Quyền Lực Là Gì? Quyền Lực Xã Hội Và Quyền Lực Nhà Nước?

Mục lục bài viết

  • 1 1. Quyền lực là gì? 
  • 2 2. Quyền lực có những đặc trưng dễ nhận thấy như sau:
  • 3 3. Nội dung quyền lực xã hội:
  • 4 4. Nội dung quyền lực nhà nước:

1. Quyền lực là gì? 

Quyền lực được xem là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình. Quyền lực sinh ra từ nhu cầu tổ chức hoạt động chung, nhu cầu phân công lao động xã hội và quản lí xã hội. Quyền lực là điều kiện và phương tiện cần thiết khách quan bảo đảm sự hoạt động bình thường của bất kì cộng đồng xã hội nào.

Quyền lực thể hiện mối quan hệ chỉ huy – lệ thuộc hoặc mệnh lệnh – phục tùng. Quyền lực thể hiện ở sự áp đặt ý chí của chủ thể có quyền đối với chủ thể dưới quyền, mặt khác, sức mạnh của nó được xác định ở mức độ phụ thuộc, phục tùng của chủ thể dưới quyền đối với ý chí chủ thể có quyền. Trong đó cưỡng chế vừa là yếu tố của nội dung quyền lực vừa là phương pháp mang tính quyết định để thực hiện quyền lực có sự kết hợp chặt chẽ với phương pháp thuyết phục.

Quyền lực tồn tại ở mọi cộng đồng có tổ chức, có mục đích của con người trong xã hội có giai cấp cũng như xã hội không có giai cấp, đối với cả xã hội nói chung cũng như đối với các bộ phận khác nhau của nó.

Do vậy, trong xã hội tồn tại nhiều loại quyền lực khác nhau như quyền lực thị tộc, quyền lực nhà nước, quyền lực của mỗi tổ chức trong xã hội… Mỗi chủ thể thường nằm trong nhiều mối quan hệ quyền lực khác nhau. Trong quan hệ quyền lực này chủ thể là người có quyền lực nhưng trong quan hệ quyền lực khác chủ thể lại có thể là người dưới quyền. Quyền lực có quan hệ mật thiết với hoạt động quản lí, nó là điều kiện không thể thiếu của quản lí để bảo đảm sự thống nhất ý chí của nhiều cá nhân nhằm thực hiện những công việc chung.

Quyền lực, được miêu tả theo khía cạnh khoa học xã hội, một mặt là khả năng gây ảnh hưởng của một người hoặc một nhóm người đến hành vi và suy nghĩ của các cá nhân, các nhóm người khác với ý nghĩa là “quyền lực”; mặt khác, nó đại diện cho một vị trí của cá nhân hoặc nhóm người, là khả năng đạt được mục tiêu xác định một cách đơn phương, không chịu sự kiểm soát, áp đặt, hay phải đáp ứng các điều kiện và đòi hỏi của các cá nhân hoặc nhóm người khác (ví dụ như: quyền con người). Vế sau được hiểu theo tính pháp lý với ý nghĩa là “thẩm quyền”, “quyền lợi” của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những chủ thể tham gia trong xã hội (khế ước xã hội).

Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn của các “khả năng hành động, gây ảnh hưởng” cả về thể chất lẫn tinh thần của một người hoặc một nhóm người. Việc sử dụng thứ sức mạnh này để gây ảnh hưởng đến cá nhân, nhóm người khác, có thể mang theo những ý nghĩa tích cực cũng như tiêu cực, dựa trên mục đích, nguyên tắc, cách thức sử dụng chúng. Cần phân biệt việc “lạm quyền” và việc “vi phạm giới hạn quyền lực”. Lạm dụng quyền lực là việc sử dụng quyền lực mà không tuân theo những mục đích quy định cho sự tồn tại của quyền lực. Việc vượt quá phạm vi giới hạn quyền lực là việc không tuân theo những nguyên tắc, cách thức được quy định sẵn trong quá trình sử dụng quyền lực.

2. Quyền lực có những đặc trưng dễ nhận thấy như sau:

– Tính tương tác xã hội: Quyền lực đòi hỏi sự tương tác ít nhất của hai chủ thể, tức quyền lực là một quan hệ xã hội. Quyền lực là quá trình tương tác và sẽ không tồn tại cho đến khi nó được thể hiện thành các hành động tương tác của từ hai chủ thể trở lên.

