chế trực tiếp của địa chủ hay của người đại biểu cho địa chủ. Trái lại, người sản xuất trực tiếp thực hiện lao động thặng dư do những quy định của pháp luật, trên mảnh ruộng thực tế thuộc về anh ta, do anh ta canh tác chứ không phải trên mảnh đất của lãnh chúa như trước kia. Người sản xuất trực tiếp có thể ít hoặc nhiều sử dụng toàn bộ thời gian lao động của mình, mặc dù một phần thời gian đó vẫn phải lao động không công cho địa chủ, nhưng khác ở chỗ bây giờ địa chủ không nhận cái phần lao động thặng dư ấy dưới hình thái tự nhiên của nó nữa mà dưới hình thái sản phẩm, trong đó lao động thặng dư được thực hiện. Lao động mà người sản xuất trực tiếp làm cho bản thân và lao động mà anh ta cung cấp cho địa chủ không còn tách biệt nhau về không gian và thời gian nữa. Ngoài ra, người sản xuất trực tiếp còn có thể kết hợp công việc gia đình với nông nghiệp.

Địa tô sản phẩm có thể không rút hết lao động thặng dư, có thể dành cho người sản xuất trực tiếp một phạm vi hoạt động rộng rãi hơn, thậm chí có khả năng làm cho người sản xuất trực tiếp kiếm được những phương tiện để đến lượt anh ta lại trực tiếp bóc lột lao động của người khác. Nhưng địa tô sản phẩm cũng có thể khiến những người sản xuất trực tiếp rơi vào cảnh nợ nần, nhất là khi thiên tai, dịch hại dẫn đến mất mùa, đến mức không thể tái sản xuất, càng không thể mở rộng sản xuất và phải tự bằng lòng với một số tư liệu sinh hoạt tối thiểu để sống lay lắt qua ngày.

Sự phát triển thương nghiệp, công nghiệp, thành thị và sự phát triển sản xuất hàng hóa nói chung, khiến việc chuyển hóa địa tô sản phẩm thành địa tô tiền, lúc đầu diễn ra lẻ tẻ, rồi sau đó diễn ra trên quy mô cả nước. Bây giờ, người sản xuất trực tiếp trả giá cả sản phẩm cho kẻ sở hữu ruộng đất chứ không nộp chính ngay sản phẩm ấy. Như vậy, một bộ phận sản phẩm của người sản xuất trực tiếp buộc phải chuyển thành hàng hóa. Do đó, tính chất của toàn bộ PTSX ít nhiều đã biến đổi, nhưng người sản xuất trực tiếp vẫn như trước là người chiếm hữu ruộng đất, phải cung cấp cho địa chủ, với tư cách là kẻ sở hữu điều kiện sản xuất chủ yếu, một số lao động không công dưới hình thái một sản phẩm thặng dư đã chuyển hóa thành tiền. Tuy nhiên, quyền sở hữu những điều kiện lao động khác với ruộng đất (như nông cụ...) đã trở thành quyền sở hữu - lúc đầu trên thực tế, về sau trên pháp lý, của người sản xuất trực tiếp.

Với địa tô bằng tiền, mối quan hệ tập quán và truyền thống giữa người sở hữu ruộng đất và những người bị lệ thuộc chiếm hữu một phần ruộng đất và canh tác chỗ ruộng đất đó, nhất thiết biến thành mối quan hệ thuần túy, có tính chất hợp đồng và được quy định theo những quy tắc cứng rắn của luật pháp thành văn. Vì vậy, người chiếm hữu và canh tác chỗ ruộng đất đó dĩ nhiên sẽ biến thành một người thuê đất giản đơn. Và sự chuyển hóa địa tô sản phẩm thành địa tô tiền cũng tạo điều kiện cho một bộ phận những người chiếm hữu trước kia chuộc lại nghĩa vụ trả tô của mình và biến thành một nông dân độc lập, có quyền sở hữu đầy đủ về ruộng đất mà anh ta canh tác, tức là tiểu nông.

