Nội Dung Và Nghệ Thuật Thanh Hiên Thi Tập Của Nguyễn Du - 123doc

Mặc dù vậy, mỗi công trìnhnghiên cứu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du đều đã đưa ra những vấn đề lớn mang tầmkhái quát, các công trình nghiên cứu có liên quan đến tập Thanh Hiên vẫn ít ỏi có

Trang 1

TR TRƯỜ ƯỜ ƯỜNG NG NG ĐẠ ĐẠ ĐẠIIII H H HỌ Ọ ỌC C C C C CẦ Ầ ẦN N N TH TH THƠ Ơ KHOA KHOA KHOA KHOA KHOA H H HỌ Ọ ỌC C C X X XÃ Ã Ã H H HỘ Ộ ỘIIII V V VÀ À À NH NH NHÂ Â ÂN N N V V VĂ Ă ĂN N

B BỘ Ộ Ộ M M MÔ Ô ÔN N N NG NG NGỮ Ữ Ữ V V VĂ Ă ĂN N

MAI MAI TH TH THỊỊỊỊ TH TH THÙ Ù ÙY Y Y LAM LAM MSSV: MSSV: 6106400 6106400

N NỘ Ộ ỘIIII DUNG DUNG DUNG V V VÀ À À NGH NGH NGHỆ Ệ Ệ THU THU THUẬ Ậ ẬT T

THANH THANH HI HI HIÊ Ê ÊN N N THI THI THI T T TẬ Ậ ẬP P P C C CỦ Ủ ỦA A A NGUY NGUY NGUYỄ Ễ ỄN N N DU DU

Lu Luậ ậ ận n n vvvvă ă ăn n n ttttố ố ốtttt nghi nghi nghiệệệệp p p đạ đạ đạiiii h h họ ọ ọcccc Ng

Ngà à ành nh nh Ng Ng Ngữ ữ ữ V V Vă ă ăn n

C Cá á án n n b b bộ ộ ộ h h hướ ướ ướng ng ng d d dẫ ẫ ẫn: n: n: ThS ThS ThS T T TẠ Ạ Ạ ĐỨ ĐỨ ĐỨC C C T T TÚ Ú

C Cầ ầ ần n n Th Th Thơ ơ ơ,,,, n n nă ă ăm m m 2013 2013

Trang 2

ĐỀ ĐỀ C C CƯƠ ƯƠ ƯƠNG NG NG T T TỔ Ổ ỔNG NG NG QU QU QUÁ Á ÁT T PH

CHƯƠ ƯƠ ƯƠNG NG NG 1 1 1 NH NH NHỮ Ữ ỮNG NG NG V V VẤ Ấ ẤN N N ĐỀ ĐỀ ĐỀ CHUNG CHUNG

1.1 Sơ lược văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX

1.1.1 Tình hình văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX

1.1.2 Vị trí của chữ Hán trong sáng tác văn chương giai đoạn nửa cuối thế

kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX

CHƯƠ ƯƠ ƯƠNG NG NG 2 2 2 N N NỘ Ộ ỘIIII DUNG DUNG THANH THANH HI HI HIÊ Ê ÊN N N THI THI THI T T TẬ Ậ ẬP P

2.1 Cuộc sống xa quê hương, vất vả, bệnh tật và những triết lí về sự sống, mong muốn hành lạc, thoát tục

2.1.1 Cuộc sống xa quê hương, vất vả, bệnh tật với cái nghèo đeo đẳng 2.1.2 Triết lí sự sống đời người và mong muốn hành lạc, thoát tục

2.2 Tâm sự của Nguyễn Du qua tập thơ

Trang 3

2.2.1 Tâm sự của người lo âu, đau buồn khi công nghiệp chưa thành mà đầu đã bạc

2.2.2 Nỗi nhớ quê hương da diết

2.2.3 Sự thông cảm, thấu hiểu số phận con người tài hoa

2.3 Hình ảnh thiên nhiên mang tâm trạng con người

CH

CHƯƠ ƯƠ ƯƠNG NG NG 3 3 3 NGH NGH NGHỆ Ệ Ệ THU THU THUẬ Ậ ẬT T THANH THANH HI HI HIÊ Ê ÊN N N THI THI THI T T TẬ Ậ ẬP P

3.1 Hình tượng nghệ thuật trong thơ

3.2 Thời gian nghệ thuật

3.3 Không gian nghệ thuật

3.3.1 Không gian sinh hoạt, hoạt động

3.3.2 Không gian lữ thứ, lưu lạc

3.4 Ngôn ngữ

3.4.1 Ngôn ngữ trong câu

3.4.2 Cách sử dụng hư từ và từ xưng hô độc đáo

Trang 4

PH PHẦ Ầ ẦN N N M M MỞ Ở Ở ĐẦ ĐẦ ĐẦU U 1.

Nếu Truyện Kiều là kiệt tác văn chương kết tinh từ những tinh hoa văn hóa và

truyền thống dân tộc thì thơ chữ Hán lại là những vần thơ chân thành về cuộc đời củanhà thơ Vậy mà gần như người ta không nhớ đến nó, không nghĩ về nó, có thể gì chữHán không phải là chữ của người Việt và sự thật có rất ít người biết chữ Hán, ngoại trừcác sĩ tử, vua quan ngày trước

Thực tế, thơ chữ Hán Nguyễn Du thật đáng để ta quan tâm, với ba tập thơ chữHán ở đây xin nói về Thanh Hiên thi tập Thanh Hiên thi tập là một trong ba tập thơ

chữ Hán, chiếm 78 bài thơ trong 249 bài thơ chữ Hán (tính chung ba tập) Đúng vớitính chất ở ba tập giọng thơ chủ đạo là buồn nhưng cái buồn không gây nhàm chán chongười đọc và cái buồn ấy đáng để cho chúng ta xem xét tìm hiểu nhiều vấn đề.Thanh Hiên thi tập là cảm xúc tự thán của nhà thơ, những lời tâm tình làm xao động lòng

người, không phải và không cần biết nhiều về chữ Hán mà chúng ta vẫn có thể đọc nó

ở phần dịch thơ cũng có thể thấu hiểu nỗi đau thiên tài Hoàn cảnh thời đại chi phốicon người rất lớn Nguyễn Du cũng vậy, trongThanh Hiên thi tập chúng ta bắt gặp vô

số những lần ông buồn thương, tiếc nhớ, chán chường bằng cách riêng của mình ông

đã đưa nó vào thơ để những nỗi niềm hòa tan vào từng từ ngữ và dâng khắp tập thơ.Tuy vậy, ông vẫn giữ đúng những niêm luật, quy phạm trong thơ chữ Hán, nhà thơ ấykhông để lòng mình làm xáo trộn thơ văn mà lời tâm sự của ông vẫn đi vào thơ rất tựnhiên, nhẹ nhàng mà đầy tinh tế, không có sự gò ép, vi phạm nào Nguyễn Du từngthốt lên trong bài thơĐộc Tiểu Thanh kí:

Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như?

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Trang 5

Người đời ai khóc Tố Như chăng?)Không đợi đến ba trăm năm, hậu thế đã khóc vì Nguyễn Du, khóc rất nhiều, họkhóc vì nàng Kiều có cuộc đời đau khổ, khóc cho nàng Tiểu Thanh có số phận ngắnngủi, khóc cho thân phận nhân tài Không ít những công trình nghiên cứu, những conngười miệt mài tìm lại sáng tác của ông, tuy nhiên chủ yếu là những công trình về tácphẩmTruyện Kiều Bài nghiên cứu của chúng tôi chọn đề tài là Nội dung và nghệ thuật trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du với mong muốn nhắc cho hậu thế đừng mải

mê đi trau chuốt về mỗi Thúy Kiều mà quên đi Nguyễn Du còn cả thơ chữ Hán, đặcbiệt làThanh Hiên thi tập, tập thơ đáng được trân trọng, gìn giữ, thông qua đó nói lên

sự quan tâm của con người hiện tại cũng như tấm lòng của hậu thế đó với nhà thơ thiêntài này

2.

2 L L Lịịịịch ch ch ssssử ử ử v v vấ ấ ấn n n đề đề

Nguyễn Du một trong những trụ cột của thơ ca trung đại Việt Nam, người cócống hiến to lớn cho sự sáng tạo và phát triển ngôn ngữ dân tộc, người để lại đỉnh caovới kiệt tác Truyện Kiều và các sáng tác bằng chữ Hán đồ sộ Trong những năm qua,

những người nghiên cứu, khảo sát tìm hiểu các tác phẩm của Nguyễn Du không phải là

ít, nhưng việc tìm hiểu thơ chữ Hán thì còn chậm và rất ít Mặc dù vậy, mỗi công trìnhnghiên cứu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du đều đã đưa ra những vấn đề lớn mang tầmkhái quát, các công trình nghiên cứu có liên quan đến tập Thanh Hiên vẫn ít ỏi có thể

kể đến:

Cuốn Đế Đế Đến n n vvvvớ ớ ớiiii th th thơ ơ ơ ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du do Ngô Viết Dinh tuyển chọn và biên

tập với suy nghĩ “Nếu chúng ta không đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du và Văn Chiêu hồn thì ta tự làm nghèo hồn mình ở phía cánh bướm cụ Tiên Điền đã bỏ hoa vào nằm nghiêng trong sách đang lật mở nói cùng ta… như tri âm tri kỉ”[10; tr 6] Công trình

từ nhiều tác giả này là một trong những đóng góp quan trọng có liên quan đếnThanh Hiên thi tập, đặc biệt về mặt nội dung.

