THẾ NÀO LÀ GÌN LUẬT LỆ CAO ĐÀI? Phạm Thành Tín Khi nhập môn cầu Đạo, mỗi tín đồ Cao Đài đều phải lập một lời minh thệ. Trong lời Minh thệ 36 chữ, có một ý cần tìm hiểu: “…Gìn Luật Lệ Cao Đài..”.Cósự bất nhất trong việc hiểu và thi hành lời hứa này. Tôi xin mạng phép tìm hiểu nội dung như sau: Đạo Cao Đài của Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế có Pháp, Luật và Lệ. Pháp có Pháp Chánh Truyền, Đạo Nghị Định. Luật có Tân Luật và Đạo luật. Còn Lệ là những văn bản dưới Luật, tức là các văn bản của Hội Thánh được ban hành đúng thủ tục của P.C.T Ai cũng hiểu hệ thống luật pháp ( dù của Đạo hay của đời cũng vậy) theo thứ tự từ cao đến thấp là Pháp xuống Luật rồi đến Lệ. Pháp và Luật ta phải cúi đầu chấp hành là đương nhiên. Chỉ còn Lệ. Lệ theo lẽ thường, có thể được hiểu là tập quán phong tục hoặc hoàn cảnh từng địa phương mà có những cái lệ riêng. Lệ có thể thay đổi theo từng nơi theo thói quen của dân gian. Lệ của các địa phương có khi không thống nhứt. Do đó mỗi nơi có mỗi nét riêng biệt. Sự riêng biệt ấy tạo nên vẻ khác biệt về bên ngoài khiến cho hình Thể của Đạo nơi này nơi kia không giống nhau. Lâu dần, tuy cũng là Đạo Cao Đài nhưng không còn thống nhứt. Đạo Cao Đài được truyền đến thất ức niên, nên không thể để quá nhiều dị biệt khiến hậu thế không còn nhận ra. Vì vậy Hội Thánh ban hành những văn bản hành chánh dưới Luật như Thông Tri, Châu Tri, v.v. để đưa những dị biệt địa phương vào thành một thể thống nhứt. Vì vậy Lệ của Đạo nhứt thiết phải được qui định bằng văn bản cụ thể. Cho nên Lệ của Cao Đài tuy có, nhưng là Lệ thành văn, chớ không có lệ tùy tiện ai muốn gì làm nấy. Những thí dụ cho lệ như sau: 1-Vào thời còn chiến tranh trước 1975, Chánh quyền có ban lịnh giới nghiêm. Sau 9 giờ tối mọi người không được ra ngoài đường để quân đội kiểm soát an ninh cho dễ. Gặp trường hợp cấp cứu thì đã có bệnh nhân cụ thể nên được cho phép đưa đến bệnh viện coi như không phạm giới nghiêm. Trước đó các kỳ đàn vía và sóc-vọng nhựt nơi Tòa Thánh và Thánh Thất địa phương đều cúng thượng sớ tý thời. Khi có lịnh giới nghiêm, tín hữu không được ra ngoài giờ ấy nên Hội Thánh có Thông Tri cho phép cúng và thượng sớ thời ngọ cho dễ dàng. ( rất tiếc không tìm được Thông Tri để chứng minh nhưng ai cũng biết việc này. Chư huynh tỷ nào còn giữ được xin vui lòng bổ sung cho đầy đủ ý nghĩa.) 2-Việc thượng sớ. Vào thời trước, khi Hộ Pháp còn ở quốc nội, Hội Thánh ghi lòng sớ: … Hiện tại Đại Nam Quốc, Long Hồ Trấn, Đồng Tháp Châu, xxx Tộc, xxx Hương. Khi Đức Thượng Sanh về cầm quyền Đạo được sửa lại: Hiện tại Việt Nam Cộng Hòa Quốc, Đồng Tháp Tỉnh, Cao Lãnh Quận, xxx Xã. Khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ Hội Thánh đổi lại: Hiện tại Việt Nam Quốc, xx Trấn, xx Châu, …Tộc… v.v. Tất các thay đổi này đều được Hội Thánh ban hành Thông Trichỉ dạy rõ mới được thi hành. Không một ai được tự tiện sửa đổi lòng sớ khi chưa có văn bản của Hội Thánh. Vì vậy Thông Tri là văn bản chánh thức của Hội Thánh được