– Tính mục đích: Sự tác động đến chủ thể khác luôn có chú ý cho dù kết quả như thế nào đi chăng nữa. Tính mục đích giúp phân biệt quan hệ của quyền lực (một chiều, có mục đích, có hiệu lực) với sự ảnh hưởng nói chung (hai chiều, không có chủ đích, không chắc chắn và hiệu lực) dù chúng có thể có chung hình thức thể hiện.

– Tính cưỡng ép: Quan hệ quyền lực luôn dựa trên năng lực cưỡng ép (thưởng – phạt) đi kèm, đủ lớn để vượt qua sự chống đối. Đặc trưng này được coi là căn bản vì nó phân biệt quyền lực với các mối quan hệ xã hội có tính mục đích khác như thuyết phục, lừa đảo, dụ dỗ…

– Tính chính đáng: Tính chính đáng bao gồm: tính công ích, tính hợp lệ trong cách thức đạt quyền lực và sử dụng quyền lực đúng mục đích và hiệu quả. Tính cưỡng ép của quyền lực dù có lớn đến đâu cũng chưa đảm bảo hoàn toàn kết quả cuối cùng đạt được theo đúng mục đích vì phụ thuộc vào tính chống đối của chủ thể bị chi phối. Do đó, quyền lực cần có tính chính đáng, được thể hiện ở quá trình và phương thức thuyết phục bằng lý lẽ và lương tri.

3. Nội dung quyền lực xã hội:

Quyền lực xã hội (tiếng anh là Social power) là một dạng quan hệ xã hội theo chiều dọc biểu hiện ở khả năng một cá nhân hoặc nhóm điều khiển hành vi, thái độ, quan điểm của cá nhân khác, nhóm khác. Chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực xã hội có thể là một cá nhân, một nhóm xã hội hay một cộng đồng, một xã hội. Thực chất, quyền lực chính là việc giới hạn đồng thời mở rộng mức độ tự do của các chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực.

Những yếu tố tạo tạo ra quan hệ quyền lực xã hội?, khi các cá nhân hoàn toàn xa lạ lần đầu tương tác với nhau thì quan hệ đó chưa có quan hệ quyền lực. Khi quan hệ xã hội giữa các cá nhân này xác lập thì quan hệ quyền lực mới xuất hiện. Theo quan điểm của Karl Marx (1818-1883) thì nguồn gốc của sự bất bình đẳng xã hội chính là việc sở hữu hay không sở hữu tư liệu sản xuất. Chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự phân chia quyền lực trong xã hội, mà ở đó người chiếm hữu tư liệu sản xuất là người có quyền lực điều chỉnh hành vi và cơ hội của người không có tư liệu sản xuất. Max Weber cho rằng quyền lực không chỉ có nguồn gốc là kinh tế mà còn có từ nhiều yếu tố phi kinh tế khác nữa (gia đình, học vấn, tôn giáo, uy tín,…). Trong các dạng quyền lực xã hội, quyền lực quan trọng nhất là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thường được các cơ quan của chính phủ thực hiện.

Talcott Parsons thì cho rằng nguồn gốc của quyền lực nằm ở vị thế của một cấu trúc xã hội. Cấu trúc này hoạt động hài hòa, ổn định; nó quy định cho mỗi vị thế xã hội một quyền hạn tương ứng. Để thực hiện quyền hạn này, nó đặt ra cho vị thế đó một mô hình hành vi được phép, đáng được mong đợi; nghĩa là khi chúng ta thực hiện các vai trò được xã hội trao cho, thì chúng ta cũng thực hiện quyền lực mà chúng ta được ủy nhiệm. Như vậy xã hội đã tạo cho các vai trò này một sự hợp pháp, hay một sự chính đáng; tức là, nếu chúng ta có sự chính đáng, có sự hợp pháp, thì chúng ta có quyền lực. Quyền lực của các vai trò xã hội không giống nhau, nhưng chúng phối hợp với nhau để tạo ra một cơ cấu thống nhất và hài hòa.

Có thể phân chia quyền lực theo một số loại hình sau đây: Quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị (quan trọng nhất) và quyền lực uy tín; Quyền lực tuyệt đối; Quyền lực quân chủ; Quyền lực thiểu số; Quyền lực dân chủ. Các phương tiện để thực hiện quyền lực là đường lối, chính sách, quy chế pháp lý, văn bản hành chính và các cơ quan hành pháp.