Cuốn Ba Ba Ba nh nh nhà à à th th thơ ơ ơ ccccổ ổ ổ đ đ điiiiểểểển n n Vi Vi Việệệệtttt Nam Nam Nam của Xuân Diệu, nhắc đến tác giả Nguyễn

Du với các tập thơ chữ Hán, công trình nêu rõ ý nghĩa của mảng thơ chữ Hán của nhàthơ và việc tìm hiểu nhà thơ Nguyễn Du qua các sáng tác bằng chữ Hán

Cuốn Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du ttttá á ácccc gi gi giả ả ả vvvvà à à ttttá á ácccc ph ph phẩ ẩ ẩm m m với một số bài viết có liên quan đến tập

Trang 6

Tâ â âm m m ttttìììình nh nh Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du qua qua qua m m mộ ộ ộtttt ssssố ố ố b b bà à àiiii th th thơ ơ ơ ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n của Hoài Thanh, người

nghiên cứu đã dẫn dắt chúng ta đi vào thơ chữ Hán Nguyễn Du qua những bài thơ tiêubiểu chủ yếu lấy từ tậpThanh Hiên, Hoài Thanh không có những nhận xét riêng về thơ

chữ Hán mà muốn“tìm Tố Như để thấy Nguyễn Du, để soi vào văn Kiều và Văn Chiêu Hồn; yêu thương quốc văn, yêu thương những tài tử lớn, họ vượt qua những hạn chế của thời đại cũ, đóng góp tiếng nói lớn cho dân tộc Việt Nam, cho nhân loại như Nguyễn Du.” [11; tr 61]

Công trình Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du vvvvà à à th th thếếếế gi gi giớ ớ ớiiii nh nh nhâ â ân n n vvvvậ ậ ậtttt ccccủ ủ ủa a a ô ô ông ng ng trong trong trong th th thơ ơ ơ ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n của

Nguyễn Huệ Chi người nghiên cứu đã đi vào từng nhân vật của Nguyễn Du, có ngườihát rong, có ca kĩ, những quan lại… và cả bản thân Nguyễn Du dựa trên những cơ sở

đó để khẳng định “Thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng Và giữa những âm thanh, màu sắc đường nét vô cùng phong phú đó, con người nhà thơ sẽ hiện ra: vừa dạt dào yêu thương vừa bừng bừng căm giận Đấy là chỗ đặc sắc và cũng

là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du, từ thơ chữ Hán đến Truyện Kiều,

nó tạo nên cái sức sống kì lạ của hầu hết tác phẩm của ông mà ngày nay chúng ta vẫn đọc mải mê không biết chán.” [1; tr 88]

Công trình Th Th Thơ ơ ơ ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du của Mai Quốc Liên là công trình tập thơ

nghiên cứu cả phần nội dung và nghệ thuật từ ba tập thơ chữ Hán Tác giả khẳng địnhgiá trị mà thơ chữ Hán mang lại: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa” [11; tr 130]

Công trình T T Tâ â âm m m ssssự ự ự ccccủ ủ ủa a a Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du qua qua qua th th thơ ơ ơ ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n của Trương Chính, công

trình tìm hiểu về Nguyễn Du không phải chỉ dựa vào gia phả mà còn dựa vào nhữngbài thơ chữ Hán của ông, khẳng định sự tinh tế trong sáng tác văn chương của tác giả,thái độ Nguyễn Du đối với các triều đại và những nỗi niềm không bày tỏ cùng ai

Nguy

Nguyễễễễn n n Du Du Du trong trong trong nh nh nhữ ữ ững ng ng b b bà à àiiii th th thơ ơ ơ ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n của Đào Xuân Qúy, người nghiên

cứu đã đưa ra những ý kiến của mình về phần thơ chữ Hán Nguyễn Du thông qua một

số bài thơ cụ thể để khẳng định:“Thơ Nguyễn Du không phải là một loại thơ thù tạc, tiêu khiển Thơ Nguyễn Du là tất cả tâm hồn và tư tưởng của người Vì vậy, người đọc

Trang 7

Nguyễn Du cũng không thể hời hợt, chỉ một lúc mà mong hiểu được chỗ sâu xa của tác giả, mà bắt buộc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm Và càng chiêm nghiệm, suy nghĩ bao nhiêu lại càng thấy hay, càng thấy thâm thúy bấy nhiêu Càng đọc Nguyễn Du chúng

ta lại càng sung sướng, tự hào mà nhận ra rằng: Có được Nguyễn Du, đó chính là một niềm vui lớn của dân tộc.” [11; tr 129]

Cuốn Đặ Đặ Đặcccc đ đ điiiiểểểểm m m ngh ngh nghệệệệ thu thu thuậ ậ ậtttt th th thơ ơ ơ ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du của Lê Thu Yến là công

trình góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du

“Thơ chữ Hán Nguyễn Du là một thành tựu rực rỡ song song với Truyện Kiều 250 bài thơ là kết qủa những suy tư, trăn trở, dặn vặt, bi thiết của cả một đời người 250 bài thơ còn là một thể nghiệm nghiên túc và độc đáo, những sáng tạo nghệ thuật cho thấy Nguyễn Du có những hướng đi riêng, khác với các nhà văn khác.” [20; tr 274]

Đây là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích nghệ thuật thơ chữ Hán của Nguyễn Duđứng ở góc độ thi pháp học Công trình mang đến những hiểu biết mới mẻ cho ngườiđọc về những đặc sắc nghệ thuật thi pháp thơ chữ Hán Nguyễn Du

Các công trình trên đây là những nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến Thanh Hiên thi tập riêng về việc nghiên cứu tập thơ này một cách độc lập thì chưa có nghiên

cứu nào

3.

3 M M Mụ ụ ụcccc đí đí đích, ch, ch, y y yêêêêu u u ccccầ ầ ầu u

Nghiên cứu đề tài Nội dung và nghệ thuật Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du

chúng tôi hướng tới những mục tiêu:

Từ trước đến nay, khi nhắc đến Nguyễn Du người ta thường chỉ nhớ đếnTruyện Kiều mà quên đi ông vẫn còn ba tập chữ Hán Thanh Hiên thi tập là tập thơ chữ Hán

đầu tay của Nguyễn Du viết trong những năm lưu lạc tha hương, nó là cuốn nhật kí củanhà thơ Đi vào tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của tập thơ để làm sáng tỏ những đặcsắc của tập thơ Tìm hiểu về cách sử dụng chữ Hán và việc sáng tạo ngôn từ củaNguyễn Du để góp phần vào việc nghiên cứu thơ chữ Hán nói riêng, nghiên cứu cáchdùng chữ Hán của người Việt xưa nói chung

Đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu tác phẩm của một danh nhân đấtViệt Đồng thời, phục vụ việc học tập và nghiên cứu cho những thế hệ sau, đó cũng làđịnh hướng cho việc nghiên cứu những đề tài về Nguyễn Du và thơ chữ Hán sau này

Trang 8

4 Ph Ph Phạ ạ ạm m m vi vi vi nghi nghi nghiêêêên n n ccccứ ứ ứu u

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi tìm đọc những tác phẩmtrong tập Thanh Hiên thi tập, có nhiều bản khác nhau, chúng tôi chọn bản Thơ chữ Hán Nguyễn Du (in lại theo bản 1969) do cụ Lê Thước và Trương Chính chủ biên.

Bên cạnh tìm đọc văn bản chính chúng tôi cũng tìm hiểu và nghiên cứu thêmnhững công trình bài viết có liên quan về nhà thơ, thơ chữ Hán và đặc biệt những bàiluận bàn về tậpThanh Hiên thi tập.

5.

5 Ph Ph Phươ ươ ương ng ng ph ph phá á áp p p nghi nghi nghiêêêên n n ccccứ ứ ứu u

Bài nghiên cứu của chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn họcvào để tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của tập thơ Bài nghiên cứu vận dụng thườngxuyên một số thao tác:

Phương pháp phân tích: thao tác này là thao tác được sử dụng nhiều nhất trongbài viết Việc tìm hiểu để đưa ra những lí lẽ, luận điểm, dẫn chứng ở từng phần để đisâu vào nội dung và nghệ thuật phần quan trọng nhất của Luận văn

Phương pháp tổng hợp: Sau quá trình phân tích và đưa ra những những dẫnchứng cho lí lẽ, luận điểm của mình chúng tôi sử dụng thao tác tổng hợp để rút ranhững nhận định mang tính chất khái quát về hai vấn đề chính về nội dung cũng nhưnghệ thuật trongThanh Hiên thi tập của Nguyễn Du mà bài viết muốn làm rõ.

Phương pháp liệt kê: Dùng thao tác liệt kê cũng làm một phương pháp rất đượcquan tâm trong bài viết Ở đây thao tác này được vận dụng thể hiện liệt kê từng khổthơ làm dẫn chứng cho quá trình phân tích những luận điểm, đó cũng là những bằngchứng làm thuyết phục người đọc và xem bài viết

Trang 9

PH PHẦ Ầ ẦN N N N N NỘ Ộ ỘIIII DUNG DUNG CH

CHƯƠ ƯƠ ƯƠNG NG NG 1 1 1 NH NH NHỮ Ữ ỮNG NG NG V V VẤ Ấ ẤN N N ĐỀ ĐỀ ĐỀ CHUNG CHUNG 1.1

1.1 S S Sơ ơ ơ llllượ ượ ượcccc v v vă ă ăn n n h h họ ọ ọcccc Vi Vi Việệệệtttt Nam Nam Nam n n nử ử ửa a a cu cu cuố ố ốiiii th th thếếếế k k kỉỉỉỉ XVIII XVIII XVIII n n nử ử ửa a a đầ đầ đầu u u th th thếếếế k k kỉỉỉỉ XIX

1.1.1

1.1.1 T T Tìììình nh nh h h hìììình nh nh v v vă ă ăn n n h h họ ọ ọcccc Vi Vi Việệệệtttt Nam Nam Nam n n nử ử ửa a a cu cu cuố ố ốiiii th th thếếếế k k kỉỉỉỉ XVIII XVIII XVIII n n nử ử ửa a a đầ đầ đầu u th

thếếếế k k kỉỉỉỉ XIX XIX

Thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là giai đoạn xảy ra mâu thuẫn sâu sắc trong lòng

xã hội Việt Nam Nội chiến giữa hai đàng và các phong trào đấu tranh của nhân dân nổ

ra liên tục Nguyễn Ánh lên ngôi tình hình càng trở nên tệ hơn khi những chính sáchcủa triều đại nhà Nguyễn không hề quan tâm đến nhân dân mà chủ yếu chỉ phục vụ giatộc

Điều kiện lịch sử đã ảnh hưởng một phần không nhỏ đến văn học Việt Nam, lựclượng sáng tác thời kì này đa dạng, không chỉ là vua quan, kẻ sĩ, mà còn cả tầng lớpbình dân Các tác giả có thể kể đến là: Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn ThịĐiểm, Ngô Gia Văn Phái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, TựĐức…

Nội dung chính của thơ văn thời kì này phê phán chế độ phong kiến suy tàn,chà đạp thân phận con người với những tác phẩm như Thượng kinh kí sự của Lê Hữu

Trác vẽ lại bức tranh của phủ chúa Trịnh sa hoa lộng lẫy và tất cả những người trongđấy không ai làm gì chỉ lo ăn chơi Không khí ở đây hoàn toàn khác với sự sống củadân chúng bên ngoài

Các tác phẩm lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến thối nát, những người phụ nữphải xa chồng vì cuộc chiến phi nghĩa, những nàng cung nữ suốt đời bị giam cầmtrong cung điện:

Mây mưa mấy giọt chung tình Đỉnh trầm hương khóa một cành mẫu đơn.

