SẮC LỆNH VỀ HOẠT ĐÔNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI - Văn Kiện
Có thể bạn quan tâm
PHAOLÔ GIÁM MỤC TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ
SẮC LỆNH
VỀ HOẠT ĐÔNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI
AD GENTES
Ngày 7 tháng 12 năm 1965
1.
Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên “bí tích cứu độ phổ quát”1, đồng thời vì những đòi hỏi căn bản của đặc tính công giáo, và vì mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập2, Giáo Hội dành mọi nỗ lực để loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người. Thật vậy, chính các Tông đồ, nền móng của Giáo Hội, đã theo chân Chúa Kitô, “rao giảng lời chân lý và khai sinh các giáo đoàn”3. Những người kế vị các Tông đồ có nhiệm vụ tiếp nối công trình này, để “lời Chúa được lan rộng và toả sáng” (2 Ts 3,1), để Nước Chúa được công bố và thiết lập khắp trần gian.
Nhưng tình trạng thế giới hiện nay đặt nhân loại vào một hoàn cảnh mới, vì thế Giáo Hội, là muối đất và ánh sáng trần gian4, càng được kêu mời khẩn thiết hơn để cứu rỗi và canh tân mọi loài thụ tạo, để mọi sự được tái lập trong Chúa Kitô, và nơi Ngài mọi người họp thành một gia đình và một đoàn dân duy nhất của Thiên Chúa.
Bởi vậy, trong tâm tình cảm tạ Thiên Chúa vì những công trình đã được toàn thể Giáo Hội nhiệt thành quảng đại thực hiện, Thánh Công Đồng muốn đề ra những nguyên tắc cho hoạt động truyền giáo và tập trung năng lực của toàn thể các tín hữu, để khi bước đi trên lối đường hẹp của thập giá, Dân Chúa trải rộng khắp nơi vương quyền Đức Kitô, là Chúa và là Đấng nhìn thấu muôn thời đại5, đồng thời dọn đường cho Người ngự đến.
CHƯƠNG I
GIÁO THUYẾT CĂN BẢN
2.
Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi, vì cội nguồn của Giáo Hội gắn liền với việc Chúa Con và Chúa Thánh Thần được sai đến theo ý định của Thiên Chúa Cha1.
Ý định này tuôn trào từ “mạch suối yêu thương” nghĩa là tình yêu của Thiên Chúa Cha, Đấng chính là Nguyên lý tối thượng, bởi Ngài, Chúa Con được sinh ra, đồng thời cũng bởi Ngài và qua Chúa Con, nhiệm xuất Chúa Thánh Thần, cũng là Đấng vì lòng nhân từ thương xót vô biên nên khi tạo dựng và hơn nữa khi ưu ái mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống và vinh quang của Ngài, đã rộng rãi tuôn ban và còn không ngừng tuôn ban lòng nhân từ, đến độ Đấng tác tạo muôn loài, cuối cùng trở nên “tất cả trong mọi loài” (1 Cr 15,28), để Ngài được vinh hiển và đồng thời chúng ta được hạnh phúc. Tuy nhiên, Thiên Chúa muốn mời gọi mọi người tham dự vào sự sống của Ngài, không chỉ từng cá nhân không liên quan gì đến nhau, nhưng còn liên kết họ thành một đoàn dân duy nhất, trong đó con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi được quy tụ về một mối2.
3.
Ý định của Thiên Chúa muốn cứu rỗi toàn thể nhân loại không chỉ được thực hiện cách thầm kín trong tâm trí con người, hoặc bằng các tôn giáo như là phương thế để giúp con người tìm kiếm Thiên Chúa qua nhiều nẻo đường, may ra sẽ đến gần hoặc gặp được Ngài, mặc dù Ngài không ở xa mỗi người chúng ta (x. Cv 17,27); tuy nhiên những phương cách đó cần phải được soi dẫn và tu chỉnh, dù đôi khi, trong ý định nhân lành của Chúa Quan Phòng, cũng có thể được coi như những lối đường hướng về Thiên Chúa chân thật hoặc chuẩn bị cho Tin Mừng3. Nhưng để đem lại bình an, nghĩa là hiệp thông với Thiên Chúa, và để xây dựng một xã hội huynh đệ giữa những con người tội lỗi, Thiên Chúa đã quyết định đi vào lịch sử loài người theo một cách thức mới và mang tính chung quyết, bằng cách sai Con của Ngài mặc lấy xác phàm, để nhờ Người, Ngài giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và Satan4, đồng thời trong Người, Ngài hoà giải trần gian với chính mình5. Thật vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ nhờ Chúa Con6, Ngài cũng đặt Người thừa hưởng muôn loài, để phục hồi vạn vật trong Người7.
Chúa Giêsu Kitô được sai đến trần gian làm vị trung gian đích thực giữa Thiên Chúa và nhân loại. Vì Người là Thiên Chúa, nên “nơi Người, cả thần tính trọn vẹn đã hoà nhập trong xác thể” (Cl 2,9); theo nhân tính, Người là Ađam mới, “đầy ân sủng và chân lý” (Ga 1,14), được đặt làm đầu nhân loại đã được đổi mới. Như thế, bằng con đường nhập thể đích thực, Con Thiên Chúa đã đến để làm cho loài người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa, vốn giàu sang, Người đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để lấy sự nghèo khó của Người làm cho chúng ta trở nên giàu có8. Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người, nghĩa là mọi người9. Các thánh Giáo phụ luôn quả quyết rằng, sự gì không được Chúa Kitô tiếp nhận vào Người thì không được chữa lành10. Quả thật, Chúa Kitô đã nhận lấy trọn vẹn nhân tính của chúng ta là những kẻ khốn khổ và nghèo hèn, ngoại trừ tội lỗi11. Chúa Kitô, “Đấng được Chúa Cha thánh hoá và sai xuống trần gian” (x. Ga 19,36) đã nói về chính mình rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó, chữa lành những tâm hồn đau khổ, loan báo sự giải thoát cho những người bị giam cầm, và cho những kẻ đui mù được nhìn thấy” (Lc 4,18), Người còn nói: “Con Người đến tìm kiếm và cứu vớt điều gì đã hư mất” (Lc 19,10).
Những gì Chúa đã một lần rao giảng hay đã thực hiện để cứu rỗi nhân loại, phải được công bố và loan truyền, bắt đầu từ Giêrusalem12 cho đến tận cùng trái đất13, như thế những gì đã được thực hiện chỉ một lần để cứu rỗi mọi người, sẽ có hiệu lực cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại.
4.
Để hoàn tất điều đó, Chúa Kitô đã cử Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha đến để thực hiện công trình cứu độ trong các tâm hồn và làm cho Giáo Hội tăng triển thêm mãi. Chắc chắn là Chúa Thánh Thần đã hành động nơi trần gian trước khi Chúa Kitô được tôn vinh14, nhưng trong ngày lễ Ngũ Tuần, Ngài đã ngự xuống trên các Tông đồ để ở lại với họ luôn mãi15, ngày đó Giáo Hội công khai xuất hiện trước dân chúng, Tin Mừng bắt đầu được loan truyền giữa muôn dân nhờ lời giảng dạy, và sau cùng sự hợp nhất các dân tộc trong đức tin công giáo cũng đã được tiên báo, nhờ Giáo Hội của Tân ước, một cộng đoàn có khả năng nói mọi thứ tiếng, thấu hiểu và tiếp nhận mọi ngôn ngữ trong tình bác ái, và như thế đã xóa bỏ tình trạng phân tán từ tháp Babel16. Thật vậy, “công vụ các Tông đồ” được bắt đầu ngay vào ngày Hiện Xuống, giống như vào chính lúc Chúa Thánh Thần đến ngự trên Đức Trinh Nữ Maria thì Chúa Kitô được thụ thai, và như khi Chúa Thánh Thần vừa ngự xuống trên Chúa Kitô đang cầu nguyện thì Người được thúc đẩy bắt đầu thi hành sứ vụ17. Chính Chúa Giêsu trước khi tự nguyện hiến mạng sống mình cho thế gian, đã xếp đặt tác vụ tông đồ và hứa sai Chúa Thánh Thần, làm cho cả hai liên kết với nhau để công trình cứu độ luôn luôn đem lại kết quả khắp nơi18. Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần hợp nhất toàn thể Giáo Hội “trong tình hiệp thông và qua thừa tác vụ, ban phát ơn thánh và đặc sủng khác nhau”19, Ngài nên như linh hồn làm sống động các tổ chức trong Giáo Hội20 và đổ vào tâm hồn các tín hữu cũng chính tinh thần truyền giáo đã tác động nơi Chúa Kitô. Đôi khi Chúa Thánh Thần chuẩn bị cách tỏ tường cho hoạt động truyền giáo21, cũng như không ngừng dùng những phương thế khác nhau để đồng hành và hướng dẫn hoạt động tông đồ22.
5.
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu “đã gọi đến với Người những kẻ Người muốn và lập thành nhóm mười hai để họ ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng” (Mc 3,13). Như thế, các Tông đồ là hạt mầm của Israel mới, đồng thời cũng là nguồn gốc của hàng Giáo phẩm. Sau đó, khi Chúa Giêsu đã hoàn tất nơi Người, chỉ một lần là đủ, những mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta và canh tân vũ trụ bằng cái chết và sự sống lại, khi đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất23 và trước khi về trời24, Người đã thiết lập Giáo Hội như bí tích cứu độ, và sai các Tông đồ đi khắp thế gian như chính Người đã được Chúa Cha sai đi25: “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19-20). “Các con hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu rỗi, còn ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,15). Từ đó, Giáo Hội nhận nhiệm vụ truyền bá đức tin và ơn cứu rỗi do Chúa Kitô mang đến, một đàng dựa trên sự ủy thác rõ ràng của các Tông đồ cho hàng Giám mục với sự trợ giúp của các linh mục, hợp nhất với Đấng kế vị thánh Phêrô cũng là Mục Tử Tối Cao của Giáo Hội, đàng khác do đòi hỏi của chính sự sống Chúa Kitô muốn thông ban cho các chi thể, “nhờ Người, toàn thân thể được gắn liền và liên kết chặt chẽ với nhau nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng, mỗi chi thể hoạt động tuỳ theo chức năng của mình, làm cho toàn thân triển nở và được xây dựng trong đức ái” (Ep 4,16). Vì thế, vâng lệnh Chúa Kitô đồng thời được ân sủng và tình yêu Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Giáo Hội thực thi sứ mệnh, khi thực sự hiện diện giữa mọi người và mọi dân tộc, bằng cách hoạt động để nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy, các bí tích và những phương thế trao ban ân sủng khác, dẫn đưa tất cả đến với đức tin, đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa Kitô, nhờ đó mở ra con đường thông suốt và vững chắc giúp họ thông dự trọn vẹn vào mầu nhiệm Chúa Kitô.
Sứ mệnh của Giáo Hội tiếp nối và triển khai qua dòng lịch sử sứ mệnh của chính Chúa Kitô, Đấng đã được sai đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, vì thế được Thánh Thần Chúa Kitô thúc đẩy, Giáo Hội cũng phải tiến bước trên chính con đường Chúa Kitô đã đi, con đường của nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân mình đến độ sẵn lòng chịu chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông đồ cũng đã bước đi trên con đường đó trong niềm hy vọng, đã chịu nhiều bách hại và đau khổ để làm trọn những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn mà Chúa Kitô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội26. Và máu tử đạo thường lại là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu27.
6.
Phận vụ này phải được chu toàn bởi hàng Giám mục, cùng với người đứng đầu là Đấng kế vị thánh Phêrô, nhờ vào lời cầu nguyện và sự cộng tác của toàn thể Giáo Hội, đây là sứ vụ duy nhất và không thay đổi, tại bất cứ nơi đâu và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù có thể không được thực hiện theo cùng một cách thức như nhau. Như thế, những khác biệt vẫn thấy trong hoạt động của Giáo Hội không phát sinh từ bản chất của sứ mệnh, nhưng từ những điều kiện thực tế khi thi hành sứ vụ.
Các điều kiện đó liên quan đến Giáo Hội, hoặc các dân tộc, các cộng đồng, hay những người là đối tượng của hoạt động truyền giáo. Thật vậy, mặc dù nơi chính Giáo Hội đã có tất cả và đầy đủ mọi phương thế mang ơn cứu rỗi, tuy nhiên không phải lúc nào Giáo Hội cũng hành động hay có thể hành động tức khắc với những phương tiện đó, nhưng phải qua những bước đầu dò dẫm, rồi tiến hành theo từng giai đoạn, để nỗ lực thực hiện hữu hiệu ý định của Thiên Chúa; hơn nữa, đôi lúc sau khi có những tiến bộ tốt đẹp ban đầu, Giáo Hội lại phải đau đớn lùi bước, hay ít ra dừng lại trong một tình trạng chưa được như mong muốn. Giáo Hội tiếp xúc và thấm nhập dần dần những gì liên quan đến con người, các cộng đồng hay dân tộc, để tiếp nhận họ trong ơn phúc viên mãn dành cho mọi người. Những hoạt động chuyên biệt hay những phương thức thích nghi phải tương ứng với từng hoàn cảnh hay từng đối tượng.
Tất cả những đề xướng, đặc biệt qua đó các sứ giả Tin Mừng được Giáo Hội sai đi khắp thế gian để thực thi phận vụ rao giảng Phúc Âm và gầy dựng Giáo Hội nơi các dân tộc, hoặc nơi những cộng đồng chưa tin vào Chúa Kitô, được gọi chung là “sứ vụ thừa sai”, thường được thực hiện qua hoạt động truyền giáo tại những địa hạt nhất định đã được Toà Thánh công nhận. Chủ đích của hoạt động truyền giáo là rao giảng Tin Mừng và gầy dựng cộng đoàn nơi các dân tộc hay những cộng đồng chưa có sự hiện diện của Giáo Hội28. Nhờ đó, từ hạt giống Lời Chúa, các Giáo đoàn địa phương bản xứ sẽ mọc lên khắp nơi trên thế giới, được xây dựng và khi đã có được khả năng tự túc và trưởng thành, với hàng Giáo phẩm riêng và cộng đoàn tín hữu cũng như những phương tiện thích hợp cho nếp sống Kitô hữu, sẽ góp phần vào lợi ích của toàn thể Giáo Hội. Rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là phương thế chủ yếu để gầy dựng giáo đoàn, chính vì vậy Chúa đã sai các môn đệ đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng, để những người được tái sinh do lời Thiên Chúa29, sẽ nhờ bí tích Thánh Tẩy mà gia nhập Giáo Hội, là thân mình của Ngôi Lời nhập thể, được nuôi dưỡng và sống nhờ lời Chúa và bánh Thánh Thể30.
Trong hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, có nhiều giai đoạn đôi khi hoà lẫn vào nhau: trước hết là giai đoạn khởi lập hay gieo trồng, sau đó là thời kỳ sơ khai hay non trẻ. Tuy nhiên, sau khi đã trải qua các giai đoạn đó, hoạt động truyền giáo của Giáo Hội vẫn không ngưng nghỉ, trái lại, các Giáo đoàn địa phương vừa được thiết lập có nhiệm vụ tiếp tục hoạt động truyền giáo và rao giảng Tin Mừng cho những người vẫn đang còn ở bên ngoài Giáo Hội.
Ngoài ra, nơi những cộng đồng có Giáo Hội đang hiện diện, cũng thường xảy ra những chuyển biến sâu xa vì nhiều lý do khác nhau, đưa đến những thực trạng cũng hoàn toàn đổi khác. Khi ấy Giáo Hội sẽ xét đến nhu cầu tái truyền giáo cho những nơi đó. Hơn nữa, đôi khi có những tình huống gây trở ngại trong một thời gian nào đó đối với việc đích thân rao giảng trực tiếp sứ điệp Tin Mừng: lúc đó, các nhà truyền giáo có thể và phải luôn tin tưởng phó thác để kiên trì, khôn ngoan làm chứng cho Chúa Kitô, ít nữa là bằng các việc bác ái và từ thiện, đó cũng là một cách dọn đường cho Chúa và giới thiệu về Người.
Như thế, hoạt động truyền giáo thật sự gắn liền mật thiết với bản tính của Giáo Hội, hoạt động nhằm truyền bá đức tin mang ơn cứu rỗi, khai triển để đưa đến thành toàn đặc tính vừa duy nhất vừa công giáo, được giữ vững trong nguồn mạch tông truyền, thể hiện tính cách cộng đoàn của hàng Giáo phẩm, minh chứng, truyền đạt và phát huy sự thánh thiện của Giáo Hội. Như thế, hoạt động truyền giáo giữa lương dân khác với hoạt động mục vụ dành cho các tín hữu, cũng như khác với công cuộc tái lập sự hợp nhất các Kitô hữu. Tuy nhiên, hai công tác này lại liên quan rất nhiều đến hoạt động truyền giáo của Giáo Hội31: thật vậy, sự phân rẽ giữa các Kitô hữu làm mất đi ý nghĩa cao cả của sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo32, và còn khép kín con đường đưa tới đức tin đối với nhiều người. Như thế, sứ mệnh truyền giáo mời gọi tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy hãy hợp nhất trong một đoàn chiên duy nhất, để có thể cùng nhau đồng tâm làm chứng cho Chúa Kitô, Chúa của họ, trước mặt muôn dân. Trong khi tìm cách nêu rõ chứng từ trọn vẹn về một đức tin duy nhất, hãy cùng hành động với thái độ tôn trọng và yêu thương nhau.
7.
Lý do của hoạt động truyền giáo gắn liền với ý định của Thiên Chúa, Đấng “muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý. Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất cũng như chỉ có một trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người” (1 Tm 2,4-6), “và ơn cứu độ không có nơi một người nào khác” (Cv 4,12). Vì thế, khi đã nhận biết Chúa Kitô nhờ lời Giáo Hội giảng dạy, mọi người phải thống hối và lãnh nhận ơn Thánh Tẩy để được thuộc về Chúa Kitô và Giáo Hội là Thân Thể Người. Thật vậy, “khi minh nhiên công bố sự cần thiết của đức tin và phép Rửa Tội33, Chúa Kitô đã cùng lúc xác nhận sự cần thiết của Giáo Hội mà mọi người phải bước vào qua khung cửa bí tích Thánh Tẩy. Vì thế, nếu ai đã biết Giáo Hội Công giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu Kitô như phương thế cứu rỗi cần thiết, nhưng vẫn không muốn gia nhập hoặc trung thành sống trong Giáo Hội, thì không thể được cứu rỗi”34. Như vậy, dù Thiên Chúa có thể dùng những đường lối chỉ riêng Ngài biết để đưa những kẻ không vì lỗi mình mà chưa nhận được Tin Mừng đến với đức tin, điều kiện tối cần để làm đẹp lòng Ngài35, tuy nhiên, Giáo Hội vẫn có bổn phận, và có cả quyền bất khả xâm phạm, trong việc loan báo Tin Mừng36, do đó, hoạt động truyền giáo hôm nay và mãi mãi vẫn luôn thật sự cấp bách và cần thiết.
Nhờ hoạt động truyền giáo, Nhiệm Thể Chúa Kitô không ngừng liên kết và phối hợp mọi năng lực giúp cho toàn thân được tăng trưởng37. Các chi thể của Giáo Hội thực thi công cuộc truyền giáo dưới tác động của đức ái, động lực thúc đẩy họ yêu mến Thiên Chúa và ước ao chia sẻ cho mọi người các ơn phúc thiêng liêng đời này cũng như đời sau.
Sau nữa, nhờ hoạt động truyền giáo, Thiên Chúa sẽ được muôn đời tôn vinh, khi con người ý thức đón nhận trọn vẹn công trình cứu chuộc đã được hoàn tất trong Chúa Kitô. Như thế, việc truyền giáo hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa, đã được Chúa Kitô thực hiện trong sự vâng phục và lòng yêu mến để tôn vinh Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến38 để quy tụ toàn thể nhân loại thành đoàn Dân duy nhất của Thiên Chúa, kết thành thân thể duy nhất của Chúa Kitô, và xây nên đền thờ duy nhất của Chúa Thánh Thần: điều đó, khi gầy dựng mối đồng tâm huynh đệ, sẽ đáp ứng khát vọng sâu xa của toàn thể nhân loại. Sau cùng, việc truyền giáo thực sự hoàn tất ý định của Đấng Tạo Hoá, Đấng đã dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ngài, khi toàn thể nhân loại, được tái sinh trong Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa, cùng đồng thanh cất tiếng: “lạy Cha chúng con”39.
8.
Hoạt động truyền giáo cũng liên kết chặt chẽ với chính bản tính và những khát vọng của nhân loại. Thật vậy, khi bày tỏ Chúa Kitô, Giáo Hội đồng thời cũng khai mở cho con người nhận biết chân lý đích thực liên quan đến thân phận và ơn gọi toàn diện của họ, vì Chúa Kitô chính là nguyên lý và khuôn mẫu của nhân loại được đổi mới, thấm đẫm tình yêu thương huynh đệ, tâm tư chân thành và tinh thần hoà bình, một nhân loại mà mọi người đều khao khát. Vì là những chủ thể siêu việt, vượt trên mọi dị biệt chủng tộc hay quốc gia, nên Chúa Kitô cũng như Giáo Hội đang làm chứng cho Người qua việc rao giảng Tin Mừng, không thể bị coi là xa lạ đối với bất cứ ai hay tại bất cứ nơi nào40. Việc rao giảng Tin Mừng trình bày cho mọi người biết Chúa Kitô là đường và là sự thật, đồng thời nói với họ những lời của chính Người: “Hãy thống hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Ai không tin thì đã bị luận phạt41, vì thế lời Chúa Kitô vừa là lời luận tội vừa là lời ân sủng, lời liên quan đến cả sự chết và sự sống. Thật vậy, chỉ có cách hủy diệt cái cũ, chúng ta mới có thể tiến tới một đời sống mới: điều đó tuy trước tiên có giá trị khi nói về con người, nhưng cũng có thể áp dụng cho các thực tại trần thế, những thứ cùng lúc mang cả dấu ấn của tội lỗi nhân loại cũng như sự chúc lành của Thiên Chúa: “vì quả thật mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,23). Không ai có thể nhờ sức riêng để tự giải thoát khỏi tội lỗi và thắng vượt chính mình, cũng không ai hoàn toàn thoát khỏi sự yếu đuối, nỗi cô đơn hay tình trạng nô lệ42, trái lại, mọi người đều cần đến Chúa Kitô là mẫu gương và là Thầy dạy, là Đấng giải thoát, Đấng cứu độ và là Đấng ban sự sống. Trong lịch sử nhân loại, cả về phương diện trần thế, Tin Mừng thật sự đã từng là nắm men cho tự do và tiến bộ, và mãi mãi vẫn luôn là chất men khơi dậy tình huynh đệ, hợp nhất và hoà bình. Vì thế, các tín hữu có lý khi suy tôn Chúa Kitô là “Đấng muôn người trông đợi và là Đấng cứu chuộc muôn dân”43.
9.
Hoạt động truyền giáo được thực thi trong thời gian giữa hai lần Chúa đến, và khi Chúa đến lần thứ hai, Giáo Hội nên như mùa lúa được thu gặt từ tứ phương thiên hạ đưa vào vương quốc Thiên Chúa44. Thật vậy, trước khi Chúa đến, Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc45.
Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì đơn giản hơn là sự biểu lộ hay nói cách khác là sự hiển linh ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần gian và trong lịch sử nhân loại, trong đó rõ ràng Thiên Chúa đang hoàn thành lịch sử cứu độ nhờ việc truyền giáo. Qua lời rao giảng và việc cử hành các bí tích, có trung tâm và tột đỉnh là bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo tỏ bày sự hiện diện của Đấng tác thành công trình cứu rỗi là chính Chúa Kitô. Tất cả những gì là chân lý và ân sủng, do chính Thiên Chúa vẫn đang hiện diện cách ẩn khuất giữa con người đã trao ban cho các dân tộc, sẽ được thanh lọc khỏi những sai lạc có thể đã nhiễm vào, và được phục hồi nhờ Chúa Kitô, Đấng đã tác thành chúng, Đấng đã lật đổ quyền lực ma quỷ và chận đứng tác dụng độc hại đủ mọi cách thế của tội lỗi. Bởi vậy, tất cả những gì tốt đẹp đã được gieo vãi trong tâm hồn con người, hoặc trong những nghi lễ và văn hoá đặc thù của các dân tộc, sẽ không bị hủy bỏ, nhưng được chữa lành, thăng tiến và hoàn thiện để Thiên Chúa được tôn vinh, ma quỷ phải nhục nhã và con người được hạnh phúc46. Như thế, hoạt động truyền giáo hướng về sự viên mãn cánh chung47: đưa đoàn Dân Chúa phát triển vươn tới tầm mức và thời hạn do Chúa Cha toàn quyền đặt định48 như lời ngôn sứ đã nói: “Hãy mở rộng nơi con cắm trại, hãy căng rộng lều bạt, đừng thu cuốn lại” (Is 54,2)49, và cũng nhờ đó, Thân Thể nhiệm mầu được tăng trưởng đạt đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô50, và Đền thờ thiêng liêng, nơi Thiên Chúa được thờ phượng trong tinh thần và chân lý51, sẽ vươn cao và được xây dựng “trên nền móng là các Tông đồ và các ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Giêsu Kitô” (Ep 2,20).
