Quá Trình đổi Mới Nhận Thức Của Đảng Ta Trong Việc Giải Quyết
Có thể bạn quan tâm
11:30 24/05/2021
Lịch sử loài người đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, từ trình độ thấp lên trình độ cao, với nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều đặc trưng bởi một lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành một phương thức sản xuất nhất định- Trường Chính trị Tôn Đức Thắng tự hào tiếp nối truyền thống, nỗ lực phát triển xứng tầm, quyết tâm xây dựng trường đạt chuẩn
- Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở - Bước tiến mới trong bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân ở nước ta
- Tình hình giảng dạy thực nghiệm tập bài giảng “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển tỉnh An Giang (1986 - 2020)” - Thực trạng và giải pháp
ThS. Lê Hữu Lợi -
Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn tuân theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây chính là hòn đá tảng trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng chính là quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã được trình bày trong nhiều tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đó, tập trung nhất ở Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học, Lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Bộ tư bản và nhiều tác phẩm khác. Quy luật này đã được V.Lênin vận dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh nước Nga giai đoạn đầu sau cách mạng tháng Mười Nga 1917, chủ yếu trong “Chính sách kinh tế mới (NEP) năm 1921”. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo trong điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ khi có Đảng lãnh đạo, việc hiểu rõ và nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất góp phần quan trọng cho Đảng trong việc đề ra đường lối, chủ trương, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Việc vận dụng quy luật là một quá trình nhận thức, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm và sai lầm. Và cũng chính những sai lầm, khuyết điểm đó, giúp cho Đảng ta ngày càng lớn lên, có những nhận thức đầy đủ hơn, để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc vận dụng quy luật, đem lại những thành tựu nhất định trong xây dựng và phát triển đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của Đảng ta vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta là quá trình bao gồm nhiều thời kỳ khác nhau. Có thể phân chia làm 2 giai đoạn trước và sau đổi mới 1986:
1. Thời kỳ trước đổi mới
Từ sau năm 1954 đến 1975. Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này với đặc điểm một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, vì thế, Đảng chủ trương đẩy mạnh khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sau 3 năm thực hiện (1955-1957) kinh tế miền Bắc có nhiều tiến bộ, tuy nhiên vẫn không thoát khỏi tình cảnh khó khăn. Từ đó, trong những năm tiếp theo, Đảng chủ trương đẩy mạnh hợp tác hoá trong nông nghiệp, lấy kinh tế hợp tác xã làm trọng tâm, mở rộng quy mô hợp tác xã (1966-1975) trong nông nghiệp từ nhỏ đến lớn trong khi trình độ thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật không được đảm bảo, đội ngũ cán bộ quản lý không được đào tạo bài bản, điều này gây trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế trong điều kiện kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có thể thấy, do chưa có kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên trong giai đoạn này, chúng ta tuyệt đối hoá việc cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô cho kinh tế miền Bắc trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, không đáp ứng được nhu cầu cao đó, vì thế không thúc đẩy năng suất lao động phát triển, mặc dù có lúc phù hợp.
Trong những năm 1975 đến 1986. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Đảng ta đã họp Hội nghị Trung ương lần thứ 24 khoá III, tại Hội nghị này đã thừa nhận sự tồn tại của 5 thành phần kinh tế ở miền Nam và 3 thành phần kinh tế ở miền Bắc. Mặc dù chưa phân định rõ ràng các thành phần kinh tế nhưng đây chính là tư tưởng về nền kinh tế nhiều thành phần, song, trong chỉ đạo thực hiện lại không nhất quán thực hiện tư tưởng này trong thực tiễn cải tạo quan hệ sản xuất sau khi giải phóng. Mặc khác, với việc xác lập hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể theo mô hình Liên Xô, xoá bỏ thị trường tự do và sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp mệnh lệnh. Lúc đầu đạt những thành tựu đáng kể trong điều kiện chiến tranh, nhưng trong lòng nó đã chứa đựng những khuyết tật, sai lầm, nảy sinh nhiều tiêu cực cần phải khắc phục, sửa chữa. Việc áp dụng mô hình này sử dụng thống nhất cho cả nước ngày càng đi vào khủng hoảng trầm trọng, đưa đất nước rơi vào tình trạng khó khăn, suy cho cùng nguyên nhân chính là việc xác lập “quan hệ sản xuất” vượt quá xa trình độ phát triển lực lượng sản xuất, không phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời bình.
