Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Là Ai? Đền Thờ ở đâu? - Tứ Phủ Thánh Mẫu

MỤC LỤC BÀI VIẾT

Nhiệm vụ của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là Thanh tra, giám sát nhân gian.

Sự tích về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Lịch sử về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Có một số truyền thuyết về gốc tích của ông nhất là qua Ngọc phả Thần tích các đền phủ của Đạo mẫu, đền thờ Ông cũng như qua các bài Văn chầu. Một truyền thuyết tương đối phổ biến và qua Ngọc phả Thần tích đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải động đình gốc tích của ông như sau: Ông là con trai thứ năm của trong một gia đình lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang (nay thuộc Hải Dương) thời Hùng Triều Thập Bát (Hùng Duệ vương). Tuổi tác đã cao mà vợ chồng ông lái đò mà chưa có người nối dõi. Một lần ông bà bắt được bào thiêng trong có một ổ trứng trắng liền mang về nhà. Trải 9 mùa trăng đi qua, vào một ngày trời đầy mưa giông, sấm giật, 9 quả trứng nứt vỏ, 9 con rắn ra đời, ngày tháng thoi đưa, lũ rắn cũng lớn dần lên.

Năm ấy, đất nước có giặc, vua Hùng phải lập đàn khấn cầu các Thần linh giúp sức, lại sai sứ giả đi chiêu tập hiền tài huấn luyện binh nhung. Nghe tiếng loa truyền, 9 rắn hoá thành 9 chàng trai, cùng vào yết kiến nhà vua xin tham gia tiễu trừ quân giặc. 9 anh em nhất hô, bách ứng kéo theo cả thuồng luồng, thuỷ quái ra trận. Chỉ một ngày giặc tan, đất nước trở lại thanh bình. Vua Hùng truyền lệnh phong cho 9 chàng trai là 9 ông Hoàng. Ngày 22 tháng 8 năm Bính Dần, bỗng một vầng hào quang chói loà, 9 chàng trai lại trở thành 9 con rắn trở về với dòng sông Tam Kỳ. Từ đó dân làng truy ơn lập 9 ngôi đền thờ các dũng tướng đã giúp vua trừ giặc ở dọc hai bờ sông, từ bến đò Tranh đến tận cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng là nơi thờ người cha chèo đò trên bến sông thuở ấy, với duệ hiệu Trấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải động đình gọi nôm là vua cha Bát Hải.

Nỗi oan Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Một truyền thuyết khác kể rằng: Ông là con trai thứ năm của vua cha Bát hải Động đình. Ông là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp là vợ lẽ của một viên quan, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh chồng chung, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Ông vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, vu cho ông đã quyến rũ vợ mình. Ông bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, để chứng tỏ mình vô tội, ông nhảy xuống dòng sông Kì Cùng mong rửa oan. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Đến khi viên quan phủ biết chuyện ông bà nông lão mua gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và đòi giết chết đôi bạch xà. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.

Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Nam Việt ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là ai? Đền thờ ở đâu?

Tượng thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Trong Đạo mẫu, Tam phủ, Tứ phủ thì thờ Phụ Vương Đại Thánh Lạc Long Quân cai quản Thủy phủ (Thoải Phủ) với vai trò là vua cha tức vua cha Bát hải Long vương (Thoải Phủ) hay Bát hải Động đình vương (Hồ Động Đình ở sông Dương Tử nay thuộc Trung Quốc). Nên Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh chính là con trai của vua Lạc Long quân.

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ.

Quan Tuần Tranh có ngự đồng không?

Trong các buổi lễ Mẫu – Tam tứ phủ, Ông Lớn Tuần Tranh đều giáng ngự đồng. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.

Đền thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Quan Tuần Tranh được thờ ở rất nhiều nơi, trong tất cả các đền, phủ, điện mẫu – Tam Tứ phủ nhưng đền chính là đền Tranh – Hải Dương và đền Kì Cùng – Lạng Sơn. Đền Ninh Giang lập bên bến sông Tranh ở xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn nay thuộc thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng ở xã Vĩnh Trại – Châu Thoát Lãng, nay thuộc thành phố Lạng Sơn (cầu Kì Lừa là nơi ông bị lưu đày).

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là ai? Đền thờ ở đâu?