(Cung (Cung o o oá á án n n ng ng ngâ â âm m m Nguyễn Gia Thiều))))

Nội dung thứ hai trong sáng tác thơ văn giai đoạn này là sự thông cảm sâu sắcvới những số phận con người Đặc biệt là thơ chữ Hán Nguyễn Du, tác giả dành cả

Trang 10

một phần sáng tác nói về những số phận con người bất hạnh.Truyện Kiều một kiệt tác

văn chương Việt Nam, qua tác phẩm này Nguyễn Du đã tố cáo xã hội phong kiến chàđạp lên thân phân người phụ nữ, những số phận con người tài hoa, bạc mệnh

Còn một nội dung cũng quan trọng trong sáng tác giai đoạn này là mảng sángtác tình yêu và cuộc sống trần tục, với các truyện thơ Nôm nổi tiếng Hoa Tiên, Bích câu kì ngộ, Từ Thức… tình yêu tự do được ca ngợi, phản đối lại hôn nhân thời phong

kiến, ủng hộ tình yêu cá nhân Tình yêu mãnh liệt, trong sáng, táo bạo:

Cửa ngoài vội rũ rèm the Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình

(Truy (Truyệệệện n n Ki Ki Kiềềềều u u Nguyễn Du))))

Về mặt nghệ thuật, ngôn ngữ sử dụng cho sáng tác giai đoạn này là cả chữ Nôm

và chữ Hán, chữ Nôm giai đoạn này chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác vănchương Các thể thơ, lục bát, song thất lục bát, Đường luật, phú… Văn xuôi chữ Hán,văn tế… đa dạng nhiều thể loại

Đây là giai đoạn lịch sử xảy ra nhiều biến cố Vấn đề chủ nghĩa nhân đạo trởthành một trong những khuynh hướng chi phối sáng tác văn chương giai đoạn này.Đây cũng là thời kì văn học chống lại những tư tưởng Nho giáo lỗi thời, lạc hậu, lêntiếng bênh vực những con người bị vùi lấp dưới vũng bùn nô lệ, đặc biệt tình yêu cánhân có được một sự đồng điệu của các tác giả Thời kì này có nhiều biến cố lịch sửnhưng cũng là thời kì văn học trung đại lên ngôi với những tác phẩm văn học trở thànhmẫu mực, có giá trị vĩnh cữu cho nền văn học Việt Nam

1.1.2

1.1.2 V V Vịịịị tr tr tríííí ccccủ ủ ủa a a ch ch chữ ữ ữ H H Há á án n n trong trong trong ssssá á áng ng ng ttttá á ácccc v v vă ă ăn n n ch ch chươ ươ ương ng ng giai giai giai đ đ đo o oạ ạ ạn n n n n nử ử ửa a cu

cuố ố ốiiii th th thếếếế k k kỉỉỉỉ XVIII, XVIII, XVIII, n n nử ử ửa a a đầ đầ đầu u u th th thếếếế k k kỉỉỉỉ XIX XIX

“Chữ Hán là loại chữ đơn âm tiết Mỗi chữ tương đương với một tiếng, giống tiếng Việt cho nên đơn vị căn bản của chữ Hán là tự (chữ) Chữ ấy được tạo bởi các nét và sắp xếp trong một ô vuông theo trật tự cố định.” [18; tr 9]

Chữ Hán đi vào nước ta với mục đích đồng hóa người Việt của các triều đạiTrung Hoa ngày trước, từ lâu nó đã mặc nhiên tồn tại và được dùng chính thức bởi cácvua quan, kẻ sĩ những tầng lớp trên thời phong kiến hầu hết người bình dân đều khôngbiết chữ này Chữ Hán được dùng thi cử, chiếu, biểu của vua quan Từ lâu, chữ Hán

Trang 11

chiếm vị trí độc tôn nhưng người Việt hiển nhiên có tinh thần dân tộc sâu sắc, chữ Hánchỉ là chữ tạm bợ và một nước không thể không có chữ chính thức của nước mình, vớinhững ý nghĩ đó chữ Nôm xuất hiện tuy chỉ là dựa vào văn tự Hán nhưng nó được phổbiến ở dân chúng, người bình dân nhưng không được triều đình chấp nhận nên dù có

từ lâu cũng chẳng được dùng đến như chữ Hán, thi cử, cáo thị… vẫn là chữ Hán nhưtrước

Đến giai đoạn nửa cuối XVIII nửa đầu XIX, chữ Hán bị “thất sủng” hơntrước, những bước tiến quan trọng khi vua Quang Trung lên ngôi, cho sử dụng chữNôm là chữ chính thức của người Việt Nhưng sau đó, nhà Nguyễn thắng Tây Sơn,Nguyễn Ánh lên ngôi bãi bỏ những chính sách nhà Tây Sơn chữ Nôm lại quay về vị trícủa nó Mặc dù vậy, chữ Nôm cũng đã có sự phát triển mạnh Chữ Hán dù ít ai biếtnhưng những đóng góp về mặt chữ vẫn hết sức quan trọng, thơ ca của chúng ta chủyếu là bằng chữ Hán với những sáng tác thơ văn chữ Hán như Đại cáo bình ngô của

Nguyễn Trãi, những tác phẩm của vua Lê Thánh Tông… Đến đây, dù chữ Hán đã maimột nhưng còn rất nhiều tác giả biết và sáng tác thơ văn bằng chữ Hán, như thơ chữHán của Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Đặng Trần Côn, văn xuôi chữ Hán của Lê HữuTrác … và đó cũng là những tác phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt thi ca ViệtNam nói chung, thơ ca thế kỉ XVIII nói riêng

1.2 V Vềềềề ttttá á ácccc gia gia gia Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du

1.2.1

1.2.1 V V Và à àiiii n n néééétttt v v vềềềề cu cu cuộ ộ ộcccc đờ đờ đờiiii

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều

(K K Kíííính nh nh g g gử ử ửiiii ccccụ ụ ụ Nguy Nguy Nguyễễễễn n n Du Du Du Tố Hữu))))

“Cụ” được nhắc đến ở câu thơ trên chính là Nguyễn Du Truyện Kiều là tác

phẩm làm nên tên tuổi thi hào cũng là tác phẩm đánh dấu sự phát triển về tư tưởngquan niệm của nhà thơ Nguyễn Du không có một cuộc đời êm ả, sung túc như baođứa con quý tộc, từ lúc sinh ra đất nước trải qua quá nhiều biến cố Vì vậy, nhà thơphải sống một cuộc đời chìm nổi, phiêu bạt, đôi khi cơm ăn không no, áo mặc không

ấm, giấc mộng công danh cũng hóa thành ảo mộng

Nhà thơ Nguyễn Du sinh năm 1765, tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên Quê

Trang 12

nhà thơ ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.Nhưng nhà thơ được sinh trưởng tại Thăng Long Nguyễn Du thuộc dòng dõi quý tộc.Ông thân sinh là Nguyễn Nghiễm, nhà thơ, nhà nghiên cứu sử học, quan văn và là Tểtướng triều Lê Mẹ là bà Trần Thị Tần, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứKinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm.

Năm 1775, người anh lớn cùng mẹ Nguyễn Du mất, năm sau cha ông cũng quađời, hai lễ tang liên tiếp khiến bà quá đau buồn nên lâm bệnh ba năm sau bà mất, năm

ấy bà Trần Thị Tần mới 39 tuổi Nguyễn Du từ đây bắt đầu đến nương tựa nhà ngườianh khác mẹ là Nguyễn Khản một Tả thị lang Bộ hình kiêm Hiệp trấn xứ Sơn Tây, sau

vì liên quan đến chính trị với Trịnh Tông nên bị gián chức và bị giam Đây là thời giangia đình Nguyễn Du gặp nhiều biến cố, mặc dù vậy vì tuổi còn nhỏ nhà thơ vẫn đi học

và đi thi Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đỗ Tam trường, sau thì không thi tiếp nữa,

về sau ông giữ chức quan võ ở Thái Nguyên, chức này là do lúc trước Nguyễn Du cómột người cha nuôi họ Hà sau khi ông mất Nguyễn Du được kế nhiệm

Năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc đánh tan quân Thanh, Lê Chiêu Thống bỏchạy theo tàn quân xâm lược sang Trung Quốc Ba anh em Nguyễn Du cũng chạy theonhưng không kịp Từ đấy, nhà thơ bắt đầu về ở quê vợ Thái Bình, sống nhờ nhà anh vợ

là Đoàn Nguyễn Tuấn một thần dân của Tây Sơn Cũng trong thời gian này nhà thơ có

âm mưu chống lại Tây Sơn nhưng việc không thành, ông còn bị bắt giam một thờigian

Những ngày tháng sau này Nguyễn Du về quê Tiên Điền sống, đến thu năm

1802, Nguyễn Ánh đánh đổ vương triều Tây Sơn lên ngôi vua gọi Nguyễn Du ra làmquan Đây là thời gian công nghiệp của nhà thơ có nhiều thăng tiến Tháng 8 năm 1802,ông được bổ tri huyện Phù Dung rồi được thăng chức tri phủ Thường Tín Năm 1803,ông được cử lên Nam Quan đón tiếp sứ nhà Thanh Năm 1805, ông được thăng Đôngcác học sĩ tước Du đức hầu, vào Phú Xuân làm quan Năm 1814, ông được thăng làmCần Chánh điện học sĩ, rồi được cử đi sứ Trung Quốc, lo việc cống tuế Năm 1814,ông trở về Phú Xuân Năm 1815, ông được đặc cách thăng chức hữu tham tri bộ lễ.Năm 1820, vua Minh Mệnh lên ngôi, Nguyễn Du được chọn làm chánh sứ cầu phong.Nhưng khi chuẩn bị đi thì bệnh dịch hoành hành, ông mất vì bị nhiễm bệnh dịch năm

ấy, Nguyễn Du thọ 55 tuổi

Trang 13

Có lẽ vì cuộc đời có quá nhiều thăng trầm, biến cố ngay từ khi còn nhỏ nên mặc

dù xuất thân quý tộc nhưng Nguyễn Du là một con người thấu hiểu lẽ đời, yêu thươngnhững người nghèo khổ Nhà thơ đã thể hiện mình thật sự là một nhân tài, với mỗi lờithơ đều thấm nhuần một tinh thần nhân đạo sâu sắc Văn thơ Nguyễn Du nói lên tiếngnói phản kháng cái xấu, bênh vực những số phận đau khổ, những bậc anh hùng khí tiếttrong xã hội Mỗi bài thơ thể hiện phong cách một nhân tài thi ca Nguyễn Du là nhàthơ đã có những đóng góp hết sức tích cực cho nền văn học Việt Nam nói chung, thơ

ca trung đại Việt Nam nói riêng

1.2.2

1.2.2 S S Sự ự ự nghi nghi nghiệệệệp p p ssssá á áng ng ng ttttá á ácccc

Trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Du đã cống hiến hết vào thơ ca dân tộc, mỗitác phẩm là một lời tâm tình sâu sắc gửi cho con người, cả người sống và người chết,thơ ông đúc kết ý nghĩa cuộc sống, thấu hiểu cái con người cần với những dồn nén của

họ trong tư tưởng phong kiến lỗi thời Thơ văn Nguyễn Du có âm hưởng của “cái tôi”

cá nhân vang lên, đặc biệt làTruyện Kiều và phần thơ chữ Hán Tuy ít sáng tác mà vẫn

đạt được độ thâm thúy, thấm nhuần của thơ văn và lòng người Những sáng tác tiêubiểu của nhà thơ:

Truyện Kiều hay còn tên gọi khác là Đoạn trường tân thanh dựa vào bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Hoa Kim Vân Kiều truyện là tác

phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết chương hồi Câu chuyện được Nguyễn Du kể lại bằngthể thơ dân tộc thơ lục bát, câu chuyện không phải dịch lại mà trên cơ sở chỉ lấy cốttruyện của Thanh Tâm Tài nhân để viết một câu chuyện của riêng mình Truyện Kiều

là kiệt tác văn chương đến vạn đời sau vẫn không sao khám phá hết Tác phẩm nàytheo một số nhà nghiên cứu cho là được sáng tác khoảng năm 1805 đến 1809

Thác lời trai phường nón bài thơ tỏ tình của chàng trai phường nón, được viết

theo thể lục bát mang âm hưởng và phong vị dân gian

Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu viết theo lối văn tế.