4. Nội dung quyền lực nhà nước:

Quyền lực nhà nước (tiếng anh là State power) là quyền lực gắn liền với sự ra đời của nhà nước, theo đó nhà nước được áp dặt ý chí và buộc những chủ thể khác trong xã hội phải phục tùng mệnh lệnh của mình nhằm đảm bảo an ninh, duy trì trật tự xã hội. Quyền lực Nhà nước lớn mạnh đến đâu còn phụ thuộc vào sức mạnh vũ trang, kinh tế, uy tín,… của chính nhà nước đó trong xã hội.

Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc này cũng là quan điểm trong chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ở thời kỳ đẩy mạnh đổi mới kinh tế chính trị. Như vậy, quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị được thực hiện bằng bộ máy nhà nước là cơ quan, là công cụ của quyền lực chính trị. Nhà nước thể hiện một cách tập trung quyền lực chính trị.

Quyền lực nhà nước là dạng quyền lực xã hội mang tính ý chí, gắn liền với chủ quyền quốc gia, được thể hiện thông qua những định chế nhà nước – pháp luật. Quyền lực nhà nước mang tính giai cấp và mục đích chính trị rõ ràng. Quyền lực nhà nước luôn thuộc về giai cấp thống trị và chủ yếu phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Nhà nước là tổ chức trực tiếp mang quyền lực nhà nước, cụ thể hơn, quyền lực nhà nước được biểu hiện cụ thể ở hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước và những nguyên tắc vận hành của hệ thống đó tạo nên cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.

Cơ chế đó được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại và được cụ thể hóa ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào những điều kiện khách quan và chủ quan ở mỗi thời kì phát triển. Lịch sử nhân loại đã từng biết đến nhiều hình thức và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước khác nhau. Trong trường hợp quyền lực tối cao của nhà nước tập trung trong tay một cá nhân (trong chế độ quân chủ chuyên chế) thì thường dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, lạm quyền. Khi quyền lực nhà nước được phân định một cách khu biệt trong các vùng lãnh thổ khác nhau trong đất nước (theo chiều dọc) thì thường dẫn đến tình trạng phân quyền cát cứ, địa phương chủ nghĩa, không tập trung thống nhất.

Để tránh tình trạng độc đoán, chuyên quyền, lí thuyết phân chia quyền lực đã ra đời. Theo lí thuyết này thì quyền lực nhà nước ở trung ương được chia thành nhiều quyền mà chủ yếu là chia thành ba quyền (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp) và giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau ở trung ương nắm giữ và thực hiện để các loại quyền lực này có thể kiểm soát và chế ước lẫn nhau. Lí thuyết phân chia quyền lực đó sử dụng khá phổ biến ở các nhà nước tư sản. Tuy nhiên, thực tiễn đó cho thấy, cơ chế phân quyền trong các nước tư sản cũng không giống nhau, tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa các nhánh quyền lực vẫn thường xuyên xảy ra và việc giải quyết những xung đột, mâu thuẫn đó cũng rất phức tạp và tốn kém.

Theo quy định của Hiến pháp và các đạo luật tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta hiện nay thì ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Như vậy, ở đây có cơ chế ủy quyền, nhân dân đã trao (ủy nhiệm) quyền lực của mình không chỉ cho Quốc hội mà còn cho cả hội đồng nhân dân các cấp.

Tuy nhiên, quyền lực tối cao của Nhà nước được trao cho Quốc hội, vì vậy, Quốc hội được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thay mặt cho nhân dân cả nước quyết định những vấn đề cơ bản, trọng đại nhất của đất nước. Nhưng nếu chỉ có Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp thì không thể thực hiện được hết quyền lực nhà nước. Chính vì thế, xuất phát từ các cơ quan quyền lực nhà nước mà hàng loạt các cơ quan khác của Nhà nước được thành lập để cùng với các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Để bảo đảm sự thống nhất, không phân chia của quyền lực nhà nước, pháp luật nước ta quy định tất cả các cơ quan khác của Nhà nước đều do Quốc hội và hội đồng nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập và các cơ quan này phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, phải báo cáo công tác với Quốc hội và hội đồng nhân dân.

Bằng cách tổ chức như thế, quyền lực nhà nước ở nước ta xét theo chiều ngang cũng đảm bảo sự tập trung thống nhất vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Sự tập trung này là cần thiết, nó đảm bảo cho sự thống nhất của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột nhiều khi đối lập giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.

Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:

– Luật Hiến pháp năm 2013.

Từ khóa » Trình Bày Khái Niệm Quyền Lực Xã Hội