Còn người công nhân tự do trong xã hội TBCN thì bán sức lao động của mình như một hàng hóa. Anh ta không thuộc về một người chủ nhất định. Người công nhân có thể tự ý thôi làm việc cho nhà tư bản này khi chấm dứt hợp đồng lao động và chuyển sang làm việc cho một nhà tư bản khác; nhà tư bản cũng có thể sa thải anh ta khi cần, nhưng người công nhân lại không thể tự ý rời bỏ toàn bộ giai cấp người mua sức lao động là giai cấp tư sản, nếu anh ta không muốn bị chết đói. Anh ta không thuộc về nhà tư bản này hay nhà tư bản khác nhưng thuộc về toàn bộ giai cấp tư sản. Vì người công nhân làm chủ sở hữu sức lao động nên nhận được tiền công. Nhưng anh ta chỉ được nhà tư bản trả tiền công chừng nào anh ta còn tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của sức lao động (biểu hiện dưới hình thái tiền công), tức là tạo ra GTTD mà GTTD chỉ là lao động thặng dư đã vật hóa.

Khi phê phán luận điểm cho rằng lợi ích của tư bản và lợi ích của lao động chỉ là một, C. Mác đã phân tích: điều đó chỉ có nghĩa là tư bản và lao động làm thuê là hai mặt của cùng một quan hệ, nếu tư bản không thuê công nhân thì người công nhân sẽ chết đói, nếu tư bản không bóc lột lao động thì tư bản sẽ tiêu ma. Nhưng tiền công và lợi nhuận vận động ngược chiều nhau nên giữa tư bản và lao động có mâu thuẫn. Dù có cải thiện đời sống vật chất của người công nhân như thế nào đi nữa cũng không xóa bỏ được sự đối lập lợi ích của công nhân và lợi ích của nhà tư bản trong việc phân phối giá trị mới (gồm v+m), v tăng thì m giảm và ngược lại v giảm thì m tăng.

Lại có người lập luận rằng, ngày nay ở các nước TBCN phát triển mức sống của đa số công nhân đã được nâng cao hơn trước rất nhiều, không ít người lao động đã mua cổ phiếu, xuất hiện tầng lớp trung lưu đông đảo nên chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là xã hội dựa trên cơ sở bóc lột GTTD nữa. Sản xuất giá trị gia tăng tương đối đã chỉ rõ rằng, nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, sức sản xuất của lao động đã được nâng cao, trước hết trong những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt, với độ dài ngày lao động không đổi (thậm chí rút ngắn) thời gian lao động cần thiết rút ngắn lại, thời gian lao động thặng dư tăng lên, nhờ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị gia tăng nhiều hơn trước. Từ đó, đời sống của người lao động được cải thiện, nhưng mức độ bóc lột lao động không công lại tăng hơn trước. Còn về phía nhà tư bản vừa có thể sống xa hoa hơn trước, vừa có thể tích lũy nhiều hơn trước để tăng quy mô sản xuất. Mức độ bóc lột tăng lên còn biểu hiện ở tiền công so sánh hay tiền công tương đối. Thí dụ, do NSLĐ tăng, giá cả của tất thảy các hàng hóa tiêu dùng đều giảm xuống 2/3, còn tiền công nhật thì sụt xuống 1/3. Với tiền công này, người công nhân mua được số hàng hóa nhiều hơn trước, tức tiền công thực tế tăng lên, nhưng không cùng mức tăng lợi nhuận nên tiền công tương đối giảm xuống. Tiền công tương đối biểu hiện tương quan giữa tiền công và lợi nhuận. Giả sử trong những thời kỳ làm ăn thuận lợi, tiền công tăng lên 5%, còn lợi nhuận tăng lên 30% thì tiền công tương đối sụt xuống. Như vậy, tuy đời sống của công nhân được cải thiện, nhưng mức độ bóc lột lại tăng hơn trước, nên chênh lệch thu nhập giữa nhà tư bản và công nhân càng doãng rộng ra.

Bài học lịch sử từ thực tiễn ở nước Nga xô-viết sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 về chính sách đối với quan hệ bóc lột