Văn chiêu hồn bài văn tế được viết để tịnh độ những cô hồn đã khuất.

Thơ chữ Hán, có ba tập thơ:

Thanh Hiên thi tập có 78 bài thơ

Nam trung tạp ngâm có 40 bài thơ

Trang 14

Bắc hành tạp lục với 131 bài thơ

Cả ba tập thơ mang giọng chủ đạo là buồn Không gian thường là buổi chiều côđơn hay đêm vắng lặng Một số bài thơ còn có phương hướng thoát li, ẩn dật nhưngchỉ là mong muốn, thực tế nhà thơ chưa bao giờ từ bỏ đời sống hiện tại của mình

1.3

1.3 V V Vềềềề ttttậ ậ ập p p th th thơ ơ Thanh Thanh Hi Hi Hiêêêên n n thi thi thi ttttậ ậ ập p

Thanh Hiên thi tập là tập thơ chữ Hán đầu tiên, được sáng tác trong thời kì ở

Thái Bình Thanh Hiên thi tập có 78 bài thơ, có thể chia thành ba giai đoạn: “Mười năm gió bụi (từ năm 1786 đến khi trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh) Dưới chân núi Hồng (từ năm 1796 đến năm 1802) Giai đoạn cuối ra làm quan ở Bắc Hà (từ năm 1802 đến cuối năm 1804)” [17; tr 15, 16].

Thanh Hiên thi tập là tập thơ tâm sự của Nguyễn Du trong những năm tháng

sống ở Thái Bình và ở Tiên Điền Phần lớn âm điệu của tập thơ là buồn, cuộc sống ởThái Bình cực khổ, khó khăn, phải ăn nhờ ở đậu người ta, những bài thơ ở giai đoạnnày mang cảm giác trĩu nặng sự chán ngán, đôi lúc bi quan nhà thơ muốn đi ở ẩn,muốn hành lạc nhưng sự thật đó chỉ là dự tính không bao giờ được thực hiện Thờigian ra làm quan cũng chẳng vui vẻ gì hơn, tuy đường quan lộ thênh thang hơn nhiềungười nhưng vẫn không khởi sắc về tinh thần và vật chất, chức tước không làm thayđổi được cuộc đời nhà thơ, ông vẫn buồn, than thở về cuộc đời, về sự sống Nguyễn

Du nhìn thấy cuộc đời con người chỉ là một bể khổ Phần lớn nội dung thơ mang tínhchất tâm tình, riêng tư, đôi lúc bi quan, chán nản

Thanh Hiên thi tập hiện nay không được in riêng mà in cùng với hai tập Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục các tác giả thường gọi chung là tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du Hiện có 9 văn bản, bản dịch phần thơ chữ Hán Nguyễn Du, ở đây chúng

tôi nêu lên những bản được xem đầy đủ nhất do các tác giả tập hợp có thể kể đến là:BảnThơ chữ Hán Nguyễn Du của Lê Thước, Trương Chính, gồm 249 bài thơ, trong đó

có 78 bài của tập Thanh Hiên Cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Đào Duy Anh tập

hợp, có 79 bài củaThanh Hiên thi tập Cuốn Nguyễn Du toàn tập của Mai Quốc Liên,

có 78 bài thơ của tậpThanh Hiên.

Trong Luận văn này chúng tôi chọn bản Thơ chữ Hán Nguyễn Du do hai cụ Lê

Thước và Trương Chính biên soạn

Trang 15

Thanh Hiên thi tập là tiếng nói tận đáy lòng của Nguyễn Du, lời tâm sự mộc

mạc của con người phải sống, phải đi cùng những năm tháng khó khăn, những điều ấytrở thành nỗi ám ảnh trong sáng tác văn chương của Nguyễn Du giai đoạn này Cuộcđời gặp lúc loạn li chỉ mong tính mệnh bảo toàn Tấm thân phó mặc mưa gió, nhà thơkhông mơ ước lầu cao vọng nguyệt chỉ hi vọng bản thân hết bệnh, trong nhà có thuốctrị Trong bài thơ Mạn hứng I nhà thơ nói về thân thế mình như một gánh nặng tang

bồng:

百 年 身 世 委 風 塵

旅 食 江 津 又 海 津

Bách niên thân thế ủy phong trần

Lữ thực giang tân hựu hải tân

(Kiếp phong trần trăm năm thân thế,Khắp bờ sông bãi bể lang thang.)Cuộc đời trải qua bao vất vả khiến Nguyễn Du - một chàng công tử quý tộcdanh gia trở thành một người không nơi về, phải trải qua những cơn đau ốm khôngthuốc men, lời tâm sự chân tình của nhà thơ“Ngựa còm xe nhỏ, thẹn anh láng giềng”

thẹn vì bản thân sống đời trôi nổi, thẹn vì mình chẳng có công cán gì chỉ còn lại“Sống trong trời đất kiếp bình bồng” Nhà thơ than trách và bày tỏ cuộc sống hiện tại:

Trang 16

Đất bắc trời nam túi rỗng không.)

(M (Mạ ạ ạn n n h h hứ ứ ứng ng ng II) II)

Bản thân không phải là người thích cuộc sống xê dịch vậy mà trong lúc này nhàthơ tự ví mình chỉ như “ngọn cỏ bồng” không một nơi cố định luôn luôn phải dịch

chuyển, nhưng không phải đi với túi đầy mà là“một chiếc túi rỗng không”, không biết

đi đâu, về đâu hết nam lại bắc, đầu sông cuối sông Trong khi đó bệnh tật kéo đến từngngày, trong bài thơXuân dạ Nguyễn Du viết:

Rõ ràng, tên tác phẩm là Xuân dạ nhưng đọc đoạn thơ ta chẳng thấy mùa xuân

ở đâu chỉ thấy không gian u ám mờ mịt bao trùm và trong cái không gian ấy có mộtcon người bệnh tật, một người xa quê lâu mang nặng nỗi đau tinh thần lẫn thể xác, conngười một mình trong đêm xuân, cô đơn giữa không gian bao la, chỉ thấy nỗi đau khổtrào dâng

Bức tranh hiện thực về cuộc sống nhà thơ hiện ra trước mắt người đọc, bàiThu chí:

du khách đã mệt mỏi và “Tuế Giang nằm bệnh suốt năm chầy” ốm đau, bệnh tật đối

với một người bình thường đã là cơ cực, đối với Nguyễn Du một người phải sống lênh

Trang 17

đênh không chốn nương thân phải ăn nhờ ở đậu lại càng đau khổ hơn, nỗi ám ảnh vềcăn bệnh đã đi theo ông – tác giả Truyện Kiều không còn sức chống lại chỉ biết sống

cùng nó Một chỗ khác, sự khốn khó của cuộc sống được lột trần qua câu thơ “Chớm lạnh đã hay không áo khổ” nhà thơ còn nghe được cả đâu đó “Tiếng ai nệm vải bông chiều đưa” đó là câu thơ đầy hi vọng, một sự khát khao gia đình, chờ mong một tấm

áo khi mùa rét bắt đầu vì con người ấy rất cô đơn và trơ trọi giữa cuộc sống Sự ngaongán trước cái nghèo, trước đây dù chỉ là một viên quan nhỏ nhưng cuộc sống cũngkhông khó khăn còn hiện tại nhà thơ thốt lên tiếng nói tâm tình của một kẻ khất thực

“Áo cơm buồn những chịu ơn người”.

Con người trước kia sống với văn chương, yêu văn chương, chữ nghĩa giờ đâylại nói “Chữ nghĩa ích gì cho cuộc sống”, tâm sự đau đớn nếu không phải gì cuộc

sống quẩn bách, tuyệt vọng thì chẳng bao giờ nhà thơ nói ra điều ấy, vì với nhà thơ vănchương là bạn đường là lẽ sống nhưng lẽ sống ấy giờ đây bị nhấn chìm vì mưu sinh,giờ thì ngoài sách ra ông chẳng có gì trong nhà, sách trở thành“Sách chồng cạnh gối

đỡ thân mệt” Nguyễn Du không thể như Hộ - Đời thừa của nhà văn Nam Cao có thể

viết những thứ văn sau khi đọc xong người ta cũng quên đi để kiếm tiền, Nguyễn Duchỉ có thể dùng thơ văn để bày tỏ lòng mình

Từ một người yêu lẽ sống, quý cuộc đời giờ đây trở nên cay cú với bản thân vìchẳng làm được gì lúc này, cô đơn trong đêm lạnh, người khách dò theo từng bước đithời gian mà cất lên những lời xé lòng trong bàiTrệ khách:

風 塵 隊 裡 留 皮 骨

客 枕 蕭 蕭 兩 鬢 蓬

Trang 18

Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng.