CHƯƠNG II
CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO
10.
Giáo Hội được Chúa Kitô sai đi để bày tỏ và thông ban tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, nhận thức rằng công cuộc truyền giáo mình đang thực hiện vẫn còn rất bao la. Thật vậy, vẫn còn hai tỷ người, và con số này vẫn đang ngày càng tăng cao, những người đang sống trong những cộng đồng đông đảo nơi những địa điểm nhất định, được hình thành do những mối liên hệ cố định trong đời sống văn hoá, với truyền thống tôn giáo lâu đời, trong những tương giao chặt chẽ về các nhu cầu xã hội, họ chưa từng được nghe hay chỉ mới thoáng nhận được sứ điệp Tin Mừng; trong số đó có người đang theo một trong những tôn giáo lớn, nhưng có người vẫn còn xa lạ với ý niệm về Thiên Chúa, một số khác phủ nhận và đôi khi còn công khai đả kích sự hiện hữu của Thiên Chúa. Để có thể chuyển thông cho mọi người mầu nhiệm cứu độ và sự sống Chúa muốn trao ban, Giáo Hội phải hội nhập vào các cộng đồng ấy với cùng một động lực như chính Chúa Kitô, Đấng khi nhập thể đã hoà mình vào những hoàn cảnh nhất định về xã hội và văn hoá của những cộng đồng nơi Người cùng chung sống.
Mục 1
CHỨNG TỪ KITÔ HỮU
11.
Giáo Hội phải hiện diện qua chính những người con của Giáo Hội đang chung sống hay được sai đến với những cộng đồng nhân loại đó. Thật vậy, tất cả các Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống để thể hiện con người mới họ đã tiếp nhận qua bí tích Thánh Tẩy, đồng thời biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã củng cố họ qua bí tích Thêm Sức, để những người chung quanh nhìn thấy các việc lành họ làm mà ngợi khen Chúa Cha1, và nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa đích thực của cuộc sống nhân sinh cũng như mối dây liên kết toàn thể cộng đồng nhân loại.
Để có thể làm chứng cho Chúa Kitô cách hữu hiệu, các Kitô hữu phải tìm đến mọi người chung quanh với thái độ tôn trọng và yêu thương, phải ý thức về tư cách là thành viên của cộng đồng đang chung sống, tham gia đời sống văn hoá, xã hội qua những giao tiếp và hoạt động nhân văn; phải thân thiết với các truyền thống dân tộc và tôn giáo; hãy khám phá với niềm vui và trân trọng những hạt mầm của Lời Chúa đang tiềm ẩn trong đó; đồng thời cũng phải quan tâm đến những chuyển biến sâu xa đang diễn ra giữa các dân tộc, hãy nỗ lực giúp cho con người thời nay đừng vì quá chú tâm đến khoa học và kỹ thuật của thế giới hiện đại mà xa rời những thực tại tâm linh, nhưng biết khao khát mãnh liệt hơn nữa để đạt đến chân lý và tình thương như Chúa đã mặc khải. Chính Đức Kitô đã thấu suốt tâm tư con người và dùng cuộc đối thoại mang đầy tính nhân bản để dẫn đưa nhân loại đến với ánh sáng thần linh, cũng thế, những môn đệ đã thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô, cũng phải hiểu biết những người họ đang chung sống, hãy gặp gỡ trao đổi để qua cuộc đối thoại chân thành và kiên nhẫn, họ nhận ra những gia sản phong phú đã được Thiên Chúa trao ban cho các dân tộc; đồng thời cũng nỗ lực dùng ánh sáng Tin Mừng để chiếu soi, nâng cao và thu phục các gia sản đó vào chủ quyền của Thiên Chúa, Đấng cứu độ con người.
12.
Sự hiện diện của các Kitô hữu giữa các cộng đồng nhân loại phải được tác động bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương chúng ta và muốn chúng ta cũng biết thương yêu nhau2. Đức ái Kitô giáo phải thực sự lan toả đến tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giai cấp xã hội hay tôn giáo; đức ái không vụ lợi cũng không cầu mong được đáp đền. Như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô vị lợi, các tín hữu cũng phải lấy tình bác ái để yêu thương con người với cùng một ý hướng như chính Ngài đã thể hiện khi đến tìm gặp con người. Như Chúa Kitô ngày xưa đã rảo qua khắp các thị thành và làng mạc, chữa lành mọi kẻ tật nguyền, bệnh hoạn, nêu rõ dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến3, Giáo Hội cũng nhờ con cái của mình để liên kết với mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhất là những kẻ nghèo hèn đau khổ, và sẵn sàng hiến mình vì họ4. Thật vậy, Giáo Hội chia vui sẻ buồn với họ, biết rõ những khát vọng và các vấn đề của họ về cuộc sống, cảm thông với họ trong nỗi lo âu về sự chết. Đối với những ai tìm kiếm hoà bình, Giáo Hội muốn đưa ra lời giải đáp qua việc đối thoại huynh đệ, mang đến cho họ sự bình an và ánh sáng phát xuất từ Tin Mừng.
Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng tác với mọi người để điều hành cách tốt đẹp các sinh hoạt kinh tế xã hội. Họ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục thiếu nhi và thanh thiếu niên nhờ các loại hình trường học khác nhau, không chỉ được coi như phương thế tối ưu để đào tạo và phát huy giới trẻ Kitô hữu, nhưng đồng thời còn là cách thức tuyệt hảo để phục vụ con người – nhất là đối với các quốc gia đang phát triển – để nâng cao nhân phẩm và chuẩn bị những điều kiện sống hợp nhân bản hơn. Ngoài ra, họ cũng hãy góp phần vào nỗ lực của các dân tộc đang đấu tranh chống lại đói nghèo, dốt nát và bệnh tật, để cố gắng kiến tạo những điều kiện sinh sống tốt đẹp hơn và củng cố hoà bình thế giới. Trong hoạt động này, các tín hữu hãy tích cực tham gia với thái độ cẩn trọng vào những công cuộc đã được khởi xướng do các tổ chức tư cũng như công, các chính phủ, các cơ quan quốc tế, các cộng đoàn Kitô hữu, hay các tôn giáo ngoài Kitô giáo.
Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ muốn can dự vào việc cai trị xã hội trần thế. Giáo Hội không đòi cho mình một quyền hành nào khác ngoài quyền phục vụ con người, với ơn Chúa trợ giúp, trong tình bác ái và trung thành phục vụ5.
Qua việc liên kết chặt chẽ với nhân loại trong cuộc sống và trong hoạt động, các môn đệ Chúa Kitô hy vọng sẽ trở nên những chứng nhân đích thực của Chúa Kitô, và dấn thân hoạt động vì phần rỗi nhân loại, kể cả ở những nơi họ vẫn chưa được tự do trọn vẹn để rao giảng về Chúa Kitô. Thật vậy, họ không mưu tìm sự tiến bộ và thịnh vượng thuần túy vật chất cho con người, nhưng chủ tâm nâng cao nhân phẩm và tình hợp nhất huynh đệ, bằng cách giảng dạy những chân lý về tôn giáo và luân lý đã được Chúa Kitô soi tỏ, để dần dần mở rộng hơn nữa lối đường dẫn đến Thiên Chúa. Như thế, họ giúp con người đạt tới ơn cứu rỗi nhờ yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người chung quanh, và làm toả sáng mầu nhiệm Chúa Kitô, Đấng tác tạo con người mới được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa6, và cũng là Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa.
Mục 2
RAO GIẢNG TIN MỪNG VÀ QUY TỤ DÂN CHÚA
13.
Tại những nơi Thiên Chúa đã mở rộng lối vào cho việc rao giảng mầu nhiệm Chúa Kitô7, phải tin tưởng và bền chí8 loan báo9 cho tất cả mọi người6 nhận biết Thiên Chúa hằng sống và Đấng Ngài sai đến cứu chuộc mọi người là Chúa Kitô10, để những người ngoài Kitô giáo được Chúa Thánh Thần mở lòng11 tự ý trở về với Chúa trong niềm tin, và thành tâm gắn bó với Đấng là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), Đấng không chỉ đáp ứng, mà đúng hơn, còn vượt quá đến vô cùng những ước vọng thiêng liêng của con người.
Dĩ nhiên phải hiểu việc thống hối mới chỉ là bước đầu, nhưng cũng đủ để con người nhận thức rằng, khi đã từ bỏ tội lỗi, họ sẽ được dẫn đưa vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa, Đấng đang mời gọi họ bước vào mối tương giao với Ngài trong Chúa Kitô. Thật vậy, nhờ ơn Chúa tác động, các dự tòng bắt đầu cuộc hành trình thiêng liêng, qua đó, khi thông dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh nhờ đức tin, họ biến đổi từ con người cũ thành con người mới toàn hảo trong Chúa Kitô12. Sự chuyển biến này, vốn có năng lực làm thay đổi dần dần cách suy nghĩ và nếp sống, phải được chứng tỏ qua những thể hiện thiết thực trong đời sống xã hội và phải tiến triển dần dần trong thời gian học giáo lý dự tòng. Khi tin vào Chúa, Đấng là dấu chỉ của sự chống đối13, người dự tòng thường phải trải qua cảm nghiệm của những cắt đứt và phân cách, nhưng cũng nếm được niềm vui vô tận Chúa ban14.
Giáo Hội nghiêm cấm việc ép buộc hoặc dùng những cách thế bất chính để dụ dỗ hay lôi kéo người khác tin đạo, đồng thời cũng cương quyết phản đối việc dùng các phương sách ngược đãi bất công để buộc người khác phải rời bỏ niềm tin15.
Ngay từ xa xưa, Giáo Hội vẫn luôn quan tâm nghiệm xét và nếu cần, phải thanh luyện các động lực tòng giáo.
14.
Đối với những người đã được Thiên Chúa ban cho niềm tin vào Chúa Kitô qua Giáo Hội16, hãy cử hành những lễ nghi phụng vụ tiếp nhận họ vào lớp dự tòng; đây không chỉ giản đơn là một giảng khoá để trình bày về giáo thuyết và các giới răn, nhưng là chương trình đào tạo cho toàn bộ đời sống Kitô hữu, đồng thời cũng là thời gian tập sự cần thiết, để giúp các môn sinh sống mối tương giao với Thầy của mình là Chúa Kitô. Vì thế, các dự tòng phải được khai tâm đầy đủ về mầu nhiệm cứu độ, thực tập nếp sống theo Tin Mừng, và qua các nghi lễ thánh được cử hành theo từng giai đoạn nối tiếp nhau17, họ được dẫn nhập vào đời sống đức tin, phụng vụ và bác ái của đoàn Dân Thiên Chúa.
Sau đó, khi đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm nhờ việc lãnh nhận các bí tích gia nhập Kitô giáo18, cùng chết, cùng được mai táng và cùng sống lại với Chúa Kitô19, họ lãnh nhận Thánh Thần làm cho họ trở nên nghĩa tử20, và cùng với toàn thể Dân Chúa, họ cử hành lễ tưởng niệm việc Chúa chịu chết và sống lại.
Phụng vụ mùa Chay và mùa Phục sinh cần được tu chỉnh để giúp các dự tòng chuẩn bị tâm hồn cử hành mầu nhiệm Vượt qua với những nghi thức long trọng, trong đó họ được tái sinh nhờ Chúa Kitô qua bí tích Thánh Tẩy.