Về lý luận, V.I. Lê-nin đã trình bày rất đầy đủ và sáng tỏ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa tư bản và về bóc lột GTTD. Thí dụ, một mặt, V.I. Lê-nin nhấn mạnh “chỉ có một cách chấm dứt cái nạn tư bản bóc lột lao động đó là: xóa bỏ chế độ tư hữu về công cụ lao động, trao trả tất cả các công xưởng, nhà máy và hầm mỏ, cùng tất cả những địa sản rộng lớn,... cho toàn thể xã hội và tiến hành một nền sản xuất tập thể xã hội chủ nghĩa do chính bản thân công nhân điều khiển”(9). Nhưng mặt khác, V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: Việc hoàn thành mục tiêu “hoàn toàn giải phóng tất cả những người lao động khỏi mọi cách áp bức và bóc lột” và “việc thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập xã hội xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi mức độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản và một trình độ tổ chức rất cao của giai cấp công nhân”(10). “Đấy là công việc rất lâu dài. Muốn hoàn thành công việc đó, phải thực hiện một bước tiến khổng lồ trong sự phát triển lực lượng sản xuất, phải chiến thắng sự phản kháng (thường là tiêu cực, đặc biệt dai dẳng và đặc biệt khó khắc phục) của nhiều tàn dư của sản xuất nhỏ, phải chiến thắng sức mạnh to lớn của tập quán và thói thủ cựu gắn liền với những tàn dư đó”(11).

V.I. Lê-nin nhắc lại kết luận của C. Mác rằng “do chính ngay những quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản mà chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định phải phát sinh”(12) và phê phán những người dân túy đều không thể hiểu nổi điều sau đây: làm thế nào mà người ta lại có thể đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, không phải bằng cách “làm chậm” sự phát triển của nó lại, mà là bằng cách đẩy nhanh sự phát triển của nó lên, không phải là từ phía sau mà là từ phía trước, không phải theo hướng phản động mà theo hướng tiến bộ”(13).

Thế nhưng, sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cho đến cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị mùa Xuân năm 1921, như nhận xét của V.I. Lê-nin, chính sách kinh tế của nước Nga xô-viết đã mắc nhiều sai lầm và chịu nhiều thất bại, buộc phải chuyển sang Chính sách kinh tế mới (NEP), trong đó có 2 sai lầm lớn nhất, một là, chưa tính toán đầy đủ mà đã tưởng là có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa, trong một nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm và đã giả định một cách vô bằng rằng: nền kinh tế Nga cũ sẽ trực tiếp chuyển sang nền sản xuất quốc doanh và sang việc phân phối theo những nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa; hai là, tuyệt nhiên không nêu ra vấn đề: nền kinh tế Nga sẽ có quan hệ như thế nào với thị trường, với mậu dịch.

Nhưng V.I. Lê-nin khẳng định: không nên sợ thừa nhận những thất bại của mình. Phải rút ra những bài học của mỗi cuộc thất bại. Những việc gì đã làm không tốt thì phải làm lại chu đáo hơn, thận trọng hơn và có hệ thống hơn. Nếu chúng ta cho rằng thừa nhận một thất bại cũng giống như bỏ một vị trí, sẽ gây ra tâm trạng chán nản và làm nhụt chí đấu tranh thì phải nói rằng những nhà cách mạng như thế không đáng giá một đồng xu... Hôm nay chúng ta sẽ không bao giờ học được cách giải quyết những nhiệm vụ của mình bằng những phương pháp mới, nếu như kinh nghiệm ngày hôm qua đã không mở mắt cho chúng ta thấy những sai lầm của những phương pháp cũ.

V.I. Lê-nin nhấn mạnh: bằng chính sách kinh tế mới của chúng ta, chúng ta đang sửa chữa cả một chuỗi những sai lầm, chúng ta đang học tập xem nên tiếp tục công cuộc xây dựng cái tòa nhà xã hội chủ nghĩa trong một nước tiểu nông như thế nào mà không phạm những sai lầm ấy nữa.

Vì trình độ văn hóa của chúng ta thấp kém, chúng ta không thể tiêu diệt chủ nghĩa tư bản bằng một cuộc tấn công chính diện được. Đến mùa Xuân năm 1921 chúng ta đã nhận thấy rõ là chưa nên xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế chúng ta phải lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước và bảo đảm sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản nhà nước sang chủ nghĩa xã hội trong một tương lai gần.

Một trong những điểm nổi bật trong chính sách kinh tế mới là thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chế độ thu thuế lương thực. Mà khi tuyên bố thay chế độ trưng thu bằng thuế lương thực và ra sắc lệnh tự do buôn bán các nông sản thừa của nông dân sau khi đã nộp thuế lương thực thì như vậy là chúng ra đã để cho chủ nghĩa tư bản tự do phát triển(14).

Trong một nước tiểu nông, hễ có trao đổi thì sự phát triển của một nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển TBCN, đó là một chân lý không thể chối cãi được, một chân lý sơ đẳng của kinh tế chính trị học, đã được kinh nghiệm hằng ngày và sự quan sát của ngay cả những người bình thường xác nhận.