(Phong trần còn mảnh xương da,

Bù xù trên gối tóc xòa mái sương.)Người khách với tấm thân chỉ còn da bọc xương trong hàng nghìn người phongtrần không ai biết đến Thậm chí, trong bài thơ đôi khi nhà thơ nói về cuộc sống không

có cả một bầu rượu “Nhà nghèo Bắc Hải rượu không là thường” và ông chỉ có gió

trăng làm bạn nhưng gió trăng lại không biết nói năng gì làm không khí cả không giantrở nên tĩnh lặng Mỗi bài thơ là cung bậc cảm xúc của Nguyễn Du về cuộc sống bảnthân, đó là lời tâm sự chân thành của con người lúc đói nghèo, khi bệnh tật, trong buồnđau kiếp người Tuy tuổi ông chỉ ngoài ba mươi nhưng tóc bạc và bệnh tật luôn đeođẳng tấm thân bệnh tật ấy sống trong lo âu, buồn bả trước cuộc đời

Trong bài Ngọa bệnh I nhà thơ nói đến cái ốm đau những căn bệnh đeo bám,

ông tự nhận mình là người hay bệnh tật lại có tinh thần không thư thái:

tưởng có thể ăn được Ngoài sách ra Nguyễn Du chẳng có gì, cuộc sống của ông lúcnày thật đáng buồn Cô đơn, quạnh hiu lúc gian truân và dù sau nhiều năm tháng vất

vả, nhà thơ ra làm quan triều Nguyễn, cuộc sống cũng chẳng khấm khá hơn, những chitiết ông nói về cuộc sống những ngày sau này, vẫn bần cùng, vẫn một bầu không rượu,làm thân lữ khách, cuộc sống khắc khoải lo âu, vụng đường sinh kế, nghe có vẻ khônghợp lí những đó là sự thật, tuy được mời về làm quan nhưng ông luôn giữ thân vì sợ sẽgây ra bất trắc, ông phải luồng cúi trước những quan lớn khác, thậm chí phải nhỏ nhẹvới những tên lính của mình Nguyễn Du không phải nhút nhát mà ông đang sống rấthiểu đời vì cuộc đời thế sự giờ đây đổi dời không còn cái gọi là công lí Tác giảThanh

Trang 19

Hiên thi tập thấu hiểu và chia sẻ số phận với những con người cực khổ, những người

dân bần cùng, nghèo đói, tấm lòng của ông đi vào thơ như lời trần tình, đồng điệu.Chính cuộc sống khổ cực lúc đầu mà ông xa rời nhân dân nhưng cũng vì nó sau nàyông lại hiểu dân yêu dân, thấu hiểu những đau khổ của họ cũng chính như đau khổ vất

vả mình trải qua Cuộc sống bần hàn nhưng vẫn giữ mình thanh liêm, đôi khi nhàkhông đủ no nhưng không nghĩ đến chuyện phải lạm dụng quan chức để thu lợi chomình dù là nhỏ Chính tính cách đó góp phần làm cho những tác phẩm của nhà thơsống mãi với thời gian

2.1.2

2.1.2 Tri Tri Triếếếếtttt llllíííí ssssự ự ự ssssố ố ống ng ng đờ đờ đờiiii ng ng ngườ ườ ườiiii v v và à à mong mong mong mu mu muố ố ốn n n h h hà à ành nh nh llllạ ạ ạc, c, c, tho tho thoá á átttt ttttụ ụ ụcccc

Trải qua cuộc dâu bể đời người, Nguyễn Du có khuynh hướng hành lạc thoáttục, điều này thể hiện trong sáng tác của ông nhưng một minh chứng cho một conngười phải đến đường cùng dù đôi khi đường cùng đó là mình tự đi vào:

Cái ước mơ tưởng chừng như đơn giản với bao người mà đối với Nguyễn Duthật khó, làm sao ông có thể“gọt tóc” khi bản thân còn mang nặng món nợ hồng trần,

làm sao nghe được tiếng thông reo khi trong lòng chất đầy những nỗi lo, tâm đang đau

xé những chuyện cuộc đời

Nhà thơ thường hay nhắc đến chuyện kiếp sau, nghiệp chướng của đạo Phật đểbày tỏ tâm trạng, trong bàiỨc gia huynh có đoạn: “Gặp nhau âu đành kiếp khác chờ”

hay chữ nghiệp của con người trongThôn dạ:

老 去 未 知 生 計 拙

障 消 時 覺 夙 心 空

Lão khứ vị tri sinh kế chuyết

Trang 20

Chướng tiêu thời giác túc tâm không

(Lối sinh kế già còn khờ dại,Nghiệp chướng tiêu, thư thái đòi khi.)Nguyễn Du quan niệm sống là trả nợ kiếp trước, vì kiếp trước tạo nghiệp nênkiếp này phải trả, trả xong tâm mới tịnh nhưng đó chỉ là một lí do để sống trên đời và

để Nguyễn Du tiếp tục sống

TrongĐiếu La thành giả ca nhà thơ nhắc chuyện nàng ca nữ, cô bị mắc nghiệp

phấn son nên chết đi vẫn phải trả, sống không ai hiểu mình chết về cõi hư không tìmngười bầu bạn“Suối vàng đành bạn với Kì Khanh”, nhà thơ đang nói chuyện ca kĩ mà

ngỡ như đang nói chính mình rất đau xót:

vì nhà thơ không làm được, không bỏ được, dù ở ẩn tâm cũng chẳng yên, chỉ có say,say để quên đi việc đời:

Trang 21

khỏi nhưng cũng không thể, Nguyễn Du cứ như một người “tự mình buộc lấy mình”

vào những chuyện không đâu Mà không phải chỉ nói một lần, nhà thơ nhắc rất nhiềulần như tự thuyết phục mình xem đó là những chuyện mà người già yếu nên giữ thân

và đây chỉ là những việc thường tình trong cuộc sống, bàiTạp thi II có đoạn:

葉 落 花 開 眼 前 事

四 時 心 鏡 自 如 如

Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự

Tứ thời tâm kính tự như như

(Lá rơi hoa nở việc trước mắt,Tâm trạng quanh năm vẫn nhẹ nhàng.)Quy luật cuộc đời không ai sống đến ngàn năm, như cánh hoa nở rồi sẽ rụng dù

có đẹp thì cuộc đời cũng ngắn ngủi chỉ như hoa nở hoa rụng Nhà thơ còn nuối tiếc sựtrôi chảy nhanh của thời gian, đời người là có hạn, nhìn lại tấm thân già yếu thản thốt,điều này được Nguyễn Du thể hiện trong bài thơMạn hứng:

Trang 22

Một bài khác nhà thơ lại nhắc đến việc phải tận hưởng, phải uống rượu, phảiuống thật nhiều, tâm trạng nhà thơ lúc này thật bi quan, chán nản:

生 前 不 盡 樽 中 酒

死 後 誰 澆 墓 上 杯

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?

(Sống đây chẳng dốc cạn bình,Chết rồi tưới rượu mộ mình biết ai?)

((((Đố Đố Đốiiii ttttử ử ửu) u)

Nói thì nói vậy nhưng Nguyễn Du nào đâu thể làm vậy, ông vẫn lo mái đầuđiểm bạc công nghiệp chưa nên, không giúp cho triều Lê phục quốc cũng chẳng thể ravới Quang Trung vì đó là kẻ thù cố quốc, rồi những năm sau này cuộc sống có đỡ hơnnhưng Nguyễn Du vẫn mãi không thể thoát khỏi vòng thế tục vẫn phải làm quan vẫnphải lo thân bị biến cố, lo cơm ăn, áo mặc cho gia đình, dù có hành lạc đó cũng là thờigian nghỉ phép ở quê nhà rồi cuối cùng đâu lại vào đấy những điều ông nói trọng tâm

để sống khuây khỏa hơn Rồi đôi khi ông nhắc chuyện ẩn dật của mình nó gắn liền vớinhững năm tháng khó khăn, cơ cực của ông, căn nhà của nhà ẩn dật ấy “toàn là núi xanh” chỉ có chồng sách bợ đỡ tấm thân bệnh tật.

Trong bài Liệp nhà thơ nói đến việc đi săn, đi tìm cái thú vui riêng nhưng vẫn

để ý đến những chuyện xung quanh, thái độ không nằm ngoài vòng trần tục Nói là

“Vui với lũ hươu nai của ta, cốt thư thái tâm tình, chứ không cốt bắt cho được” xem

việc đi săn là vui nhưng cách săn khác mọi người, nếu người đi săn hi vọng bắt đượcnhiều thú rừng thì Nguyễn Du đi săn chỉ mong để thoải mái và rượt đuổi một cái gì đó

hư không vì thú rừng ở đây là bạn của ông không phải con mồi Đi săn nhưng nghĩchuyện đời, tâm đầy mối lo:

浮 世 為 歡 各 有 道

驅 車 擁 蓋 是 何 人

Phù thế vi hoan các hữu đạo Khu xa ủng cái thị hà nhân?

Trang 23

(Thú vui trần thế âu tùy thích

Xe cưỡi dù che ấy những ai.)

(Li (Liệệệệp) p)

Nói không quan tâm, không nhìn thấy nhưng vẫn không sao làm đươc, vì ông làngười trần thế mắc nợ phong trần nên dù hành lạc cũng khó thực hiện, ông không thể ở

ẩn đầy thư thái như Nguyễn Bỉnh Khiêm với:

Một mai, một cuốc, một cần câu.

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao.

Cũng không thể ở ẩn như Nguyễn Trãi Vì ông ví đời người cũng nhưng mộtcuộc đi săn, người tìm mục tiêu để săn có người thấy mục tiêu nhỏ bé có người tựlượng sức, nhà thơ thì tự biết sức mình xem việc vui thú là đích đến lúc này dù cuộcmưu sinh ngày ngày vây lấy nhưng vẫn khát khao hành lạc, vui với thiên nhiên DùNguyễn Du đôi lúc:

Tâm lo chuyện thế gian, tấm lòng một nhân tài giữa cơn gió bụi làm Nguyễn

Du không thể phủi sạch tất cả, với những ảnh hưởng của đạo giáo đến cuộc đời ôngcàng làm ông thấy mình có nợ với đời và phải trả xong nợ đó

Trang 24

Nếm trải đủ mùi vị đời sống nhưng không thể thực hiện ước mong được nghỉngơi đến cuối đời Chuyện trăm năm không chỉ có ởThanh Hiên thi tập mà hai tập thơ

còn lại cũng vậy ngay cả Truyện Kiều ông cũng thường nhắc đến, nó gợi lên như cột

mốc sự sinh tồn con người, như cành hoa sớm nở tối tàn, chỉ mong tinh thần luôn yên

ổn vậy mà không thể thực hiện, nhà thơ Nguyễn Du không có cái khoáng đạt củaNguyễn Bỉnh Khiêm, không có cái ngông của Nguyễn Công Trứ vì ông “Khư khư mình buộc lấy mình vào thân” nên dù trong nhiều tác phẩm, nhà thơ có đưa ta đến thế

giới hư không, có kể cho ta nghe những chuyện kim cổ, chuyện trăm năm, có kêu conngười thoát khỏi trần thế và đi hành lạc đi, đi ở ẩn đi, thì Nguyễn Du cũng chẳng thểthực hiện được vì chính bản thân ông cũng không thoát khỏi cái vòng tuần hoàn conngười cũng phải bấp bênh, chao đảo và đôi khi ngã quỵ vì nó Tuy không phải là mộtthiền sư nhưng cốt cách một thiền sư luôn thể hiện trong thơ ông, là ý thức về sự sốngsau những phong ba cuộc đời, ý thức sự hữu hạn của con người và ý thức được bảnthân phải nghỉ ngơi, phải an cư nhưng ông chưa bao giờ thực hiện được cả việc thoáttục hay hành lạc, ông chỉ là một thiền sư còn vướng bụi trần

phải ai sinh ra cũng được sung túc, vui vẻ như nhà thơ, nhưng đó chỉ là chuyện lúctrước và cũng chính cái xuất thân ấy vẫn đến cái sóng gió lúc này

Những năm tháng sống tha hương, bệnh tật làm cho nhà thơ người ở tuổi bamươi mà mái đầu đã điểm sương“Ngậm ngùi năm tháng bạc đầu rồi”, dù đầu bạc mà

vẫn chưa được về nhà vẫn còn bồng bềnh trôi nổi như đám lục bình kia, đi đến nơi đâu

là nhà đấy mà không có nơi cố định cũng chẳng trở lại được dòng sông cũ:

生 未 成 名 身 已 衰

蕭 蕭 白 髮 暮 風 吹

Trang 25

Sinh vị thành danh thân dĩ suy Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy

(Danh phận chưa thành sức yếu ngay

Lơ thơ tóc bạc gió chiều bay.)