Việc khai tâm Kitô giáo trong thời gian dự tòng không chỉ là phận vụ riêng của các giảng viên giáo lý hay các linh mục, nhưng còn là trách nhiệm của cả cộng đoàn tín hữu, nhất là những người đỡ đầu, phải giúp các dự tòng ngay từ những ngày đầu tiên có thể cảm thấy mình được thuộc về Dân Chúa. Và vì đời sống của Giáo Hội gắn liền với sứ vụ tông đồ, nên các dự tòng cũng cần được hướng dẫn để tích cực cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng cũng như xây dựng Giáo Hội bằng chứng tá đời sống và lời tuyên xưng đức tin.
Sau cùng, bộ Giáo Luật mới phải xác định rõ ràng tình trạng pháp lý của các dự tòng. Vì vào lúc này họ đã được kết nạp vào Giáo Hội21, đã thuộc về gia đình Chúa Kitô22 và thường thì họ cũng đã thực thi đời sống tin, cậy, mến.
Mục 3
VIỆC THÀNH LẬP CỘNG ĐOÀN KITÔ GIÁO
15.
Nhờ hạt giống Lời Chúa và việc rao giảng Tin Mừng, Chúa Thánh Thần kêu gọi mọi người đến với Chúa Kitô và thúc đẩy họ vâng phục đức tin, và khi tái sinh những kẻ tin Chúa Kitô trong giếng nước Rửa Tội để sống đời sống mới, Ngài tập họp họ thành đoàn dân duy nhất của Thiên Chúa, nên “dòng dõi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa” (1 Pr 2,9)23.
Vì thế, các vị thừa sai, những cộng sự viên của Thiên Chúa24, phải gầy dựng những cộng đoàn tín hữu biết sống xứng đáng với ơn phúc được Thiên Chúa kêu gọi25, để có thể thi hành các chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế Thiên Chúa đã trao ban. Đó chính là cách thế để cộng đoàn Kitô hữu trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian: thật vậy, nhờ Hiến Tế Thánh Thể, họ không ngừng đến với Chúa Cha cùng với Chúa Kitô26, và khi đã được ân cần nuôi dưỡng bằng Lời Chúa27, họ làm chứng cho Chúa Kitô28, và sau cùng dấn bước trong đức ái và nên nhiệt thành trong tinh thần tông đồ29.
Ngay từ lúc hình thành, cộng đoàn Kitô hữu cần được gầy dựng sao cho có được khả năng tự túc tối đa về những nhu cầu thiết yếu.
Cộng đoàn tín hữu, đã tiếp nhận kho tàng văn hoá đặc thù của đất nước, phải luôn bám rễ sâu trong lòng dân tộc: ở đó, các gia đình luôn thăng tiến nhờ được thấm nhuần tinh thần Tin Mừng30, và được nâng đỡ bởi các trường học có chất lượng; phải tổ chức các hội đoàn và các nhóm hoạt động tông đồ giáo dân để làm cho tinh thần Tin Mừng thấm nhập vào toàn thể cộng đồng xã hội. Sau cùng, những người công giáo thuộc các Nghi chế khác nhau hãy thể hiện mối giao hảo toả sáng tình bác ái yêu thương31.
Cũng phải quan tâm nuôi dưỡng tinh thần đại kết nơi các tân tòng, để họ nhận thức rõ rằng những anh em tin vào Chúa Kitô cũng là môn đệ Chúa Kitô, đã được tái sinh nhờ phép Rửa, được chia sẻ nhiều ơn phúc với đoàn Dân Chúa. Trong mức độ điều kiện về tín ngưỡng cho phép, phải tìm cách phát động công cuộc đại kết, để khi đã gạt bỏ những thái độ dửng dưng, nhầm lẫn, hay đối kháng vô lối, người công giáo sẽ nỗ lực tối đa trong thái độ hợp tác huynh đệ với những anh em ly khai theo các nguyên tắc trong Sắc lệnh về Đại kết, qua việc cùng nhau tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô trước mặt muôn dân, và cùng cộng tác hoạt động trong các lãnh vực xã hội, kỹ thuật cũng như văn hoá và tôn giáo. Họ cộng tác với nhau trước tiên vì Đức Kitô, Chúa chung của mọi người: xin cho Thánh Danh Người đưa họ lại gần nhau! Việc cộng tác này nên được thực hiện không chỉ giữa các cá nhân với nhau, nhưng còn giữa các Giáo Hội hoặc những cộng đồng Giáo Hội trong các công trình chung, tuỳ theo sự phân định của Đấng Bản quyền địa phương.
Các Kitô hữu được quy tụ từ giữa Lương dân vào trong Giáo Hội, “không có gì khác biệt với những người khác xét về thể chế xã hội, về ngôn ngữ, hay về tư cách công dân”32, nên họ phải sống cho Thiên Chúa và cho Chúa Kitô với chính phong cách sống tốt lành của dân tộc mình; là công dân tốt, họ phải thực sự và tích cực vun đắp lòng yêu nước, tuy nhiên phải tuyệt đối tránh xa thái độ phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa quốc gia quá khích, phải cổ vũ tình yêu thương đại đồng nơi mọi người.
Trong hoạt động nhắm tới những mục tiêu trên, giáo dân, nghĩa là các Kitô hữu đã thuộc về Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy và đang sống giữa thế gian, giữ một vai trò rất quan trọng và đáng được đặc biệt lưu tâm. Thật vậy, được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô, bổn phận của họ là nên như nắm men vùi trong bột để tác động từ bên trong và điều hướng các thực tại trần thế luôn tiến hành theo ý Chúa Kitô33.
Tuy nhiên, không phải chỉ cần hiện diện và được thiết lập trong một dân tộc nào đó, hay chỉ cần làm việc tông đồ bằng gương lành là đã đủ, nhưng đoàn dân Kitô hữu được thiết lập và hiện diện chính là để dùng lời nói và việc làm loan báo Chúa Kitô cho anh chị em đồng bào ngoài Kitô giáo, và giúp họ đón nhận Chúa Kitô cách trọn vẹn.
Ngoài ra, việc gầy dựng Giáo Hội và phát triển cộng đoàn Kitô hữu cần đến các tác vụ đa dạng, hình thành do ý Chúa ngay tại chính cộng đoàn tín hữu, nên phải được mọi người đặc biệt quan tâm phát huy và quý trọng, trong đó có chức linh mục, phó tế và giảng viên giáo lý cũng như công giáo tiến hành. Cũng thế, nhờ vào lời cầu nguyện hay những hoạt động tích cực, các tu sĩ nam nữ phải thi hành một phận vụ thiết yếu là làm cho Vương quốc Chúa Kitô được thiết lập và củng cố nơi các tâm hồn và luôn tăng triển thêm mãi.
16.
Giáo Hội hân hoan cảm tạ Thiên Chúa đã rộng ban hồng ân vô giá là ơn thiên triệu linh mục cho rất nhiều người trẻ trong các dân tộc vừa mới trở lại với Chúa Kitô. Thật vậy, Giáo Hội càng bén rễ vững chắc hơn nơi cộng đồng địa phương, khi chính các thành viên của cộng đoàn tín hữu trở thành thừa tác viên của ơn cứu độ, thuộc hàng Giám mục, Linh mục cũng như Phó tế, để phục vụ anh chị em mình, và như thế, tại các Giáo Hội mới thành lập, dần dần hình thành cơ cấu giáo phận với hàng giáo sĩ riêng.
Những quyết định của Công Đồng liên quan đến vấn đề ơn gọi và đào tạo linh mục, phải được tuân giữ nghiêm túc tại những nơi Giáo Hội mới được gầy dựng, cũng như trong những Giáo Hội còn non trẻ. Phải đặc biệt chú trọng đến các chỉ thị về yêu cầu phối kết chặt chẽ chương trình đào tạo trong các lãnh vực tu đức, giáo thuyết và mục vụ, về ý hướng sống theo chuẩn mực Tin Mừng chứ không tìm lợi lộc cho bản thân hay cho gia đình, về nỗ lực tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáo Hội. Từ đó, họ học biết cách tận hiến toàn thân để phục vụ Nhiệm Thể Chúa Kitô và rao giảng Tin Mừng, biết liên kết với Giám mục như những cộng sự viên trung thành, đồng thời cộng tác với các anh em đồng sự34.
Để đạt tới mục tiêu này, toàn bộ chương trình đào tạo chủng sinh phải được xây dựng dưới ánh sáng của mầu nhiệm cứu rỗi như đã được trình bày trong Thánh Kinh. Các chủng sinh phải tìm hiểu và sống mầu nhiệm Chúa Kitô, cũng như mầu nhiệm cứu độ nhân loại được thực hiện trong Phụng vụ35.
Những đòi hỏi chung đối với việc đào luyện các ứng viên linh mục trong lãnh vực mục vụ và thực hành, theo như tiêu chuẩn của Công Đồng36, phải được phối hợp với nỗ lực tiếp cận lối suy tư và hành xử đặc thù của từng dân tộc. Vì thế, tâm trí chủng sinh phải uyên bác và tinh tế để có thể hiểu biết và phán đoán đúng đắn về nền văn hoá dân tộc; trong các môn triết học và thần học, chủng sinh phải tìm hiểu thấu đáo những luận điểm tạo nên khác biệt giữa truyền thống và tôn giáo dân tộc với Kitô giáo37. Cũng thế, việc đào luyện phải hướng đến những nhu cầu mục vụ của từng miền: chủng sinh phải học biết lịch sử, mục tiêu và phương pháp hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, cũng như những hoàn cảnh đặc biệt về xã hội, kinh tế và văn hoá của dân tộc. Họ phải được giáo dục trong tinh thần đại kết và cần được chuẩn bị đầy đủ để có thể đối thoại trong tình huynh đệ với những người ngoài Kitô giáo38. Tất cả điều đó đòi hỏi phải tạo điều kiện tối đa để việc học tập hướng đến chức linh mục được thực hiện tại chính khung cảnh sống và trong mối liên hệ gắn bó với dân tộc39. Sau nữa, cũng phải lưu tâm đào tạo khả năng quản trị trong lãnh vực tổ chức giáo đoàn, và cả trong lãnh vực kinh tế.
Ngoài ra, phải chọn một số linh mục có năng lực, sau một thời gian hoạt động mục vụ, sẽ theo học các cấp cao hơn tại các Đại Học, kể cả ở ngoại quốc, nhất là ở Rôma, và tại các Học Viện khoa học khác, nhằm cung ứng cho hàng giáo sĩ địa phương, nơi các Giáo Hội trẻ, những linh mục có kiến thức và kinh nghiệm tương xứng để đảm trách những giáo vụ khó khăn hơn.
Nếu xét thấy thích hợp, Hội đồng Giám mục nên tái xác lập bậc sống phó tế vĩnh viễn theo tiêu chuẩn của Hiến Chế “về Giáo Hội”40. Quả thật, đối với những người đang đảm nhận một tác vụ đúng ra thuộc về các phó tế, hoặc đang dạy Lời Chúa với tư cách là giảng viên giáo lý, hoặc đang thay mặt cha xứ và Giám mục điều hành các cộng đoàn Kitô hữu ở những vùng xa, hoặc đang hoạt động bác ái trong các tổ chức xã hội hay từ thiện, định chế này sẽ giúp họ được kiên vững hơn nhờ việc đặt tay do các Tông đồ truyền lại, được liên kết gần gũi hơn với bàn thánh, để thi hành thừa tác vụ cách hữu hiệu hơn nhờ ân sủng bí tích của thánh chức phó tế.
17.
Cũng thế, liên quan đến việc truyền giáo cho lương dân, phải thật sự đề cao công lao to lớn của đội ngũ giảng viên giáo lý, nam cũng như nữ, những người thấm nhuần tinh thần tông đồ, đã vất vả rất nhiều để mang lại sự hỗ trợ đặc biệt và vô cùng cần thiết cho việc truyền bá đức tin và mở rộng Giáo Hội.
Hiện nay, vì số giáo sĩ không đủ để đáp ứng cho việc rao giảng Tin Mừng cũng như thi hành mục vụ cho lượng người quá đông, nên phận vụ của các giảng viên giáo lý lại càng trở nên quan trọng hơn. Do đó, chương trình đào tạo giảng viên giáo lý phải được tiến hành, đồng thời cũng phải thích ứng với đà tiến bộ văn hoá, giúp các cộng tác viên đắc lực này của hàng Linh mục có thể thực thi cách tốt đẹp nhất phận vụ họ đang đảm trách, một phận vụ ngày càng thêm nặng nề với những trọng trách mới và rộng lớn hơn.