Vậy trước hiện thực kinh tế ấy, có thể theo chính sách nào? Hoặc giả tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột vì, về phương diện kinh tế, chính sách ấy không thể nào thực hiện được, tự sát vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản.

Hoặc giả (chính sách cuối cùng có thể áp dụng được và duy nhất hợp lý) không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước.

Nhưng liệu có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp Nhà nước xô-viết với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? Tất nhiên là được.

Dưới sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân, có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân (chứ đừng nói gì chủ nghĩa tư bản nhà nước nữa) để xúc tiến chủ nghĩa xã hội. Điều đó hình như là ngược đời: chủ nghĩa tư bản tư nhân mà lại đóng vai trò trợ thủ cho chủ nghĩa xã hội à? Nhưng điều đó không có gì là ngược đời cả(15).

Nhờ chính sách đúng đắn nói trên, nước Nga xô-viết đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị mùa Xuân 1921 và phát triển nhanh kinh tế - xã hội.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận về quan hệ bóc lột đối với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và cũng là ước mơ của loài người là xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Nhưng không thể thực hiện mục tiêu đó một cách chủ quan duy ý chí mà phải tùy theo trình độ phát triển của LLSX. Theo quy luật phủ định của phủ định, PTSX chiếm hữu nô lệ bị thay thế bởi PTSX phong kiến và đến lượt nó PTSX phong kiến lại được thay thế bởi PTSX TBCN. Tương ứng với sự phát triển đó, hình thức bóc lột nô lệ được thay bằng hình thức bóc lột địa tô phong kiến (gồm địa tô lao dịch, địa tô sản phẩm và địa tô tiền) rồi đến lượt hình thức địa tô phong kiến lại bị hình thức bóc lột GTTD phủ định. Chỉ đến khi trình độ phát triển LLSX và trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển rất cao, do chính chủ nghĩa tư bản tạo ra, mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân TBCN, khiến cho quan hệ sở hữu đó trở thành xiềng xích kìm hãm LLSX phát triển thì khi ấy mới có điều kiện để tiến lên một xã hội không còn bóc lột. Vì chính sự phát triển LLSX và xã hội hóa sản xuất rất cao là tiền đề để xây dựng một xã hội không còn quan hệ bóc lột, nên đẩy mạnh sự phát triển kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta là phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Như nhận xét của Ph. Ăng-ghen đã trích dẫn ở phần trên: chỉ có nền sản xuất TBCN mới tạo ra được những tiền đề trên. Hay như dự báo của C. Mác: “Phương thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra, và do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định”(16).

Hiện nay ở nước ta, trình độ phát triển của LLSX còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, giữa các vùng và ngay cả giữa các đơn vị kinh tế trong cùng một ngành và trong cùng một vùng.

Sự phát triển lực lượng sản xuất và xã hội hóa sản xuất rất cao là tiền đề để xây dựng một xã hội không còn quan hệ bóc lột, nên đẩy mạnh sự phát triển kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta là phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa_Ảnh: Tư liệu

Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xóa bỏ mọi hình thức bóc lột. Phải lấy tiêu thức thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tăng NSLĐ làm cơ sở để xử lý vấn đề bóc lột. Hình thức bóc lột nào cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất (như cho vay nặng lãi) thì phải có chính sách để xóa bỏ. Hình thức nào còn thúc đẩy lực lượng sản xuất (như kinh tế tư bản tư nhân) thì được coi là tiến bộ, Nhà nước phải bảo đảm quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của các nhà tư bản, khuyến khích họ đẩy mạnh kinh doanh theo pháp luật vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Việc xóa bỏ những hình thức bóc lột lỗi thời cũng không thể chỉ dựa vào việc cấm đoán hay dùng bạo lực mà phải thay thế bằng những biện pháp kinh tế phù hợp. Thí dụ, để xóa bỏ tệ cho vay nặng lãi (tín dụng đen) đòi hỏi, một mặt, phải hoàn thiện hệ thống tín dụng cho người nghèo, tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đáp ứng nhu cầu của họ về vốn để phát triển kinh doanh; mặt khác, trong khi thừa nhận sự tiến bộ và hợp pháp của kinh tế tư bản tư nhân, khuyến khích nó phát triển, không thể phủ nhận tính chất cơ bản của nó là bóc lột GTTD và có mâu thuẫn về lợi ích giữa nhà tư bản với công nhân. Nhận thức đúng như vậy không phải là để kỳ thị, phân biệt đối xử với các doanh nghiệp tư bản tư nhân mà là để có chính sách phù hợp trên hai mặt: Một mặt, phải bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi sao cho nhà tư bản có thể thu được lợi nhuận thích đáng để họ hăng hái đầu tư. Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế, sự cạnh tranh để thu hút đầu tư ngày càng gay gắt, thì chính sách ưu đãi cũng có vai trò quan trọng. Đó là lý do Nhà nước ta và nhiều nước khác không ngừng hoàn thiện Luật Đầu tư theo hướng ngày càng hấp dẫn hơn. Mặt khác, Nhà nước cần điều hòa lợi ích của chủ sở hữu tư bản và chủ sở hữu sức lao động sao cho “chủ và thợ cùng có lợi”, “công và tư lưỡng lợi” để tránh xảy ra mâu thuẫn đối kháng gay gắt, cản trở sự phát triển sản xuất, đồng thời ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, như trốn thuế, chuyển giá, trốn đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân...

Khi còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, tất yếu phải thừa nhận phân phối theo quyền sở hữu, nói cách khác là quyền sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế. Nhưng cần tránh cả hai thái cực: một là, quá nhấn mạnh sở hữu là mục tiêu đi tới, nóng vội xóa bỏ sở hữu tư nhân, xác lập sở hữu công cộng một cách hình thức, tưởng làm như thế là xóa xong quan hệ bóc lột, làm xuất hiện tình trạng vô chủ; hai là, chỉ coi sở hữu là phương tiện, nên bất cứ hình thức sở hữu nào cũng được miễn là phát triển sản xuất mà quên rằng sự bất bình đẳng về sở hữu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bất bình đẳng xã hội.

Từ đó, để từng bước thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, Nhà nước vừa tôn trọng quy luật kinh tế trong việc phân phối (lần đầu), vừa phải điều tiết phân phối lại, tức là điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư. Sự điều tiết này không chỉ hướng vào việc phân phối kết quả sản xuất mà còn hướng vào sự thay đổi dần dần mô hình tập trung các nguồn lực có lợi cho nhóm người có thu nhập thấp. Nhà nước tạo cơ hội thuận lợi cho người nghèo được quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu và sử dụng những yếu tố sản xuất, như ruộng đất, tín dụng, khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư, đào tạo nghề...

Nhà nước tạo cơ hội thuận lợi cho người nghèo được quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu và sử dụng những yếu tố sản xuất, như ruộng đất, tín dụng, khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư, đào tạo nghề..._Ảnh: Tư liệu

Ngoài ra, Nhà nước còn phải quan tâm điều tiết quan hệ cung cầu và giá cả thị trường để bảo đảm tiền công thực tế của công nhân, điều tiết giảm thu nhập của tầng lớp dân cư giàu có (như đánh thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân theo lũy tiến, thuế tài sản, thuế thừa kế) điều tiết tăng thu nhập cho tầng lớp dân cư yếu thế (thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, các dịch vụ công ích, các hình thức bảo hiểm...). Điều đó sẽ làm thay đổi quan hệ bóc lột trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi áp dụng cơ chế thị trường./.

----------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 21, tr. 240

(2), (3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t. 23, tr. 1057 - 1058, 347 - 348

(4) Xem: C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 2000, t. 46, phần II, tr. 358 - 360, 367, 368 - 372, 375  - 376

(5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t. 13, tr. 15 – 16

(6) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 1994, t. 20, tr. 227, 254

(7) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t. 23, tr. 19

(8) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 1994, t. 16, tr. 325 – 326

(9) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1974, t. 2, tr. 113

(10) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, 1979, t. 10, tr.  302

(11) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, 1977, t. 39, tr.  18

(12), (13) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, 1974, t. 1, tr.  215, 456

(14) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, 1978, t. 44, tr.  188 - 189,195, 200, 248, 254 - 255, 262

(15) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, 1978, t. 43, tr.  266 - 268, 281

(16) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t. 23, tr. 1059

Từ khóa » Trong Chế độ Phong Kiến Trung Có Nghĩa Là Gì