(T (Tự ự ự th th thá á án n n I) I)

Từ láy “tiêu tiêu” gợi cho chúng ta thấy một cái gì đó ít ỏi, yếu ớt giữa cơn gió

chiều như con người đã xế bóng, bệnh tật trước sóng gió loạn lạc Vậy mà “Trời đất còn phú cho cái hình cốt kém/ Tóc râu bù lại tháng ngày dài”, sống mà không làm

được việc gì là nỗi đau của kẻ sĩ trước thời thế ấy Tự trách tấm thân mình “như ngọn

cỏ bồng lìa gốc” chẳng biết đi về đâu Những suy nghĩ đó là tóc ông chóng bạc chăng?

Con người ấy luôn trăn trở với bản thân mình về những điều phiền muộn, là con dâncủa vương triều nhà Lê nhưng khi nhà Lê suy vận ông chẳng giúp được gì lại phảichốn vào nhà người, dù nuôi chí phụ quốc mà “tấm lòng” ấy có ai hay cho, khi

Nguyễn Du đang là người không tiền, không phận, không có một người hiểu mình thìlàm sao không lo âu, không vằng vặc, trong bài thơU cư I ông nói về cái tuổi già của

chẳng phải nhút nhát, sợ sệt mà vì cuộc sống từng trải khiến ông thấu hiểu lẽ đời phảinhư vậy Vậy nên, ông trách thân ông sao lãng phí chẳng nên chuyện gì thì cái tuổi già

đã đến:

流 落 白 頭 成 底 事

西 風 吹 倒 小 烏 巾

Trang 26

Lưu lạc bạch đầu thành để sự Tây phong xuy đảo tiểu ô cân

(Nổi chìm trắng uổng mái đầu,Gió tây bổng thổi lật nhào chiếc khăn.)Chiếc khăn sao có thể lật nhào, chỉ có thể lật nhào là con người trong buổi loạn

li, lật nhào vì cái đổi trắng thay đen, vì cái sự thay đổi nhanh chóng mà con người chưachấp nhận được, đó là sự nhào lộn của cuộc đời nhà thơ lúc ấy, chẳng biết làm gì thấymình lãng phí để “uổng mái đầu”, cũng trong một đề tựa, nhà thơ thêm lần nữa cất

tiếng than trách mái đầu bạc của mình chẳng về được quê hương nên đến cái tuổi già

ấy còn cặm cụi ở nơi xứ người:

Cái nghèo cái bệnh làm cho con người ở cái tuổi ba mươi mà mái đầu đã điểmsương, đó có vẻ là lí do hợp lí quan trọng nhưng ai hiểu về Nguyễn Du, về thơ Nguyễn

Du thì sẽ nghĩ khác, cái thật sự làm con người mới ở tam tuần này có đến hai màu tóc

là vì quá lo âu, suy nghĩ trước những biến cố cuộc đời:

高 興 久 無 黃 閣 夢

虛 名 未 放 白 頭 人

Cao hứng cửu vô hoàng các mộng

Hư danh vị phóng bạch đầu nhân

(Hứng cao bặt mộng gác vàng,Bạc đầu chưa thoát khỏi đường hư danh.)

(M (Mạ ạ ạn n n h h hứ ứ ứng ng ng I) I)

Nhà thơ muốn buông bỏ tất cả nhưng sự thật không dễ, dù có nói mình không

Trang 27

tham mộng gác vàng thì vẫn mang trong lòng hai chữ hư danh, cái hư danh ấy làm chotóc của người bạc đầu đi theo thời gian, làm cho cái bệnh tật thêm dài ra không dứt.

Đó là cái bệnh trong tâm, của một cái tâm sống cô đơn nhiều bụi đời, đau nỗi đau củamình, đau nỗi đau thời thế:

Nhà thơ thấy bản thân chưa làm nên việc gì, văn chương lại càng vướng víu,công danh được ví như“con rắn chạy vào hang” có lẽ vì lo quá nhiều, buồn qúa nhiều

làm cho một kẻ thi nhân đất khách trong thời gian không phải là quá lâu đầu đã bạcphơ:

Hơn ai hết nhà thơ rất thấu hiểu sự trôi chảy của dòng đời, biết đời người là hữuhạn vậy mà không thể sống cho riêng mình không thể xua đi nỗi buồn, Nguyễn Du locho vận nước nhà trong buổi suy vi nỗi lo ấy thật lớn lao Thậm chí, Nguyễn Du tựthấy bản thân mình thật đáng thương:

老 來 白 髮 可 憐 汝

住 久 青 山 未 厭 人

Trang 28

Lão lai bạch phát khả liên nhữ Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân

(Già rồi tóc bạc thương mày nhé!

Ở mãi non xanh chưa chán người.)

(Thu (Thu d d dạ ạ ạ I) I)

Ở trong núi, núi chưa chán người, núi thì làm sao chán người được, lời tráchmóc nghe có vẻ hời hợt nhưng đây là lời nói đầy tâm trạng của tác giả Làm sao chúng

ta hiểu được tình cảnh Nguyễn Du lúc bấy giờ, có lẽ nhà thơ đã thật sự bế tắc, bế tắctrước tấm thân già của mình, bế tắc trước thời cuộc, lòng giữ mối cô trung có ý chínhưng không đủ sức làm gì đành để sự việc trôi chảy trước mắt, đôi khi ông còn nghĩđến việc “vắt tóc” để được thung dung hơn nhưng đó chỉ là suy nghĩ còn sự thật thì

nhà thơ vẫn không thể quên được những việc đang xảy ra, những điều mình chưa làmđược, tha thiết với tấm lòng cố quốc nên không thể theo kịp thế thời, dù trung đến đâu,tấm lòng tha thiết với quê hương đến đâu cũng chẳng giúp được gì vì cái danh chỉ là

hư ảo Người khách trong mười năm gió bụi, mang nỗi niềm chưa bày tỏ cùng ai:

Đi đến đâu ông cũng giữ mối âu lo bão táp ập đến, giữ khư khư nỗi niềm ấy nói

ra cũng chẳng ít gì có khi lại thiệt thân Thân thế như một vết sẹo cuộc đời, một conngười sống giữa đất nước, tổ tiên không giữ được, sống trong ngày tháng đau khổ,muốn gặp người thân cũng chẳng thể gặp được “Gặp mặt âu đành kiếp khác chờ”.

Nhà thơ thường lấy chí khí của người xưa như“Chung tử so đàn gảy khúc nam”, như

“Chàng Trang tiếng Việt ốm còn ngâm” mà khẳng định rằng:

四 海 風 塵 家 國 淚

Trang 29

Thấy bản thân không được như người xưa, cần phải vượt qua nhiều khó khăn,lúc gian truân, vất vả phải biết cam chịu vì còn những nỗi lo lớn hơn bản thân mình.

Có thể sẽ chẳng ai hiểu được những lời tâm sự ấy nên cứ ngày ngày người ấy đi tìmmột điều gì đó trong suy nghĩ và rồi phát hiện ra:

Chữ nghiệp trở thành lí do xác đáng để giải thích tại sao Nguyễn Du sống trênđời và tại sao ông lại phải như lúc này Đôi lúc cái chí khí nam nhi cũng ẩn hiện trongcon người ông, đó là hình tượng lữ khách giang hồ xuất hiện với thanh kiếm bên lưng:

眼 底 浮 雲 看 世 事

腰 間 長 劍 掛 秋 風

Nhãn để phù vân khan thế sự Yêu gian trường kiếm quải thu phong

(Việc đời trước mắt chòm mây nổi,Thanh kiếm bên lưng trận gió may.)

(K (Kíííí h h hữ ữ ữu) u)

Sự xuất hiện đó như một vệt sáng lé lên trong đêm tối, giữa thời thế thời loạn

Trang 30

suy, công danh, sự nghiệp chưa thành, mong ước làm được điều vì cho cuộc đời giờchỉ như giấc mơ tan biến hết trong buổi sớm mai.

Tấm lòng của người đầy hùng tâm tráng chí ai thấu cho, dù có như trăng sángthì cũng không thể làm thay đổi thời thế bấy giờ Nhà thơ hay nhắc đến những anhhùng rồi bật tiếng than, trong bàiNinh công thành:

để chiến đấu, gươm kiếm giờ chỉ làm vật trang trí Nỗi đau nhức nhối trước cái già yếuđeo lấy, nhà thơ không sợ chết mà vì chưa hoàn thành được cái lẽ ở đời, lẽ sống ấy làcái ý nguyện cô trung, cái hi vọng giúp nước buổi suy vi, vậy mà giờ “tóc bạc rồi”

lòng hằng luống ngẹn ngào, chính cái suy nghĩ như vậy đã bó chân Nguyễn Du làmcho ông không còn hi vọng nào và cứ mãi đeo đuổi nỗi buồn đến nổi xuân, hạ, thu,đông cũng chẳng hay biết Đôi lúc người thi sĩ ấy muốn quên đi tất cả những mối lo,mối hận chí nam nhi:

Trang 31

muốn quên cả chuyện trăm năm, quên đi cái dốc con người, cuộc sống nhiều tâm trạngcủa nhà thơ như bức tranh vẽ đầy màu sắc lẫn lộn không thể phân biệt, có tâm trạngphục quốc có tâm trạng của kẻ tức thời… và còn những mối hùng tâm khó giải bày tạonên một Nguyễn Du“râu bơ phờ đầu bạc” chỉ lo manh áo, chén cơm cũng chẳng yên.