Vì thế, phải tăng thêm nhiều cơ sở cấp giáo phận và cấp vùng, trong đó các giảng viên giáo lý tương lai vừa được hướng dẫn về giáo lý công giáo, nhất là về môn Thánh Kinh và Phụng vụ, vừa được học hỏi về phương pháp sư phạm Giáo lý và thực hành mục vụ, đồng thời cũng tự đào luyện trong nếp sống luân lý Kitô giáo41, bằng cách không ngừng cố gắng trau dồi phẩm chất đạo đức và thánh thiện trong cuộc sống. Ngoài ra, nên có những buổi hội thảo hay những khoá học định kỳ, để các giảng viên giáo lý có thể cập nhật kiến thức về những môn học hay các kỹ năng hữu ích cho tác vụ, cũng như để nuôi dưỡng và củng cố đời sống thiêng liêng. Hơn nữa, đối với những người dấn thân hoàn toàn cho việc dạy giáo lý, hãy cấp cho họ một khoản thù lao cân xứng để có được mức sống xứng đáng và được bảo đảm về mặt an sinh xã hội42.
Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin sẽ cung ứng tương xứng những khoản trợ cấp đặc biệt cho công cuộc đào tạo và hỗ trợ các giảng viên giáo lý. Nếu thấy cần và thích hợp, cũng nên thành lập một Tổ chức tài trợ cho các giảng viên giáo lý.
Ngoài ra các Giáo Hội cũng tri ân sự hỗ trợ quảng đại và vô cùng cần thiết của các trợ tá giảng viên giáo lý. Chính họ chủ sự các buổi đọc kinh chung và dạy giáo lý trong cộng đoàn. Vì thế, phải đặc biệt lo cho họ được đào tạo về giáo lý và đời sống tu đức. Ngoài ra, nếu có điều kiện thuận lợi, nên cử hành công khai một nghi thức phụng vụ để ủy thác sứ vụ theo giáo luật cho các giảng viên giáo lý đã được đào tạo chính quy, để họ có thêm uy tín đối với dân chúng trong công tác phục vụ đức tin.
18.
Ngay từ giai đoạn bắt đầu gầy dựng Giáo Hội, hãy quan tâm cổ vũ nếp sống tu trì, một bậc sống không những đem lại sự hỗ trợ quý báu và vô cùng cần thiết cho hoạt động truyền giáo, nhưng còn bày tỏ và diễn đạt rõ ràng bản tính sâu xa của ơn gọi Kitô hữu qua việc thánh hiến mật thiết hơn cho Thiên Chúa trong Giáo Hội43.
Khi tận tụy hoạt động để gầy dựng Giáo Hội, và thấm đẫm nguồn ơn phúc huyền nhiệm đã từng làm vẻ vang truyền thống tu trì của Giáo Hội, các Hội dòng phải nỗ lực diễn tả và chuyển thông nguồn ơn phúc đó hợp với năng lực và đặc tính của mỗi dân tộc. Phải quan tâm tìm ra phương thức để đời sống tu trì Kitô giáo có thể tiếp nhận những truyền thống khổ hạnh và chiêm niệm, đôi khi đã được Thiên Chúa gieo mầm trong các nền văn hoá cổ truyền trước khi Tin Mừng được rao giảng.
Những dạng thức phong phú của đời sống tu trì phải được vun trồng nơi các Giáo Hội trẻ, để vừa cho thấy các khía cạnh khác nhau trong sứ mệnh của Chúa Kitô và đời sống của Giáo Hội, vừa nhiệt thành dấn thân phục vụ trong những công tác mục vụ đa dạng, đồng thời cũng chuẩn bị cho thành viên của các Hội dòng sẵn sàng thực thi các công tác đó. Tuy nhiên, Hội đồng Giám mục phải thận trọng, không nên nhận thêm nhiều Tu hội có mục tiêu hoạt động tông đồ giống nhau, để tránh gây thiệt hại cho đời sống tu trì và chính công việc tông đồ.
Cũng cần đặc biệt nhắc tới những đề xướng liên quan đến việc gieo trồng đời sống chiêm niệm, có người chủ trương vẫn bảo toàn những yếu tố căn bản của định chế đan tu và nỗ lực gầy dựng truyền thống phong phú của Hội dòng, có người lại muốn trở về với những dạng thức đơn sơ hơn của nếp sống đan tu cổ truyền: nhưng trong mọi trường hợp, tất cả đều phải cố gắng tìm cách để thực sự thích nghi với những hoàn cảnh địa phương. Nên thiết lập khắp nơi đời sống chiêm niệm, vì điều đó giúp cho sự hiện diện của Giáo Hội được thêm trọn vẹn.
CHƯƠNG III
CÁC GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
19.
Việc gầy dựng Giáo Hội nơi một cộng đồng nhất định được kể như đã đạt chỉ tiêu, khi cộng đoàn tín hữu đã bén rễ trong đời sống xã hội và đã hoà hợp phần nào với văn hoá địa phương, đồng thời cũng đã ổn định và vững mạnh, nghĩa là đã có nguồn nhân lực riêng khá dồi dào, tuy chưa hẳn là đầy đủ, gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân địa phương, đã có những thừa tác vụ và những tổ chức cần thiết cho việc lãnh đạo và tăng triển đời sống của đoàn Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn của vị Giám mục bản quyền.
Trong những Giáo Hội còn non trẻ đó, đời sống Dân Chúa phải đạt đến sự trưởng thành về mọi phương diện của đời sống Kitô hữu được canh tân theo những nguyên tắc đã được Công Đồng đề ra, đó là các cộng đoàn tín hữu ngày càng ý thức hơn rằng mình phải trở nên những cộng đoàn sống đức tin, cử hành phụng vụ và thực thi bác ái; qua các hoạt động dân sự và tông đồ, người giáo dân phải nỗ lực kiến tạo bác ái và công bình trong xã hội; phải sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội cách thích hợp và khôn ngoan; các gia đình phải sống đời Kitô hữu đích thực để trở nên vườn ươm cho ơn gọi tông đồ giáo dân, cũng như ơn gọi linh mục và tu sĩ. Sau cùng, đức tin phải được hướng dẫn nhờ chương trình giáo lý thích hợp, được cử hành trong phụng vụ phù hợp với sắc thái dân tộc, và được đưa vào các tổ chức đoàn thể cũng như các tập tục địa phương, theo đúng quy định của giáo luật.
Phần các Giám mục, luôn hợp nhất với Linh mục đoàn của mình và ngày càng thấm nhuần cảm thức của Chúa Kitô và Giáo Hội, phải biết đồng cảm và chia sẻ cuộc sống cùng với Giáo Hội toàn cầu. Các Giáo Hội trẻ phải duy trì mối hiệp thông mật thiết với toàn thể Giáo Hội, và phải liên kết những yếu tố của truyền thống Giáo Hội với nền văn hoá địa phương, để đời sống Nhiệm Thể được tăng trưởng nhờ cuộc trao đổi song phương về nguồn năng lực1. Vì thế, phải biết vận dụng những yếu tố thần học, tâm lý và nhân bản có thể góp phần giúp phát huy cảm thức hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.
Tuy nhiên, thường các Giáo Hội trẻ lại thuộc những miền khá nghèo trên thế giới, nên nhiều khi vẫn còn thiếu, thậm chí thiếu rất nhiều, về số linh mục cũng như những viện trợ vật chất. Vì thế, tổ chức tiến hành truyền giáo của toàn thể Giáo Hội phải đảm nhận việc trợ cấp để ưu tiên giúp cho Giáo Hội địa phương phát triển và đời sống Kitô hữu được tăng trưởng. Tổ chức truyền giáo này cũng phải hỗ trợ các Giáo Hội tuy đã thành lập từ lâu, nhưng hiện đang rơi vào tình trạng thoái hoá và suy yếu.
Tuy nhiên, các Giáo Hội đó phải tìm cách phục hồi nhiệt tình mục vụ nơi mọi người và có những hoạt động thích ứng, để cổ vũ cho ơn gọi giáo sĩ giáo phận và ơn gọi tu sĩ được tăng số, được phân định cách xác đáng hơn và được huấn luyện cách hữu hiệu hơn2, để dần dần chính họ có thể tự túc và giúp đỡ các Giáo Hội khác nữa.
20.
Là phản ảnh hoàn hảo của Giáo Hội hoàn vũ, Giáo Hội địa phương phải xác tín rằng chính mình cũng được sai đến với những người chưa tin vào Chúa Kitô đang sống trong cùng địa hạt, để nhờ chứng tá đời sống của mỗi tín hữu và toàn thể cộng đoàn, họ trở nên dấu chỉ cho mọi người nhận biết Chúa Kitô.
Ngoài ra, tác vụ rao giảng Lời Chúa thật cần thiết để đem Tin Mừng đến với mọi người. Vì thế, Giám mục trước tiên phải là người loan truyền đức tin để đưa thêm nhiều môn đệ mới đến với Chúa Kitô3. Để chu toàn tốt đẹp phận vụ cao cả đó, Giám mục phải thấu hiểu tường tận hoàn cảnh sống của đoàn chiên, cũng như những quan điểm riêng tư của dân chúng địa phương về Thiên Chúa, đồng thời cũng phải đặc biệt quan tâm đến những chuyển biến phát sinh từ hiện tượng vẫn được gọi là đô thị hoá, di dân và thái độ lãnh đạm đối với tôn giáo.
Các linh mục bản xứ tại những Giáo Hội trẻ phải nhiệt thành dấn thân rao giảng Tin Mừng, bằng cách tiến hành hoạt động chung với những vị thừa sai ngoại quốc, họp nhau thành một Linh mục đoàn duy nhất, liên kết dưới quyền Giám mục, không những để chăn dắt các tín hữu và cử hành việc phụng tự, nhưng còn để loan báo Tin Mừng cho những người còn ở ngoài Giáo Hội. Các ngài phải luôn sẵn sàng, và khi được mời gọi, hãy hăng hái tình nguyện để được Giám mục sai đi truyền giáo tại những vùng xa xôi hẻo lánh, tại chính giáo phận nhà hoặc nơi các giáo phận khác.
Các tu sĩ nam nữ và cả giáo dân cũng hãy thể hiện nhiệt tâm truyền giáo đối với anh chị em đồng bào, nhất là những người nghèo khổ.
Các Hội đồng Giám mục nên quan tâm tổ chức những khoá tu nghiệp định kỳ về Thánh Kinh, thần học, tu đức và mục vụ, để giúp hàng giáo sĩ có được kiến thức đầy đủ hơn về thần học và phương pháp mục vụ, khi phải thi hành tác vụ giữa những phức tạp và biến chuyển của thế sự.
Đàng khác, cũng phải tuân giữ chu đáo những điều Công Đồng đã quyết nghị, đặc biệt trong Sắc lệnh về Tác vụ và đời sống linh mục.
Để công cuộc truyền giáo đạt được kết quả, Giáo Hội địa phương cần có những thừa tác viên đủ năng lực, được chuẩn bị kịp thời và thích hợp với hoàn cảnh của từng Giáo Hội. Con người ngày càng sống quy tụ thành những cộng đồng, vì thế các Hội đồng Giám mục nên có những kế hoạch chung để tiến hành đối thoại với các cộng đồng ấy. Trong trường hợp tại một nơi nào đó có những nhóm người không muốn đón nhận đức tin công giáo chỉ vì không thể thích ứng với dạng thức sinh hoạt đặc thù của Giáo Hội tại địa phương, cần tìm ra một phương thức đặc biệt thích hợp với hoàn cảnh4, cho đến khi tất cả các Kitô hữu có thể quy tụ thành một cộng đoàn duy nhất. Nếu Toà Thánh có được một số thừa sai dành riêng cho việc quy tụ cộng đoàn, các Giám mục nên ngỏ ý mời, hoặc sẵn lòng đón nhận vào giáo phận, và tích cực ủng hộ hoạt động của những nhà truyền giáo này.