Đề thờ Quan Tuần Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương

Ngày tiệc Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Hội đền Tranh là ngày mở tiệc đón, ngày Đản sinh (ngày 14/02 Âm lịch) từ ngày 10 đến 20/2, ngày tiệc chính của Ông là ngày Hóa (ngày 25/5 Âm lịch) từ ngày 20 đến 26/5 (là ngày ông bị lưu đày và nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này).

Bản văn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Đệ tử con khấu đầu cung thủ

Tiến văn chầu đệ ngũ tuần tranh

Uy gia lẫm liệt tung hoành

Trừ tà sát quỷ lên danh tướng tài

Việt sử chép Hùng triều thập bát

Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu

Dựng nền xã tắc dài lâu

Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn

Vừa gặp hội bể yên sóng lặng

Triệu bách thần gia tặng phong công

Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng

Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu

Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ

Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh

Bao phen đắp luỹ xây thành

Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng

Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,

Non nước còn ghi trận tung hoành,

Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,

Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.

Ai về qua bến sông Tranh,

Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.

Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,

Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.

Loa đồng hỏi nước sông Tranh,

Long đao cứu nước, anh hùng là ai?

Sông Tranh đáp tiếng trả lời,

Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang

Tài cung kiếm sánh cùng võ tử

Đức kinh luân ví tựa Trương Tô

Phong lưu mã thượng giang hồ

Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông

Chí đã quyết ngoài vòng cương toả

Hay đâu là duyên nợ ba sinh

Buồng xuân thiếu bạn chung tình

Thoả lòng tráng sĩ tài anh phỉ nguyền

Thề non nước nên duyên kì ngộ

Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên

Tin đâu khẩn cấp ban truyền

Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh

Có ngờ đâu đất trời thay đổi,

Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.

Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng

Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân

Trước cung điện, triều đình tra xét,

Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.

Ngài oan vì ong bướm lả lơi,

Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.

Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,

Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.

Hoàng bào đã nhuôm chàm xanh

Tấm thân đành nhục vinh lẽ thường

Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ

Hỏi trăng già có tỏ cho ai

Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời

Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu

Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,

Vẫn vươn mình há ngại phong ba.

Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,

Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng

Thà thác vinh còn hơn sống nhục,

Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn

Kiệt cùng hiu hắt trăng non

Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng

Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt

Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong

Lòng riêng đã quyết với lòng

Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời

Rừng hoa cỏ thương người đã khuất

Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa

Nỗi oan chuyển động đất trời

Dây oan kia biến thành đôi bạch xà

Đất Ninh Giang tìm nhà có phúc

Thử lòng người trong lúc lánh thân

Tháng hai vừa tiết trung tuần

Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay

Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ

Đôi bạch xà tựa cửa hai bên

Long xà kì dị thảo hiền

Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà

Ba tháng sau đàn gà đã hết

Thương rắn hiền không biết lo sao

Khó Khăn âu cũng tính liều

Ông bà nông lão sớm chiều đông tây

Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi

Hai ông bà mắc tội cửa công

Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng

Tậu gà nuôi rắn không dung tội này

Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể

Thương rắn thần tựa thể thương con

Khấu đầu tạ trước công môn

Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng

Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy

Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông

Long xà thoát xuống thuỷ cung

Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan

Khắp duyên hải sấm ran từ đấy

Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi

những phường bán nước hại nòi

Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha

Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc

Tội gia hình bõ lúc sai ngoa

Lẽ thường tội báo oan gia

hại nhân nhân hại sự đà không sai

Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,

Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,

Triều đình ra lệnh tiến binh,

Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.

Bỗng nổi trận phong lôi bão táp

Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh

Hỏi ra mới biết sự tình

Thiết bày hương án lễ trình bên sông

Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm

Khấn vừa xong gió lặng sóng yên

Uy linh sự đã hiển nhiên

lệnh truyền dân xã lập đèn bên sông

Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,

Tước phong hầu truy tặng Đại vương,

Bảng vàng thánh thọ vô cương

Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.

Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,

Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,

Bao phen đắp luỹ xây thành,

Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.

Xuân Hinh hầu đồng Quan Lớn Tuần Tranh – Khắc Tư và Thanh Long hát văn

Xuân Hinh hát văn Quan Đệ Ngũ

Từ khóa » Căn ông Quan Lớn Tuần Tranh