Một loạt ba bài thơ Tạp ngâm, nhà thơ liên tiếp nhắc đến “bạch phát”, nhắc

đến sự già trước mắt Với ông bạc tóc là một điểm rất quan trọng vì nó nói lên sự giànua và thời gian chóng qua của con người, dù đôi lúc tự lừa mình để thanh thản nhưngđến cuối cùng phải chấp nhận mình đã già và chưa làm được gì Cho đến thời kì ra làmquan, Nguyễn Du vẫn cứ nói chuyện bạc đầu và việc công hầu danh tước mình chẳngmong có:

(K (Kíííí h h hữ ữ ữu) u)

Dù làm đến chức vụ lớn trong triều mà nhà thơ vẫn thấy “ngao ngán” và ước

mong được như kẻ thường dân “nằm khểnh bên cửa sổ” để không phải bận tâm chi

đời Ta thấy sự việc này có gì đó mâu thuẫn, rõ ràng là đã làm quan rồi nếu trước kiaông nghĩ mình chưa có công nghiệp gì, chưa giúp ích gì cho đời thì bây giờ ông đãđược làm quan chức sao phải cứ lo âu, suy nghĩ nhiều vậy! Nếu chúng ta hiểu đượcnhà thơ thì sự việc này không có gì mâu thuẫn, trước kia là gì thương nhà Lê mà muốnlật đổ nhà Tây Sơn không thành nên ông cứ hoài đau thương nhưng giờ ra làm quannhà Nguyễn không biết đó có phải là mong muốn của ông hay không, chỉ biết khi ralàm quan dù làm lớn vẫn phải luồng cúi:

英 雄 心 事 荒 馳 騁

名 利 營 場 累 笑 顰

Anh hùng tâm sự hoang trì sính

Trang 32

(Anh hùng đã mỏi đường rong ruổi,Danh lợi còn mang lụy khóc cười.)

(Ti (Tiêêêêu u u xu xu xuâ â ân n n llllữ ữ ữ th th thứ ứ ứ))))

Cuộc đời của ông được ví như giấc mộng và ông đau lòng trước những điều đó,giấc mộng tha hương, giấc mộng phục quốc, giấc mộng công danh giờ như bọt biển vìđến cuối cùng chỉ là hư ảo chết không mang theo:

浮 利 榮 名 終 一 散

何 如 及 早 學 神 仙

Phù lợi vinh danh chung nhất tán

Hà như cập tảo học thần tiên

(Danh lợi hão huyền chung cuộc trắng,Sao bằng sớm học đạo thần tiên?)

(M (Mộ ộ ộ xu xu xuâ â ân n n m m mạ ạ ạn n n h h hứ ứ ứng) ng)

Trong đêm xuân lữ thứ, người du khách phương xa nhìn cuộc đời một cáchngán ngẫm, tiếc nuối cuộc đời trải lắm phong trần làm cho du khách không còn mơmộng gì nữa, mái đầu bạc phơ mà không giữ được công nghiệp của mình, vì sự đời làgiấc mộng hư không Nhà thơ thậm chí thấy đồng cảm với con hạc biển tuy bền ngoàikhông đẹp như con công nhưng tấm lòng thì tốt hơn và múa cũng không thua conkhổng tước

Sự nghiệp vinh hoa là giấc mộng phù du làm cho người ta bạc đầu Nguyễn Ducũng vậy, nhưng hơn tất cả tấm lòng nhà thi sĩ vẫn mang nỗi buồn đau không thể giảibày Ông không hám danh, hám lợi vì danh lợi chỉ mang đến phiền muộn, ông muốnhoàn thành công nghiệp không thể hoàn thành đó mới chính là nỗi đau lớn Mái đầubạc với ông luôn là nỗi ám ảnh là vết thương không thể nguôi ngoai vì nó cho ông biếtông đã kẻ hết thời, không thể làm điều mình muốn Trong tập thơ này có 78 bài thơnhưng có thể đến một phần ba số bài có nhắc đến đầu bạc, nhắc không phải để ngườikhác thương mà ông ám chỉ cái thời đại của ông, cái số phận và công danh của ôngkhông nằm ngoài sự việc ấy Nỗi đau ấy là nỗi đau của một nhân tài trong buổi loạn li,

là tâm sự của người trước thời loạn lạc dù ra làm quan mà vẫn lo âu vì cách ông muốnthể hiện là một ông quan sống với tình thương, lẽ phải và bênh vực dân chúng nhưng

Trang 33

đến cuối cùng những cống hiến đó không thể thực hiện được vì bản thân ông còn chưagiữ được mình.

2.2.2

2.2.2 N N Nỗ ỗ ỗiiii nh nh nhớ ớ ớ qu qu quêêêê h h hươ ươ ương ng ng da da da di di diếếếếtttt

Thơ Nguyễn Du sâu lắng với giọng buồn của con người cô đơn, với cái chứachan của kẻ xa nhà, thơ ông có lời êm dịu xoa những cơn đau, có lời chua chát làmnhói lòng người Cuộc đời không như ta nghĩ, số phận con người chao đảo theo thờithế, phải xa quê hương, xa những người yêu thương Có biết bao người đi xa quêchung một tâm trạng, một nỗi niềm ấy là nỗi nhớ quê hương của con người xa xứ, đặcbiệt là xa quê trong hoàn cảnh rối ren, bế tắc Nguyễn Du - con người sống ở thế kỉđầy biến động ấy vì chạy theo vua Lê không thành buộc phải ở lại sống cuộc sống ràyđây mai đó nơi đất khách “Tan tác anh em Hồng Lĩnh vắng” nỗi niềm đó có ai thấu

cho,“anh em tan tác” lại “không nhà” đôi khi nhà thơ thấy xuân về cất tiếng hỏi tha

thiết “Kìa xuân Quỳnh Hải từ đâu lại rồi?”, cuộc sống tha hương càng làm cho nhà

thơ nhớ quê hương nhiều hơn và đau nhiều hơn Ở nơi xứ lạ, không có tin tức anh em

“Xa cách các em tin tức vắng”, người lữ khách canh cánh bên lòng tuôn trào giọt lệ:

一 片 鄉 心 蟾 影 下

經 年 別 淚 雁 聲 初

Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ

(Lòng quê lai láng gương thềm rọi,

Lệ cũ đầm đìa tiếng nhạn qua.)

(S (Sơ ơ ơn n n ccccư ư ư m m mạ ạ ạn n n h h hứ ứ ứng) ng)

Nếu ngày xuân đối với người khác là ngày vui với ông thì lại cô đơn, buồn tẻ,ngày xuân thật đượm buồn, “lai láng” từ ngữ được sử dụng để nói lên tấm lòng

thương nhớ quê hương tràn trề, bao la và luôn luôn tồn tại trong lòng ông Dù ở xa quê

mà lòng vẫn hướng đến quê hương, bản thân ví mình như“ngọn cỏ bồng lìa gốc” vô

định, càng nhớ quê càng thẹn cho mình:

遙 憶 家 鄉 千 里 外

澤 車 段 馬 愧 東 鄰

Trang 34

Dao ức gia hương thiên lí ngoại Trạch xa đoạn mã quý đông lân

(Dặm nghìn khắc khoải gia tình,Ngựa còm xe nhỏ, thẹn anh láng giềng.)

(M (Mạ ạ ạn n n h h hứ ứ ứng ng ng I) I)

Xa quê, cô đơn nhìn “xuân về mưa gió” trong đêm khuya không khỏi bùi ngùi,

đau xót, người lữ khách chỉ biết âm thầm quặn thắt những cơn đau:

Căn bệnh luôn bên mình để xuân đến chẳng chút cảm nhận chỉ thấy nhớ quêthấy đau lòng Có lúc nhà thơ gửi gắm tấm lòng nhớ quê cho người bạn để hơi ấm đóđược về nơi thiêng liêng của nó, những đêm trăng quê gợi lên tình yêu nỗi nhớ của nhàthơ, trăng ở quê sáng và nhớ quê nhà thơ nhớ đến cái thú chơi trăng ngày nào

Nỗi u uất, khát khao trở về quê cũ như một hi vọng của người đau yếu cần dùngthuốc,“du khách” mệt mỏi muốn yên ổn nhưng thật khó Người ấy không nhà vì loạn

lạc triền miên, người ấy chẳng phải anh hùng để xông pha ra trận địa và con người chỉ

có thể gửi tấm lòng với nước non, âm thầm và tự hổ thẹn với bản thân:

Trang 35

Đoản kiếm nhìn thêm thẹn chí trai.)

(T (Tạ ạ ạp p p ng ng ngâ â âm) m)

Hổ thẹn chưa làm nên công nghiệp gì, hổ thẹn vì làm trai ôm thanh kiếm màkhông giúp gì được quê hương, xa quê giữa buổi loạn li, nhớ anh em gia đình mà chânkhông thể về chỉ biết“tuôn trào lệ”, “nước mắt tuôn rơi” liệu có xoa dịu bớt nỗi lòng

thi sĩ hay càng thêm đau đớn, vằng vặc cho bản thân, ra đi bỏ bạn bè người thân ở lạiquê nhà Nguyễn Du luôn canh cánh bên lòng biết bao câu hỏi Nỗi lòng ấy là mộttrong những vấn đề khiến tóc ông chóng bạc khi chỉ ba mươi tuổi:

風 塵 隊 裡 留 皮 骨

客 枕 蕭 蕭 兩 鬢 蓬

Phong trần đội lí lưu bì cốt Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng

(Phong trần còn mảnh xương da,

Bù xù trên gối tóc xòa mái sương.)

(Tr (Trệệệệ kh kh khá á ách) ch)

Kẻ phong trần chỉ còn da bọc xương giữa cuộc đời, mỗi bước đi của ông luôn

có hình ảnh quê hương réo gọi nhưng làm sao về được khi bản thân phải sống như thế,

về quê hương lúc này cũng chẳng còn ai, quay đầu ngoảnh lại nhìn mà xiết bao nỗibuồn:

行 人 回 首 處

無 那 故 鄉 愁

Hành nhân hồi thủ xứ

Vô na cố hương sầu

(Bao chốn khách ngoảnh lại,Càng thêm nhớ quê nhà.)