Để nhiệt tâm truyền giáo được phát huy nơi chính những anh em bản xứ, các Giáo Hội trẻ nên tích cực tham gia vào công cuộc truyền giáo phổ quát của Giáo Hội, bằng cách gửi những vị thừa sai đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi trên hoàn cầu, ngay cả khi tại địa phương vẫn còn thiếu giáo sĩ. Thật vậy, tình hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ sẽ nên trọn hảo khi chính các Giáo Hội trẻ cũng tích cực tham gia và hoạt động truyền giáo nơi các dân tộc khác.
21.
Nếu như hàng Giáo dân chưa chính thức thành hình và chưa hoạt động bên cạnh hàng Giáo phẩm, lúc đó Giáo Hội vẫn chưa thực sự được thiết lập, chưa sống trọn vẹn, cũng như chưa trở nên dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Kitô giữa loài người. Thật vậy, Tin Mừng không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Vì thế, ngay khi gầy dựng Giáo Hội, đã phải chú tâm tối đa đến việc đào tạo các Kitô hữu giáo dân trưởng thành.
Thật vậy, các tín hữu giáo dân trọn vẹn thuộc về Dân Chúa đồng thời cũng thuộc về xã hội trần thế: một đàng, họ thuộc về đất nước nơi họ sinh ra, được chia sẻ kho tàng văn hoá dân tộc nhờ nền giáo dục, liên kết với đời sống dân tộc bằng nhiều mối liên hệ xã hội khác nhau, cộng tác vào sự tiến bộ của quốc gia qua nghề nghiệp, cảm nhận và nỗ lực giải quyết những vấn đề của dân tộc như là những vấn đề của chính bản thân; đàng khác, họ là người của Chúa Kitô vì đã được tái sinh trong Giáo Hội bằng đức tin và phép Rửa, để nhờ đổi mới đời sống và các việc làm, họ trở nên những người thuộc về Chúa Kitô5, và cũng để mọi sự quy phục Thiên Chúa trong Chúa Kitô và như thế, Thiên Chúa nên tất cả trong mọi sự6.
Phận vụ chính của giáo dân, nam cũng như nữ, là làm chứng về Chúa Kitô bằng cách sống cũng như bằng lời nói, trong gia đình, trong các đoàn thể xã hội, cũng như trong môi trường nghề nghiệp. Thật vậy, họ phải biểu lộ con người mới đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, trong sự công chính và thánh thiện đến từ chân lý7. Họ phải thể hiện nếp sống mới đó trong môi trường xã hội và văn hoá của đất nước, hợp với truyền thống dân tộc. Họ phải nghiên cứu, hoàn chỉnh, bảo toàn, cập nhật, và sau cùng phải hoàn thiện nền văn hoá đó trong Chúa Kitô, để niềm tin vào Chúa Kitô và đời sống Giáo Hội không còn xa lạ với cộng đồng họ đang sống, nhưng bắt đầu thấm vào và biến đổi xã hội. Họ phải sống gắn bó với mọi người chung quanh bằng tình bác ái chân thành, để trong mối tương giao giữa cộng đồng, hình thành mối dây liên kết mới của sự hiệp nhất và tình liên đới đại đồng khởi phát từ mầu nhiệm Chúa Kitô. Họ cũng phải gieo rắc niềm tin vào Chúa Kitô nơi những người có chung môi trường sống hay cùng chung ngành nghề; đây là một nhiệm vụ khẩn thiết vì nhiều người chỉ có thể nghe Tin Mừng và nhận biết Chúa Kitô nhờ những giáo dân sống gần bên họ. Hơn nữa, nơi nào có thể, giáo dân phải được chuẩn bị để cộng tác trực tiếp hơn với hàng Giáo phẩm trong việc thực thi sứ mệnh đặc biệt là loan báo Tin Mừng và truyền thông giáo lý Kitô giáo, để Giáo Hội mới khai sinh được thêm vững mạnh.
Các thừa tác viên của Giáo Hội phải đánh giá cao việc tông đồ đầy khó khăn của người giáo dân. Các ngài phải đào tạo cho người giáo dân, với tư cách là chi thể của Chúa Kitô, luôn ý thức về trách nhiệm của họ đối với tất cả mọi người; phải giúp họ thấu hiểu sâu xa về mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ dẫn họ những phương pháp thực hành, và đồng hành với họ trong những lúc khó khăn, theo tinh thần của Hiến chế về Giáo Hội và Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân.
Vì thế, trong khi Chủ chăn và giáo dân vẫn giữ đúng phận vụ và trách nhiệm riêng của mình, tất cả mọi người trong Giáo Hội mới thiết lập phải trở thành lời chứng duy nhất, sống động và kiên định về Chúa Kitô, để trở nên dấu chỉ rõ ràng của ơn cứu rỗi đã được trao ban cho chúng ta trong Chúa Kitô.
22.
Hạt giống Lời Chúa, vừa nẩy mầm trong thửa đất màu mỡ thấm nhuần sương trời tuôn đổ, đang tiếp nhận, chuyển biến và tiêu hoá dòng nhựa sống, để sau cùng mang lại hoa trái dồi dào. Thật vậy, theo cùng cách thức của mầu nhiệm Nhập Thể, các Giáo Hội trẻ, khi đã cắm rễ sâu trong Chúa Kitô và được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ, nhờ cuộc trao đổi kỳ diệu, tiếp nhận tất cả gia sản phong phú của các dân tộc đã được trao cho Chúa Kitô làm cơ nghiệp8. Từ các tập quán và truyền thống, từ sự khôn ngoan và nền đạo lý, từ những nghệ thuật và khoa học của dân tộc, các Giáo Hội trẻ phải biết chắt lọc tất cả những gì có thể góp phần vào việc tuyên xưng vinh quang của Đấng Tạo Hoá, làm rạng ngời ân sủng của Đấng Cứu Chuộc và thể hiện tốt đẹp đời sống Kitô hữu9.
Để đạt tới kết quả đó, tại mỗi địa hạt văn hoá-xã hội, như vẫn thường gọi, cần thúc đẩy việc suy tư thần học, để trong khi vẫn dõi theo Truyền thống của Giáo Hội hoàn vũ, sẽ nghiên cứu sâu rộng hơn những gì đã được mặc khải qua hành động và ngôn từ của Thiên Chúa, được ghi chép trong Sách Thánh và đã được các Giáo Phụ và Huấn Quyền giải thích. Như thế sẽ giúp nhận thấy rõ ràng hơn những lối đi mở đường cho đức tin có thể tìm gặp lý trí, sau khi đã tiếp thu nền triết lý hay lẽ khôn ngoan của các dân tộc, đồng thời cũng tìm ra những phương thức để các phong tục, quan điểm sống và trật tự xã hội có thể hoà hợp với những chuẩn mực đời sống do Chúa mặc khải. Từ đó sẽ mở ra những con đường để thích nghi sâu xa hơn nữa trong mọi lãnh vực của đời sống Kitô hữu. Nhờ nguyên tắc hành động đó, những hình thức chủ nghĩa hoà đồng và chủ nghĩa duy cá thể sai lạc sẽ bị loại trừ, đời sống Kitô hữu sẽ được thích nghi với tinh hoa và đặc tính của từng nền văn hóa10, đồng thời những truyền thống đặc thù và những phẩm cách cá biệt của mỗi gia đình dân tộc, sau khi đã được ánh sáng Tin Mừng chiếu soi, sẽ được tiếp nhận trong sự hiệp nhất mang tính công giáo của Giáo Hội. Như thế, các Giáo Hội mới tại các địa phương, cùng với những truyền thống tốt đẹp đặc thù, vẫn có chỗ đứng trong tình hiệp thông Giáo Hội, dĩ nhiên vẫn bảo toàn quyền tối thượng của ngai toà Phêrô với tư cách chủ sự toàn thể cộng đoàn đức ái11.
Vì thế, điều đáng ước mong và cũng rất thích hợp, là những Hội đồng Giám mục ở các địa hạt văn hoá-xã hội luôn liên kết với nhau, để có thể đồng tâm hợp ý thực hiện lâu dài công cuộc thích nghi đó.
CHƯƠNG IV
CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO
23.
Dù tất cả các môn đệ của Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần vào công cuộc gieo trồng đức tin1, nhưng trong số các môn đệ, Chúa Kitô vẫn luôn kêu gọi những kẻ Người muốn, để họ ở với Người và để Người sai đi giảng dạy muôn dân2. Vì thế, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng phân phát các đặc sủng tuỳ theo ý Ngài vì lợi ích chung3, Chúa Kitô khơi dậy ơn gọi truyền giáo trong tâm hồn từng cá nhân, đồng thời làm xuất hiện trong Giáo Hội những tổ chức4 đặc biệt đảm trách phận vụ truyền bá Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội.
Những người có tư chất thích hợp, đủ năng lực tinh thần và trí tuệ, sẵn sàng đảm nhận công tác truyền giáo, đều được kể là có ơn gọi đặc biệt5, dù là người địa phương hay ngoại quốc, là linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Được những vị có thẩm quyền hợp pháp sai đi, với đức tin và thái độ vâng phục, họ ra đi đến với những người đang còn xa cách Chúa Kitô, bởi họ được dành riêng để lo công việc Chúa đã gọi họ thi hành6 với tư cách là thừa tác viên của Tin Mừng, “để hiến lễ của chư dân được chấp nhận và thánh hoá trong Chúa Thánh Thần” (Rm 15,16).
24.
Con người phải đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa đến độ không còn lệ thuộc vào xác thịt tự nhiên7 để hoàn toàn dấn thân phục vụ Tin Mừng. Nhưng thái độ đáp trả này chỉ có thể thực hiện dưới sự thúc đẩy và trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, kẻ được sai đi phải hoà nhập vào đời sống và sứ vụ của Đấng đã “tự hủy mình đi khi nhận lấy thân nô lệ” (Pl 2,7). Do đó, họ phải sẵn sàng để suốt đời kiên vững trong ơn gọi, phải từ bỏ chính mình cũng như tất cả những gì mình có và “trở nên tất cả cho mọi người” (1 Cr 9,22).
Khi rao giảng Tin Mừng giữa muôn dân, nhà truyền giáo chính là người đặc sứ đầy xác tín có trách nhiệm phải công bố mầu nhiệm Chúa Kitô, đến độ trong Người, họ mạnh dạn lên tiếng vì bổn phận phải nói8, và không xấu hổ về sự ô nhục của thập giá. Theo gương vị Thầy hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, họ muốn chứng tỏ ách của Người êm ái và gánh của Người nhẹ nhàng9. Bằng nếp sống theo Tin Mừng đích thực10, với thái độ kiên nhẫn, đại lượng, nhân hậu, yêu thương chân thành11, họ phải làm chứng cho Chúa đến độ nếu cần, cũng phải sẵn sàng đổ máu. Thiên Chúa sẽ ban cho họ lòng can đảm và sức mạnh, để họ vẫn được chan chứa niềm vui giữa bao gian truân thử thách và khó nghèo cùng cực12. Họ phải luôn xác tín rằng đức vâng phục chính là sức mạnh đặc biệt cho những thừa tác viên của Chúa Kitô, Đấng đã cứu độ nhân loại trong vâng phục.
Những người rao giảng Tin Mừng đừng thờ ơ với ân sủng đã lãnh nhận, nhưng hãy để Thánh Thần đổi mới tâm trí mỗi ngày13. Vì thế, các Đấng Bản quyền và các vị Bề trên nên ấn định thời gian để quy tụ các nhà truyền giáo, giúp họ được củng cố trong niềm cậy trông của ơn gọi, và luôn được đổi mới trong tác vụ tông đồ, đồng thời cũng nên lập các cơ sở thích hợp cho công việc này.
25.
Để có thể đảm nhận trọng trách truyền giáo, các thừa sai tương lai phải được đào tạo đặc biệt về phương diện tu đức và luân lý14. Thật vậy, họ phải biết nhanh chóng tiến hành và kiên trì hoàn thành công tác, bền chí trong khó khăn, nhẫn nại và can đảm chịu đựng nỗi cô quạnh, sự mệt nhọc và cả những công việc chưa thấy được kết quả. Họ phải biết gặp gỡ mọi người với tâm hồn cởi mở và con tim trải rộng; tự nguyện đảm nhận phận vụ được giao phó; sẵn sàng thích nghi cả với những phong tục mới lạ nơi các dân tộc và những thay đổi trong điều kiện sinh hoạt; cộng tác với anh em và những người đang cùng dấn thân hoạt động truyền giáo trong thái độ hoà hợp và yêu thương, để cùng với các tín hữu noi gương cộng đoàn thời các Tông đồ, luôn đồng tâm nhất trí với nhau15.