gọi là “lệ” thành văn. Thông Tri số 1/TT của Hội Thánh có PHÊ KIẾN của Đức Thượng Sanh đã chỉ rõ việc thay đổi lòng sớ phải có Hội Thánh chỉ dạy : 3)- Sau Đạo Lịnh 01 năm 1979 hành chánh đạo bị giải thể nên tất cả các văn bản từ trước đến 1979 đều còn nguyên giá trị. Sau năm 1979 Hành Chánh Đạo không còn nên không một cơ quan nào đủ tư cách ban hành các Thông Tri hay Châu Tri, Thông Báomới v.v. Những thay đổi các nghi thức thông lệ sau ngày Đạo Lịnh 01 ra đời đều không có giá trị pháp lý nên không thể thi hành. Pháp Chánh Truyền có dạy như sau: PCT: “ba ấn phải có trên mỗi luật mới đậng thi hành” (Trích quyền hành Chưởng Pháp trang 30 Pháp Chánh Truyền ấn bản năm 1972) PCT: “Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau; mỗi tờ giấy chi chi phải có ba ấn mới thi hành, nghe à!” (Trích quyền hành Đầu Sư trang 34 Pháp Chánh Truyền ấn bản năm 1972)…. 4)- Việc ghi lòng sớ tuần cửu trước Đạo Lịnh 01, Hội Thánh dạy rõ như sau: (kèm ảnh 2) CUNG VI .Nhứt Cửu chi tuần cố Thông Sự Phan Văn X.(1) niên canhThất thập lục (2)tuế, nguyên sanh tại . . . . . . . . Châu . . . . . . Tộc. . . . . .Hương. Nhập môn . . . . . .niên . . . . . .ngoạt . . . . . . . nhựt tại. . . . . . . .tùng thị Pháp Điều Tam Kỳ Phổ Độ lập công bổi đức. (3) Kim triêu thiên số……. Ghi chú: mục số (1) ghi: Nhứt cửu chi tuần Cố Thông Sự Phan Văn X… (2) sau chữ niên canh ghi: Thất thập lục tuế. (3) sau số (3) không ghi gì thêm. Được biết cách thượng sớ tuần cửu tiểu Đaị Tường tại Tòa Thánh không thể áp dụng đem về Thánh Thất hay tại gia được. Vì Mỗi Ngày tại Tòa Thánh có rất nhiều Cửu và Tiểu Đại Tường. Nên Hội Thánh (Lễ Viện) ngoài Chức Sắc Đại Thiên Phong tất cả đều ghi gộp thành danh sách trong đó chỉ ghiphẩm vị họ tên (hoặc thánh danh) và số tuổi mà thôi, không ghi nơi sinh, cả ngày nhập môn cũng không ghi. Những ai có đi cúng tại Tòa Thánh thời ngọ trước đây đều biết việc này. 5)- Đến năm Tân Mùi 1991, Ông Phối Sư Thượng Thơ Thanh Hội Trưởng HĐCQ có ban hành một văn bản qui định việc ghi lòng sớ (Tân Cố, Tuần Cửu, Tiểu Đại Tường). Văn bản này của HĐCQ sau được cụ thể hóa ra thành quyển Tài liệu THỰC HÀNH NGHI TIẾT CÚNG LỄ CỦA ĐẠOcủa HĐCQ ban hành năm 1991 (Gọi Tắt Là Nghi Lễ 1991) (xem hình bên dưới): “Một đoạn trong sớ Tuần Cửu: Cung vi:….. chi tuần….. (Tánh)…..niên canh…..tuế”. Tùng thị Pháp Điều Tam Kỳ Phổ Độ lập công bồi đức…. -Cách điền vào như sau thí dụ: a)- Nếu là chức sắc: CUNG VI: Nhứt Cửu chi tuần, Phan Văn X… (tánh), Tân-Mùi (năm sanh của đương sự) niên canh, lục-thập nhứt tuế. Nguyên sanh tại Tây Ninh Tỉnh, Trảng-Bàng Huyện, Lộc-Hưng xã. Nhập môn ất Dậu niên, thất ngoạt, nhị thập nhựt tại Lộc Hưng Thánh Thất, tùng thị Pháp Điều TAM KỲ PHỔ ĐỘ lập công bồi đức thọ Thiên Ân L/s Thượng X.. Thanh. b)- Nếu là Chức Việc: Cung vi nhứt cửu chi tuần, Phan Văn X… (tánh), Tân-Mùi (năm sanh của đương sự) niên canh, lục-thập nhứt tuế. Nguyên sanh tại Tây Ninh Tỉnh, Trảng-Bàng Huyện, Lộc-Hưng xã. Nhập môn ất Dậu niên, thất ngoạt, nhị thập nhựt tại Lộc Hưng Thánh Thất, tùng thị Pháp Điều TAM KỲ PHỔ ĐỘ lập công bồi đức thọ phẩm Chánh Trị Sự. c)- Nếu là Đạo hữu thì sau chữ lập công bồi đức là dứt (không ghi thêm chi nữa). d)- Nếu không biết năm sanh thì bỏ luôn chữ niên canh không đọc.