(T (Tá á áiiii du du du Tam Tam Tam đ đ điiiiệệệệp p p ssssơ ơ ơn) n)

Người khách nhìn trời đất, mắt thâu tóm tất cả những viễn cảnh của thôn quêlàm kẻ đi đường xiết bao nhung nhớ, nhớ về quê hương của mình Qua mỗi nơi là gợi

Trang 36

lên bao nỗi buồn cho tác giả, người khách có biết bao trăn trở trước cuộc đời, trở vềđây nhìn non nước đau lòng vì “Đầu bạc ta lại long đong chốn này”, chốn này là nơi

từng có cảnh sắc tươi đẹp, có đông đúc những con người mà giờ“Lũy xưa bỏ trống, gió tây lạnh lùng”, nhìn thành quách cũ mà lòng đượm buồn người khách phương xa

cảm động vì nhớ cảnh trước kia ở nơi đây nhưng giờ thành lũy chỉ là đống đất hoangkhông người lui tới, người khách lãng du bước bộ hành đi dọc miền đất nước nhưngkhông thể về quê, cảnh cũ gợi lên biết bao nỗi buồn xa xứ Người du khách mong tìmđược một tri âm, tri kỉ, một người thân thuộc, nhưng hoàn toàn không chỉ mình tác giả

và bóng, mình Nguyễn Du với cuộc đời bão táp, đối diện với toàn bộ những đau buồn,vằng xé tâm hồn mình, nỗi niềm nhớ quê bùi ngùi

Ông nhắc những người xưa như chàng Trang, dù xa quê đến lúc ốm đau vẫnluôn ngâm tiếng Việt“Chàng Trang tiếng Việt ốm còn ngâm” Nghĩ thân mình đã già

mà còn chưa về được quê hương, càng thấm thía việc làm của người xưa, thấu hiểu nỗiđau xa quê Người đi tìm cõi hư không, đi tìm về chân trời nào đó nhưng chân trời ởđâu không ai biết chỉ thấy rất xa, chỉ thấy nước mắt rơi khi nhìn về hướng quê hương,thấy người đưa tiễn nhìn theo mình nước mắt rơi:

((((Độ Độ Độ long long long vvvvĩĩĩĩ giang) giang)

Người ra đi thương nhớ, kẻ ở lại lệ đầm, chia tay không bao giờ vui, chỉ là mộtchuyến đi nhưng nhớ quê da diết, hẹn ngày trở về để người ở lại khỏi chờ mong, chiatay còn bao điều tiếc nuối chưa bày tỏ, có cơ hội về không, không ai biết, chỉ lúc nàythấy yêu thương và quý trọng quê hương và người thân hơn

Một mình, chỉ một mình tác giả, cô đơn, lẻ loi nhớ quê nhà với mái tóc bạc bơphờ Ánh trăng trở thành người bạn nhưng tháng xa quê của nhà thơ lúc con người ấythấy buồn ánh trăng trở thành nguồn an ủi tin cậy:

Trang 37

窮 途 憐 汝 遙 相 見

海 角 天 涯 三 十 年

Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến Hải giác thiên nhai tam thập niên

(Đường cùng còn có trăng soi đến,

Ba chục năm qua khắp bể trời)

(Qu (Quỳỳỳỳnh nh nh H H Hả ả ảiiii nguy nguy nguyêêêên n n ti ti tiêêêêu) u)

Nhà thơ như muốn rơi lệ trước ánh trăng kia vì cảm động, vì thương mình, đôilúc ông hỏi“Trăng sáng đầy trời, sao thế mãi” rồi cũng một tựa đề ấy trong bài số hai

ông lại hỏi rằng:“Cánh hồng thăm thẳm nhà đâu tá” ai trả lời giúp ông điều ấy, trăng

làm sao cất tiếng nói cùng tri âm của nó, chỉ có thể âm thầm bầu bạn, người bạn nhiềutâm sự của nó Nguyễn Du buồn vì xa quê hương, buồn vì nhớ quê đôi khi ông cố nhìnmột hướng nào đó để tìm quê hương mình, rán mắt nhìn nhưng:

極 目 鄉 關 在 何 處

征 鴻 數 點 白 雲 邊

Cục mục hương quan tạ hà xứ?

Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên

(Quê hương trong tít mù xa,Bên làn mây bạc vài ba cánh hồng.)

(Thanh (Thanh quy quy quyếếếếtttt giang giang giang vvvvã ã ãn n n thi thi thiếếếếu) u)

Sự mù mờ, xa tít tắp làm cho người ta không còn dám hi vọng, dám ước mơnhìn thấy quê hương cố rán gượng nhìn chỉ thấy những cánh chim hồng là một vàichấm nhỏ thì làm sao thấy quê hương Càng trông càng xa, càng trông càng vô vọng,

sự vô vọng ấy làm ông càng yêu quê Bằng cách thể hiện tình cảm rất riêng của mình,nhà thơ đã đem đến biết bao cảm xúc, tâm trạng cho người đọc Từ quê nhà Quỳnh Côiđến chân núi Hồng những nơi ấy nhà thơ từng sống, từng ôm ấp giấc mộng tráng sĩ,từng trải qua nhiều biến cố, nhưng ông giờ chỉ như “ngọn cỏ bồng lìa gốc” không

định được số phận mình cứ phải xa quê, phải xa những người yêu thương vì cuộcsống

Trang 38

Cho đến lúc làm quan ông vẫn không quên quê mình, vẫn nhớ quê dào dạt Tâmtình kẻ lữ khách ấy ai thấu hiểu, chỉ biết rất buồn và Nguyễn Du tự dồn nén nó vàomột góc để tự ôm lấy, tự đau khổ vì giữa trời đất“tri kỉ trước sau mấy người” làm sao

ai hiểu nhà thơ chứ, hơn thế đây là thế kỉ XVIII, là thời buổi loạn li

Nguyễn Du không thể thà coi như không biết, không hay gì, vì quê hương lúcnày là chỗ dựa vững chắc nhất, quê hương trong Nguyễn Du có cái gì đó nhẹ nhàng vàgiản dị như ánh trăng trong đêm, như buổi bình minh hồng

Giang Nam viết về quê hương:

Tuổi còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trên sách nhỏ.

Quê hương dù là ai đi xa cũng nhớ Quê hương gắn liền với những gì thân thuộc

từ thuở ấu thơ, quê hương là không gian mênh mông và luôn trào đầy tình cảm, là nơinhững người thân thuộc luôn hằng ngày ghé mắt trông người phương xa khi nào về.Nhớ quê là một trong những nội dung tâp thơ này, ở đây nó được xem như một trongnhững lí do quan trọng trong suy nghĩ, tâm trạng của nhà thơ Khúc ca của kẻ hànhkhất ấy luôn ngân nga cho những con người xa quê hướng về quê hương

2.2.3

2.2.3 S S Sự ự ự th th thô ô ông ng ng ccccả ả ảm, m, m, th th thấ ấ ấu u u hi hi hiểểểểu u u ssssố ố ố ph ph phậ ậ ận n n con con con ng ng ngườ ườ ườiiii ttttà à àiiii hoa hoa

Tâm trạng của một người cô liêu không ai hiểu, dồn nén cuộc đời, số phận vàomột nơi nào đó, Nguyễn Du – con người đầy tâm sự ấy thấu hiểu nỗi niềm của biết baongười Đặt mình vào thân phận người khác để rồi suy tư, trăn trở cuộc đời họ, Nguyễn

Du phải chăng là một khách đa tình Nhà thơ nhìn đời bằng con mắt cảm thông, chia sẻ,thấy được cái khổ của người khác, hiểu được nỗi đau của kẻ khác

Trong cuộc đời mình ông chưa lần nào thấy mình khổ nhất thế gian dù cuộcsống của ông rất khó khăn nhưng ông vẫn nghĩ đến những người khổ hơn mình Đặcbiệt, ông quan tâm đến những số phận tài hoa bị khinh rẻ

Trong số những người ông quan tâm, điều duy nhất khác với các nhà thơ khác,ông không chỉ quan tâm thông cảm cho những anh hùng, những kẻ sĩ, mà còn quantâm hơn ai hết số phận của những người ca kĩ Trong bàiĐiếu La thành giả ca ông kể

về cuộc đời ca nữ đất thành, sau khi chết đi chẳng được ai nhớ tới chỉ để lại tiếng giótrăng, lúc sống người ta thích nghe cô hát, còn sắc đẹp của con “Sắc đẹp màu xuân

Trang 39

nức sáu thành” để rồi chết đi tạo nghiệp phấn son Ông như người bạn tri kỉ thấu hiểu

nỗi lòng người chết, tự đặt ra câu hỏi“Cõi thế ai thương người bạc mệnh?” không ai

thương, không ai nhắc đến ca nữ ấy vì cô làm cái nghề dơ bẩn chỉ Nguyễn Du hiểuđược nỗi đau của người con gái ấy Ở một tập thơ khác nhà thơ cũng nói về người ca kĩtên Cầm, cô Cầm ngày xưa là giai nhân nhưng giờ “Quen mà hóa lạ nghĩ càng thêm thương” Cô Cầm cũng là người tài hoa nhưng giờ thì ngồi một góc chẳng ai đoái hoài,

đó là cách xử thế, đối nhân của người khi cô không còn xinh đẹp như trước, nghề bánphấn buôn hương, bị chà đạp ấy chỉ cốt làm vui cho kẻ khác để nuôi thân nhưng giờnuôi thân cũng không nổi, xã hội ấy nhìn người thật nhỏ bé Nguyễn Du hay nhắc đếnngười tài hoa bạc mệnh như nàng Kiều trong Truyện Kiều là một minh chứng Trong Truyện Kiều Nguyễn Du tả nhan sắc của nàng Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Để rồi nhận ra:

Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần

Trời cho cái tài sắc cũng cho tai họa cạnh kề Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ viết

về nàng Tiểu Thanh, một cô gái tài sắc lấy một thương gia họ Phùng Vợ cả đánh ghenbắt nàng buộc nàng sống riêng ở một ngôi nhà trên núi, Tiểu Thanh chết đau khổ khituổi mới mười tám, nàng chết mà tập thơ còn phải bị đốt sạch Trên đường đi sứNguyễn Du đã viếng mộ nàng và đọc được dư cảo của nàng Mở đầu bài thơ nhà thơthương tiếc cảnh:

Trang 40

Cảnh xưa hoang tàn, chỉ nhuốm màu đau thương tang tóc, du khách thông cảmngười giai nhân bạc mệnh, cái mệnh son phấn đã khổ mà cái mệnh văn chương cũngkhổ, nỗi oan ức đó ai hiểu cho, Nguyễn Du vừa thương người giai nhân vừa thươngbản thân mình, tự hỏi:

Trong bài Khổng tước vũ ông nói đến con chim công có vẻ ngoài hào nhoáng

đẹp đẽ mà lòng nhiều độc ác, cái vẻ ngoài che giấu sự xấu xa như những con ngườiđang sống cùng ông, làm việc cùng ông chỉ cần đụng vào có thể chết đi vì độc của nó,vậy mà người ta luôn khen dáng dấp điệu bộ của nó rất đẹp, ông thì không vậy, ngượclại, ông thương cho số con“hạc biển” nó cũng biết múa và cũng múa đẹp mà không vì

bộ lông, nó đẹp bên trong nhưng không ai để ý, nhà thơ tự nói với mình tự đồng cảmgiữa mình và con hạc biển không có bề ngoài hào nhoáng nhưng có tâm hồn cao khiết

Nguyễn Du dường như là người sinh ra để làm bạn với những con người tài hoađau khổ, thậm chí với những con vật, xấu số, ông thấy được bản thân mình nói đó, ôngcũng là người tài giỏi và cũng khổ sở tháng ngày Kẻ tài hoa thường bạc mệnh, càngtài hoa thì cuộc đời càng gian truân, như Nguyễn Du ngay từ đầu cái chí nam nhikhông thực hiện được nhà thơ đã rất hụt hẫng “Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn” chẳng làm gì được và dù ông có tài thơ phú nhưng chẳng giúp được gì trong

những năm tháng khó khăn, vất vả, nỗi đau đời luôn âm ỉ trong lòng không sao nguôingoai

Người tài hoa thường mắc nghiệp chướng và hình như họ sống là để trả nợ

Từ khóa » Tìm Hiểu Về Thanh Hiên Thi Tập