Ngay trong giai đoạn đào tạo, những tâm hướng đó phải được chuyên cần thực tập, trau dồi, phát triển, và được nuôi dưỡng nhờ đời sống thiêng liêng. Thấm nhuần đức tin sống động và đức cậy vững vàng, nhà truyền giáo phải là con người cầu nguyện; phải hăng say nhiệt thành trong tinh thần can đảm, yêu thương và tự chủ16; phải học quen tự túc trong mọi hoàn cảnh17; phải có tinh thần hy sinh, luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Chúa tác động trong những người họ được sai đến18; vì lòng nhiệt thành đối với các linh hồn, họ phải tự nguyện hy sinh mọi sự và tiêu hao chính bản thân vì các linh hồn19, để từ đó họ “tăng trưởng trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân qua việc thi hành phận vụ hằng ngày”20. Như thế, vâng ý Chúa Cha, họ tiếp nối sứ mệnh của Chúa Kitô, cùng với Người và dưới quyền bính phẩm trật trong Giáo Hội, và cộng tác vào mầu nhiệm cứu rỗi.
26.
Những ai được sai đến với các dân tộc phải trở nên những người phục vụ tốt của Chúa Kitô, được nuôi dưỡng bằng “lời đức tin và giáo lý cao đẹp” (1 Tm 4,6) mà họ kín múc trước hết từ Thánh Kinh, trong khi vẫn luôn tìm hiểu thấu đáo Mầu nhiệm Chúa Kitô, Đấng họ phải rao giảng và làm chứng.
Vì thế, phải chuẩn bị và đào tạo các nhà truyền giáo – linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân – tuỳ theo điều kiện riêng của mỗi người để có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi của công việc họ sẽ thực hiện21. Ngay từ đầu, chương trình học hỏi về giáo thuyết phải trình bày cả tính cách phổ quát của Giáo Hội lẫn thực trạng dị biệt của các dân tộc. Yêu cầu này cũng có giá trị đối với các môn học chuẩn bị cho việc thực thi tác vụ, cả với những khoa học hữu ích khác giúp họ có kiến thức tổng quát về các dân tộc, các nền văn hoá, các tôn giáo, trong quá khứ cũng như trong thời hiện tại. Thật vậy, khi đến với dân tộc nào, phải thật sự quý trọng di sản, tiếng nói và phong tục của dân tộc đó. Nhà truyền giáo tương lai trước tiên phải chuyên tâm học hỏi khoa truyền giáo, nghĩa là thấu hiểu giáo thuyết và những quy tắc của Giáo Hội về hoạt động truyền giáo, biết các lối đường những người rao giảng Tin Mừng đã từng rảo bước suốt bao thế kỷ qua, và cả tình trạng hiện thời của công cuộc truyền giáo, cũng như những phương pháp truyền giáo hiện được coi là hiệu nghiệm hơn cả22.
Mặc dù việc giáo dục toàn diện này phải giúp thấm nhuần cảm thức ưu tư mục vụ, nhưng cũng cần chú ý đến chương trình đào tạo đặc biệt và có hệ thống cho hoạt động tông đồ, cả về lý thuyết lẫn thực hành23.
Cần phải có thật nhiều nam nữ tu sĩ được học hỏi và chuẩn bị kỹ lưỡng về khoa sư phạm giáo lý, để có thể cộng tác đắc lực hơn vào công tác tông đồ.
Cả những người chỉ đảm nhận một phần công tác truyền giáo trong một thời hạn nào đó, cũng cần được huấn luyện tương xứng tuỳ vào những điều kiện thực tế.
Những phương thức đào tạo này phải được bổ túc ở chính những nơi mà các nhà truyền giáo được sai tới, để họ có được kiến thức sâu rộng hơn về lịch sử, cơ cấu xã hội và phong tục tập quán của các dân tộc, hiểu biết thấu đáo về trật tự luân lý, luật lệ tôn giáo và cả những quan niệm sâu kín hình thành từ những truyền thống thiêng liêng của các dân tộc về Thiên Chúa, về vũ trụ và về con người24. Vì thế, họ phải học sử dụng thông thạo và trôi chảy ngôn ngữ địa phương, để có thể dễ dàng tiếp cận với tâm trí và trái tim con người25. Ngoài ra, họ phải được hướng dẫn để hiểu rõ những nhu cầu mục vụ riêng biệt của địa phương.
Cũng phải có một số nhà truyền giáo được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn tại các Học viện Truyền Giáo hoặc những Phân khoa hay Đại học khác, để có thể thực thi hữu hiệu các phận vụ đặc biệt26, và dùng kiến thức uyên bác của mình để hỗ trợ các thừa sai trong hoạt động truyền giáo, một lãnh vực hiện nay vừa gặp nhiều khó khăn vừa có nhiều thuận lợi. Hơn nữa, cũng rất mong các Hội đồng Giám mục cấp vùng quy tụ một đội ngũ chuyên viên, nhờ họ đem kiến thức và kinh nghiệm để hỗ trợ hữu hiệu cho các nhu cầu trong phận vụ của các Giám mục. Cũng nên có những người biết sử dụng thông thạo các phương tiện kỹ thuật và truyền thông xã hội là những lãnh vực rất cần được lưu tâm.
27.
Tất cả những điều đó vô cùng cần thiết cho bất cứ ai được sai đến với lương dân, nhưng sẽ rất khó thực hiện đối với từng cá nhân. Thật vậy, kinh nghiệm cho thấy từng người riêng rẽ không thể chu toàn được công cuộc truyền giáo, vì thế những người có cùng chung ơn gọi đã quy tụ vào các tu hội, trong đó, nhờ công sức của nhiều người, họ được đào tạo cách thích hợp và thực thi sứ vụ truyền giáo nhân danh Giáo Hội và theo sự hướng dẫn của hàng Giáo phẩm. Từ nhiều thế kỷ nay, những tu hội này đã chấp nhận làm việc nặng nhọc, chịu nắng nôi thiêu đốt cả ngày, đã cống hiến trọn vẹn hoặc một phần hoạt động cho công cuộc truyền giáo đầy khó khăn. Toà Thánh thường ủy thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng tại những vùng đất rộng lớn, ở đó họ quy tụ đoàn dân mới cho Thiên Chúa là Giáo Hội địa phương luôn gắn kết với các chủ chăn. Đối với các Giáo Đoàn đã được gầy dựng bằng mồ hôi và có khi bằng cả máu, họ phải đem hết nhiệt tình và kinh nghiệm để phục vụ trong tinh thần cộng tác huynh đệ, hoặc qua việc coi sóc các linh hồn, hoặc qua những công tác đặc biệt hướng đến lợi ích chung.
Đôi khi các tu hội ấy phải đảm nhận một số công tác cấp thiết hơn cho cả địa hạt, chẳng hạn việc Phúc Âm hoá những cộng đồng hay những dân tộc, vì một số lý do đặc biệt nào đó, chưa nhận được hoặc vẫn còn chống lại sứ điệp Tin Mừng27.
Nếu cần, cũng phải sẵn sàng dùng kinh nghiệm để đào tạo và giúp đỡ những người dấn thân có thời hạn cho hoạt động truyền giáo.
Vì những lý do trên, và vì còn nhiều dân tộc phải được dẫn đưa về với Chúa Kitô, Giáo Hội vẫn đang rất cần đến các tu hội đó.
CHƯƠNG V
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
28.
Vì đã nhận được những ân huệ khác nhau1, nên mỗi Kitô hữu phải cộng tác vào công việc của Tin Mừng tuỳ theo khả năng, tài sức, đặc sủng và tác vụ của mình2. Do đó, tất cả mọi người, kẻ gieo và người gặt3, kẻ trồng cũng như người tưới, phải hợp nhất với nhau4, để “nhờ cùng nỗ lực trong tự do và trật tự hướng về một cứu cánh”5, họ đồng tâm chung sức xây dựng Giáo Hội.
Vì thế, phải điều hành và phối kết công việc của những người rao giảng Tin Mừng với sự trợ giúp của các Kitô hữu khác, để trong mọi lãnh vực hoạt động và hợp tác truyền giáo, “tất cả được thực hiện trong trật tự” (1 Cr 14,40).
29.
Loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới trước tiên là nhiệm vụ của Giám mục đoàn6, vì thế, Thượng Hội đồng Giám mục, tức “Hội đồng Giám mục thường trực phụ trách Giáo Hội toàn cầu”7, phải đặc biệt lưu tâm đến một trong những công tác có liên quan đến toàn thể Giáo Hội8, đó là hoạt động truyền giáo, một phận vụ rất quan trọng và thánh thiện của Giáo Hội9.
Đối với các xứ truyền giáo cũng như tất cả các hoạt động truyền giáo, chỉ một cơ quan Toà Thánh có thẩm quyền, đó là “Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin”, đảm trách việc điều hành và phối hợp công cuộc truyền giáo cũng như sự hợp tác truyền giáo trên toàn thế giới, tuy nhiên thẩm quyền của các Giáo Hội Đông phương vẫn được bảo toàn10.
Vẫn biết Chúa Thánh Thần có nhiều cách thức để khơi dậy tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội Chúa, và đôi khi Ngài còn đi trước cả hành động của những vị lãnh đạo đời sống Giáo Hội, tuy nhiên, riêng về phần mình, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin cũng phải cổ vũ ơn kêu gọi và tinh thần truyền giáo, lòng nhiệt thành và việc cầu nguyện cho các sứ vụ truyền giáo, đồng thời cũng phổ biến những thông tin chính thức và đầy đủ về hoạt động truyền giáo. Thánh Bộ cũng phải kêu gọi và phân bổ các nhà truyền giáo đến những nơi có nhu cầu cấp thiết hơn. Phải định hướng tổ chức hoạt động, đề ra các tiêu chuẩn hướng dẫn và nguyên tắc thích nghi cho công cuộc Phúc Âm hoá, đồng thời đẩy mạnh hoạt động truyền giáo. Phải phát động và phối hợp kế hoạch lạc quyên cho có kết quả và sau đó phân phối tuỳ theo nhu cầu hay lợi ích, theo diện tích, theo số tín hữu và lương dân, theo khối lượng công tác và tổ chức, cũng như theo số thừa tác viên và nhà truyền giáo.
Kết hợp với Văn Phòng cổ vũ sự hợp nhất các Kitô hữu, Thánh Bộ phải tìm kiếm đường lối và phương tiện để kiến tạo cũng như tổ chức sự cộng tác huynh đệ, phối hợp với những đề xuất truyền giáo của các cộng đồng Kitô giáo khác, nhờ đó giảm bớt tối đa gương xấu của sự chia rẽ phân ly.
Như thế, Thánh Bộ Truyền Giáo phải vừa là phương tiện điều hành, vừa là cơ quan chỉ đạo năng động, biết sử dụng những phương pháp khoa học và những phương tiện thích nghi với hoàn cảnh hiện đại, nghĩa là chú trọng đến các khảo cứu đương thời về thần học, phương pháp luận và mục vụ truyền giáo.
Trong việc điều hành Thánh Bộ, phải có sự tham gia tích cực với quyền biểu quyết của những đại biểu được chọn trong số những người cộng tác vào công cuộc truyền giáo, đó là các Giám mục đến từ khắp nơi trên thế giới, do các Hội đồng Giám mục đề cử, những vị lãnh đạo các Tổ chức và Cơ quan tài trợ thuộc quyền Giáo Hoàng, theo cách thức và quy tắc do Đức Giáo Hoàng ấn định. Tất cả những vị này được triệu tập theo định kỳ để thực thi việc điều hành tối cao đối với toàn thể công cuộc truyền giáo dưới quyền Đức Giáo Hoàng.
Thánh Bộ phải lập Ủy ban Cố vấn thường trực, gồm các chuyên viên có nhiều kiến thức và kinh nghiệm, với một trong những nhiệm vụ là thu thập những dữ liệu giúp hiểu rõ về hoàn cảnh địa phương tại các địa hạt và về cách suy nghĩ của những cộng đồng khác nhau, cũng như về những phương pháp cần sử dụng trong tiến trình Phúc Âm hoá, và đưa ra những kết luận có nền tảng khoa học cho công cuộc truyền giáo và chương trình hợp tác truyền giáo.