Trước thực trạng nêu trên, ở một số địa phương đã tự phát tìm kiếm con đường, lối thoát để giải bài toán tư duy kinh tế, hình thức khoán hộ bắt đầu xuất hiện từ Đồ Sơn (Hải Phòng), Vĩnh Lạc (Vĩnh Phú)…, rồi lan dần sang nhiều địa phương khác. Trước tình hình ấy, tháng 8/1979, Ban Chấp hành Trung ương khoá IV đã họp Hội nghị lần thứ 6 và rút ra nhận định: nhiều chủ trương trước đây do Đảng đề ra còn mang nặng tính chủ quan nóng vội, thiếu căn cứ thực tiễn, Trung ương đã đề ra nhiều biện pháp để điều chỉnh như thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận kinh tế hộ như một bộ phận của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa… Hội nghị Trung ương 6 Khóa IV (tháng 8/1979) đã chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới; Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư khoá IV về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp; Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6/1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sản xuất hàng hoá và các quy luật của sản xuất hàng hoá” [6,tr.37-46]; Kết luận của Bộ Chính trị về một số vấn đề lớn thuộc quan điểm kinh tế như: thực hiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung bao cấp, sử dụng đúng quan hệ hàng hoá – tiền tệ... [7, tr.41]. Đây được coi là các “bước đột phá lớn”, một bước thử nghiệm, tìm tòi quan trọng cho công cuộc đổi mới đất nước 1986, cốt yếu vẫn là cải tạo lại quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với trình độ hiện có để khôi phục nền kinh tế, khắc phục khủng hoảng, nâng cao đời sống nhân dân.
2. Thời kỳ từ đổi mới (1986) đến nay
Đại hội lần thứ VI của Đảng là dấu mốc quan trọng đánh dấu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có sự đổi mới nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tại Đại hội lần thứ VI, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, “đã có những biểu hiện nóng vội, muốn xoá bỏ ngay thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh, chú trọng cải tạo mặt sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết vấn đề tổ chức và phân phối”, như vậy, trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thực chất đã tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, từ đó, Đảng đã rút ra bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan” [1, tr.363]… Qua đó, Đại hội VI đề ra 5 mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, trong đó mục tiêu thứ ba là: “xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”, “trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới; trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô mới thích hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển” [1, tr.390-391]. Như vậy, nhìn từ định hướng đường lối, mục tiêu, cho đến nội dung, giải pháp cụ thể phát triển kinh tế - xã hội được nêu tại Đại hội VI, Đảng ta đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng khách quan của quy luật, đánh dấu sự nhận thức mới của Đảng ta về vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, là cơ sở cho việc hoạch định đường lối phát triển đất nước trong những nhiệm kỳ tiếp theo của Đảng.
Đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Đại hội lần thứ VII (1991) đánh giá trong 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, bước đầu đạt một số thành tựu đáng kể, đặc biệt, về đổi mới kinh tế, Đảng khẳng định: “bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” [2, tr.55], trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đưa ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội và xác định lại nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, tuy chưa rõ nhưng chúng ta vẫn kiên quyết xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khi có phần còn “buông lỏng, lúng túng” trong xây dựng quan hệ sản xuất. Như vậy, so với Đại hội VI, tại Đại hội VII, Đảng ta lại có bước tiến mới trong nhận thức về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dù còn có những khuyết điểm, song, “đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp” [2, tr.83], trong đó, phương hướng thứ ba trong bảy phương hướng được trình bày trong Cương lĩnh, Đảng khẳng định, xây dựng quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu...
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996), dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Đảng ta đã xác định nước ta có 5 thành phần kinh tế (thay đổi về xác định quan hệ sở hữu, chế độ sợ hữu): kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Trong đó, lấy kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Với việc nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần theo hướng lâu dài, Đảng chủ trương giải phóng sức sản xuất, tập trung nguồn lực tối đa cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, lấy hiệu quả kinh tế và xã hội, nâng cao đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu cho việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển; nâng cao địa vị của người lao động trong nền kinh tế; đa dạng hoá các hình thức phân phối;…[3, tr.91-96]. Như vậy, nhìn tổng quát, công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng: Công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, mặc dù vậy, chúng ta đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [3, tr.80]. Đây là một nhận định cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc đề ra phương hướng nhiệm vụ sắp tới, đó là nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện cơ cấu kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ IX của Đảng, trên cơ sở tổng kết 15 năm đổi mới, kế thừa thành quả của công cuộc đổi mới, đặc biệt trong việc tiếp tục cải tạo, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục bổ sung thêm 1 thành phần kinh tế trong hệ thống cơ cấu kinh tế của nước ta, đó là “kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài”, mặc dù có không ít những ý kiến trái chiếu, tuy nhiên, xét thực tế khách quan ở Việt Nam, việc tồn tại thành phần kinh tế này là tất yếu cho sự phát triển. Mặt khác, trong Đại hội lần này “nội hàm” “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” đã được làm rõ: “tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” [4, tr.21]. Trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta cũng khẳng định: “…ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”[4, tr.24], mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Về quan hệ sản xuất, Đảng khẳng định, chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) đánh dấu bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991, đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991, xác định 3 đột phá chiến lược: “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ” [5, tr.32]. Đại hội đã bổ sung nhận thức và làm rõ hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề ra mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, đồng thời thực hiện 8 phương hướng cơ bản, trong đó cần giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn, trong đó có việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Kế thừa quan điểm trong Cương lĩnh, tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, tổng kết qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã có sự phân tích rõ ràng về mối quan hệ lớn này: “Trong tiến trình đổi mới kinh tế,..., kịp thời điều chỉnh các mặt cấu thành quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu, các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế để đảm bảo sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm giải phóng và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất” [8, tr. 178-179]. Giải quyết tốt mối quan hệ này cũng như 7 mối quan hệ còn lại góp phần thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiến lên chủ nghĩa xã hội. Qua đó, tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã một lần nữa khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Qua đây, có thể nói, lần này, Đảng ta đã có bước tiến lớn về nhận thức trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với việc tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất, nhận thức rõ ràng hơn về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, trong đó có các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa so với thời kỳ mới bắt đầu công cuộc đổi mới.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021) diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều thay đổi trước sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư, ảnh hưởng của đại dịch toàn cầu Covid – 19 đưa đến những thời cơ và thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Kế thừa, phát triển từ 12 kỳ Đại hội trước, Đại hội lần này, trải qua 35 năm đổi mới, Đảng ta vẫn giữ vững một con đường, một đường lối, Đảng ta vẫn quyết tâm phấn đấu, kiên định vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đặc biệt tiếp tục vận dụng sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đảng khẳng định: “tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [6, tr.39], đây được xem là mối quan hệ lớn, phản ánh quy luật mang tính biện chứng, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đẩy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả, tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện. Nhận thức đúng đắn quy luật này, sẽ góp phần thực hiện được “khát vọng phát triển Việt Nam” từ nay đến năm 2030 (tròn 100 năm thành lập Đảng), đưa nước Việt Nam phát triển hùng cường thịnh và thịnh vượng đến năm 2045 (tròn 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển, thu nhập cao. Và với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng: “đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” [6, tr.25]; diện mạo đất nước thay đổi, tạo ra thế và lực mới để đất nước ta phát triển nhanh, bền vững.
Như vậy, qua mỗi kỳ Đại hội, nhận thức của Đảng luôn có những nét mới. Mỗi bước phát triển của đất nước lại minh chứng cho tính đúng đắn, thể hiện tầm cao trí tuệ của Đảng. Chúng ta có quyền hy vọng về một tương lai xán lạn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta đã nhận thức đúng đắn hơn nội dung tác động của quy luật trong từng điều kiện cụ thể, xác định rõ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở từng thời điểm, không ngừng hoàn thiện chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn thiện quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong việc vận dụng quy luật, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, khó khăn thách thức cần phải vượt qua, tiếp tục nghiên cứu cho những chặng đường tiếp theo.
Tóm lại, có thể nói, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng trong 35 năm qua là quá trình ngày càng nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tế ở Việt Nam khi chúng ta đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Thực tiễn cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng là phù hợp với quy luật khách quan, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Song, thực tế có những thời điểm vẫn chưa được vận dụng, nhận thức rõ ràng cụ thể trong đường lối, chính sách của Đảng, điều này cần phải được tiếp tục nghiên cứu làm rõ, tránh gây nhận thức sai lầm trong nhân dân, bị các phần tử cơ hội lợi dụng gây phản động, ảnh hưởng đến con đường mà chúng ta đang đi – con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47 (1986), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51 (1991), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập I, II), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết lý luận, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
9. Hội đồng Lý luận Trung ương, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2020.
10. Phạm Văn Linh (chủ biên), Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.
Từ khóa » Các Quan Hệ Sản Xuất ở Việt Nam Hiện Nay
-
Mối Quan Hệ Giữa Lực Lượng Sản Xuất Và Quan Hệ Sản Xuất
-
Về Mối Quan Hệ Giữa Phát Triển Lực Lượng Sản Xuất Và Xây Dựng ...
-
Lực Lượng Sản Xuất Và Quan Hệ Sản Xuất ở Việt Nam Hiện Nay
-
Về Việc Hoàn Thiện Quan Hệ Sản Xuất ở Nước Ta Hiện Nay
-
Quan Hệ Sản Xuất Trong Thời Kỳ Quá độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Nước ...
-
Nhận Thức Rõ Hơn Mối Quan Hệ Giữa Lực Lượng Sản Xuất Và Quan Hệ ...
-
Tủ Sách Khoa Học: Biến đổi Của Quan Hệ Sản Xuất ở Việt Nam Hiện Nay
-
[PDF] XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT TIẾN BỘ PHÙ HỢP Ở VIỆT NAM ...
-
Lực Lượng Sản Xuất Và Quan Hệ Sản Xuất Nhìn Từ Quá Trình Công ...
-
Xây Dựng Các Quan Hệ Sản Xuất Tiến Bộ Phù Hợp
-
[PDF] Phán đoán Là Hình Thức Liên Hệ Các Khái Niệm, Phản ánh Mối
-
[PDF] LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ ĐẢM BẢO HÀI HOÀ CÁC QUAN HỆ LỢI
-
Nhận Diện Mối Quan Hệ Ba Bên Giữa Nhà Nước, Thị Trường Và Xã Hội ...
-
Lênin Về Quy Luật Sự Phù Hợp Giữa Quan Hệ Sản Xuất Với Trình độ ...