(hết trích) Trên đây là cách ghi lòng sớ do Hội Đồng Chưởng Quản thay đổi và hướng dẫn. Dĩ nhiên văn thơ này không có đủ Hội Thánh ban hành theo quy định của Pháp Chánh Truyền nên không có giá trị chấp hành. Vừa qua có dịp đi dự một lễ Đại Tường nơi Thánh Địa doChức việc Bàn Tri Sự hành lễ. Tôi chú ý nghe thấy lòng sớ được đọc giống như văn thư của Hội Trưởng HĐCQ chỉ dẫn năm 1991. (mục 5 kể trên) Riêng sau số (3) còn có ghi thêm câu “Giải quả tiền khiên”. Khi xong lễ, tôi có hỏi thăm một vị chức việc: Sao lòng sớ ở đây ghi lạ quá? Huynh ấy trả lời. Mỗi Hương Đạo có cách ghi sớ riêng, Hương Đạo của tôi không ghi như vây, mà ghi theo cách dạy của Hội Thánh ( như mục 4). Nhận xét thay cho lời kết: Việc ghi lòng sớ của Hội Thánh dạy đã quá lâu, hơn 40 năm trước. Các chức việc củ bấy giờ đa phần đã qua đời. Có một số nơi không biết ghi thế nào nên lấy văn thơ của HĐCQ dạy mà ghi theo. Từ năm 1991 HĐCQ chưa lập phàm giáo, mãi đến năm 1997 mới có Hiến Chương thay đổi . Thời gian 6 năm (1991-1997). Đồng Đạo vẫn ung dung tin tưởng tuy mang danh HĐCQ nhưng cũng là cơ quan thường trực Hội Thánh ban hành. Vì sự không thống nhứt cách ghi lòng sớ giửa các Ban Tri Sự do lâu ngày không có Chức Sắc thượng quyền chỉ dẫn. Dần dà thành thói quen, nên vô tình áp dụng cách ghi của HĐCQ mà không hay, dù thâm tâm là không bao giờ phục tùng Đạo Cao Đài ngoài giáo pháp chơn truyền. Anh em sau này thường hay bình luận lòng sớ đúng sai: của Hội Đồng, không phải của Hội Đồng v.v. khiến tình cảm không còn nguyên vẹn như xưa. Xin thưa thêm, ở cấp Hương Đạo nhiều khi không còn lưu trử được các văn thơ củ, có thể tham khảo cách dạy của Phối Sư Thượng Thơ Thanh (ảnh 3) xem ra chúng ta đã vô tình ghi theo như vậy? Thiết tưởng đây là chuyện nhỏ có thể dung hòa mau chóng và dễ dàng. Nếu xét theo khungthập hình của của Đức Lý Giáo Tông thì các Ban Tri Sự này không phạm Pháp cũng không phạm Luật Đạo. Tấm lòng trung thành các Huynh Tỷ đã có tràn đầy. Đó là cái quý giá mà các huynh đã tận tụy gìn giữ luật pháp Đạo, không tùng Phàm giáo hay Tả Đạo Bàng Môn. Giả sử như có phạm một trong thập hình thì cũng chỉ do người trước truyền lại cho người sau mà thôi. Các vị đương quyền hành chánh ấy thử nghiên cứu nơi nào có điều kiện điều chỉnh thì nên đả thông cho Bàn Tri Sự được biết trước để tránh bất đồng tâm lý. Nếu không thể thì sẽ tự mình trả lời và chịu trách nhiệm trước Thiêng Liêng và Hộ Pháp. Chúng ta không nên áp lực cho họ thay đổi làm cho tình hình địa phương rất có thể bị rối loạn. Ta là liên-hương nên nhiệt tình hổ trợ cho Bàn Tri Sự Hội Thánh Em nơi ấy hoàn thành nhiệm vụ. Tình đoàn kết là trên hết. Nay Kính. Miền Tây Nam Việt , ngày 30tháng 10năm Dinh Dậu Cựu CTS Hội Thánh Em Phạm Thành Tín |