Các Hội dòng nữ, cũng như những hoạt động địa phương hỗ trợ các sứ vụ truyền giáo, và cả những tổ chức giáo dân, nhất là những tổ chức quốc tế, đều phải có những thành phần đại diện tương ứng.
30.
Để việc thực thi công cuộc truyền giáo đạt tới mục đích và mang lại kết quả, tất cả các nhà truyền giáo phải cùng “một lòng một ý” (Cv 4,32).
Giám mục, người lãnh đạo và là tâm điểm hiệp nhất của việc tông đồ trong giáo phận, có nhiệm vụ cổ vũ, điều hành và phối hợp hoạt động truyền giáo để duy trì và phát huy lòng nhiệt thành của những người đang tham gia công tác. Tất cả các nhà truyền giáo, kể cả những tu sĩ miễn trừ, phải phục quyền Ngài trong những công tác thực thi thánh vụ tông đồ11. Để phối hợp công việc tốt đẹp hơn, Giám mục nếu có thể, thiết lập Hội đồng Mục vụ, trong đó giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đều được tham gia qua những đại biểu được tuyển chọn. Ngoài ra, phải lo liệu để hoạt động tông đồ không chỉ giới hạn cho những người đã tòng giáo, nhưng phải dành một phần nhân lực và vật lực tương đương vào việc rao giảng Tin Mừng cho những người ngoài Kitô giáo.
31.
Các Hội đồng Giám mục hội họp để cứu xét những công việc quan trọng và những vấn đề cấp bách hơn, nhưng vẫn không xem nhẹ những dị biệt địa phương12. Để khỏi phân tán nhân sự và vật lực còn thiếu thốn, và để khỏi tăng thêm những công việc không cần thiết, nên hợp lực xây dựng những công trình phục vụ lợi ích chung, thí dụ như chủng viện, các trường cao đẳng hay kỹ thuật, những trung tâm mục vụ, giáo lý, phụng vụ và cả những trung tâm cho các phương tiện truyền thông xã hội.
Nếu thuận tiện, cũng nên thiết lập sự cộng tác như thế giữa các Hội đồng Giám mục.
32.
Cũng nên phối hợp hoạt động của các Hội dòng hay Hiệp hội tu sĩ. Tất cả các Dòng, dù thuộc định chế nào, đều phải tuỳ phục Đấng Bản quyền địa phương trong tất cả những điều liên quan đến hoạt động truyền giáo. Vì thế, cần có những thoả thuận đặc cách để quy định những thể thức liên lạc giữa Đấng Bản quyền và Bề trên Hội dòng.
Khi một địa hạt được ủy thác cho một Hội dòng nào, thì thẩm quyền cấp cao của Giáo quyền và Hội dòng đó phải cùng nhất tâm quy hướng tất cả đến mục tiêu giúp cho cộng đoàn Kitô hữu mới thành lập được phát triển thành một Giáo Hội địa phương, để rồi khi đến thời điểm thuận tiện, cộng đoàn sẽ có Chủ chăn và hàng giáo sĩ riêng.
Sau khi việc ủy thác chấm dứt, các điều kiện hoạt động cũng sẽ thay đổi. Khi đó các Hội đồng Giám mục và các Hội dòng phải đồng thuận trong việc xác lập những điều lệ áp dụng cho mối tương quan giữa các Đấng Bản quyền và các Hội dòng13. Phần Toà Thánh có nhiệm vụ đề ra những nguyên tắc tổng quát để làm cơ sở cho việc ký kết những thoả ước cấp vùng, hoặc cả những thoả thuận đặc biệt.
Tuy các Hội dòng sẵn sàng tiếp tục công việc đã khởi xướng, bằng cách cộng tác vào tác vụ thông thường là coi sóc các linh hồn, nhưng khi hàng Giáo sĩ địa phương đã lớn mạnh, phải trù liệu để các Hội dòng, trong mức độ phù hợp với tôn chỉ của Dòng, vẫn luôn thuộc về giáo phận qua việc quảng đại đảm nhận những công tác đặc biệt hay một địa hạt nào đó trong giáo phận.
33.
Những Hội dòng đang hoạt động truyền giáo trong cùng một địa hạt phải tìm kiếm đường lối và phương pháp để phối hợp công tác. Vì thế cần phải có những Hội đồng Nam tu và Hiệp hội Nữ tu với sự tham gia của tất cả các Hội dòng trong cùng một quốc gia hay một miền. Các Hội đồng này cùng nghiên cứu những phương án hợp tác hoạt động, và phải luôn liên kết chặt chẽ với các Hội đồng Giám mục.
Với lý do tương tự, tất cả những điều trên cũng nên được áp dụng vào việc cộng tác giữa những Hội dòng truyền giáo ngay tại địa phương, để có thể giải quyết các vấn đề và những đề xuất chung cách dễ dàng và ít tốn kém hơn, chẳng hạn như việc đào tạo về giáo thuyết cho các nhà truyền giáo tương lai, các khoá học cho những người đang truyền giáo, việc liên hệ với chính quyền hay với các cơ quan quốc tế và siêu quốc gia.
34.
Để hoạt động truyền giáo được thực thi đúng đắn và có tổ chức chặt chẽ, những người rao giảng Tin Mừng cần được chuẩn bị cho nhiệm vụ một cách khoa học, nhất là để đối thoại với các tôn giáo và văn hoá ngoài Kitô giáo, đồng thời cũng phải được hỗ trợ hữu hiệu trong khi thi hành phận vụ, vì thế, để giúp đỡ các xứ truyền giáo, cần có sự cộng tác huynh đệ và quảng đại giữa những tổ chức khoa học đang nghiên cứu khoa truyền giáo, và những môn học hay nghệ thuật khác hữu ích cho sứ vụ truyền giáo như nhân chủng học, ngôn ngữ học, lịch sử học, tôn giáo học, xã hội học, khoa sư phạm mục vụ và các môn tương tự.
CHƯƠNG VI
SỰ CỘNG TÁC
35.
Toàn thể Giáo Hội đều phải truyền giáo và công cuộc Phúc Âm hoá là nhiệm vụ căn bản của đoàn Dân Chúa, vì thế, Thánh Công Đồng mời gọi mọi người thực hiện cuộc canh tân từ nội tâm, để khi đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mỗi người trong việc truyền bá Tin Mừng, tất cả cùng tham gia vào công cuộc truyền giáo cho muôn dân.
36.
Vì là chi thể của Chúa Kitô hằng sống, được tháp nhập và nên đồng hình đồng dạng với Người nhờ bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, nên tất cả các Kitô hữu đều có bổn phận phải cộng tác vào việc tăng trưởng và phát triển Thân Thể Người, để nhanh chóng đạt tới tầm vóc viên mãn1.
Vì thế, tất cả những người con của Giáo Hội phải ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình đối với thế giới, phải vun đắp tinh thần công giáo đích thực, và phải dành mọi công sức cho công cuộc Phúc Âm hoá. Tuy nhiên, mọi người phải biết rằng bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất đối với việc truyền bá đức tin là sống sâu xa đời sống Kitô hữu. Vì chính khi nhiệt thành phụng sự Thiên Chúa và bác ái đối với tha nhân, họ mang lại cho toàn thể Giáo Hội một cảm hứng thiêng liêng mới, và làm cho Giáo Hội tỏ hiện như dấu chỉ giương cao giữa các dân tộc2, là “ánh sáng thế gian” (Mt 5,14) và là “muối đất” (Mt 5,13). Chứng tá đời sống này sẽ đem lại kết quả dễ dàng hơn, nếu cùng được thực hiện chung với các cộng đồng Kitô giáo khác, theo những nguyên tắc trong Sắc lệnh về Đại kết3.
Với tinh thần đổi mới đó, các Kitô hữu sẽ tự phát dâng lên Thiên Chúa các lời kinh nguyện và việc hy sinh, để nhờ ân sủng Chúa, hoạt động của các nhà truyền giáo đạt được nhiều kết quả, ơn kêu gọi truyền giáo được nẩy nở và các nguồn tài trợ cho sứ vụ truyền giáo sẽ được dồi dào.
Để tất cả và từng người Kitô hữu biết rõ hiện trạng của Giáo Hội trong thế giới, và để họ nghe được tiếng kêu gào của biết bao nhiêu người: “xin giúp chúng tôi” (x. Cv 16,9), cần đưa vào sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội hiện đại trong việc cung cấp những thông tin liên quan đến truyền giáo, để khi đã cảm thấy hoạt động truyền giáo là việc của mình, các tín hữu mở rộng tâm hồn đáp ứng những nhu cầu bao la và thâm sâu của con người và sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
Cũng cần phải phối hợp các tin tức và cộng tác với các cơ quan quốc gia hay quốc tế.
37.
Đoàn Dân Chúa sống và một cách nào đó hiện diện cách hữu hình trong các cộng đoàn, đặc biệt là tại các giáo phận và giáo xứ, vì thế, các cộng đoàn có trách nhiệm phải làm chứng về Chúa Kitô trước mặt muôn dân.
Ơn canh tân không thể tăng triển nơi chính cộng đoàn, nếu mỗi cộng đoàn không mở rộng phạm vi bác ái đến tận cùng trái đất, và chưa biết lo lắng cho những kẻ ở xa giống như cho những người thuộc cộng đoàn mình.
Như thế, toàn thể cộng đoàn cùng cầu nguyện, cộng tác và hành động giữa các dân tộc, qua những người con của cộng đoàn đã được Thiên Chúa tuyển chọn để thi hành phận vụ cao quý này.
Cũng sẽ rất hữu ích nếu giữ được mối liên lạc với những nhà truyền giáo xuất thân từ chính cộng đoàn, hoặc với một giáo xứ hay giáo phận nào đó trong các xứ truyền giáo, để mối thông hiệp giữa các cộng đoàn trở nên thiết thực và hướng đến việc xây dựng cho nhau, miễn sao đừng xao lãng công cuộc truyền giáo chung của toàn Giáo Hội.
38.
Tất cả các Giám mục, với tư cách là thành viên của Giám mục đoàn kế vị Tông đồ đoàn, được thánh hiến không phải chỉ để dành cho một giáo phận nào đó, nhưng là cho ơn cứu độ của toàn thế giới. Mệnh lệnh của Chúa Kitô sai đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật4 trước hết và trực tiếp nhắm tới các ngài, cùng với Phêrô và dưới quyền Phêrô. Do đó, giữa các Giáo Hội nảy sinh tình hiệp thông và tinh thần cộng tác rất cần thiết để thực thi công cuộc Phúc Âm hoá trong thời đại ngày nay. Vì sự thông hiệp đó, mỗi Giáo Hội đều chăm lo cho tất cả các Giáo Hội khác, thông tin cho nhau về những nhu cầu địa phương, cùng chia sẻ cho nhau những gì mình có, vì phận vụ của toàn thể Giám mục đoàn là làm cho Thân Thể Chúa Kitô được triển nở5.
Giám mục và giáo phận của mình chỉ là một, vì thế, khi phát động, xúc tiến và điều hành công cuộc truyền giáo trong giáo phận, Giám mục bày tỏ và có thể nói là hữu hình hoá tinh thần cũng như nhiệt tâm truyền giáo của đoàn Dân Chúa, nhờ đó giáo phận sẽ thể hiện trọn vẹn bản chất truyền giáo.
Bổn phận của Giám mục là khuyến khích cộng đoàn, nhất là những người đang gặp bệnh tật và đau khổ, biết quảng đại dâng lên Thiên Chúa những lời kinh nguyện và việc hy sinh để cầu cho công cuộc Phúc Âm hoá trên khắp thế giới; Giám mục phải tích cực cổ vũ ơn gọi nơi những người trẻ và các giáo sĩ gia nhập các Tu hội truyền giáo, và vui mừng tri ân khi có người được Thiên Chúa chọn gọi dấn thân vào hoạt động truyền giáo của Giáo Hội; Giám mục phải khích lệ và giúp đỡ các Hội dòng giáo phận tham gia sứ vụ truyền giáo; khuyến khích các tín hữu đóng góp cho hoạt động của các Tu hội truyền giáo, và nhất là các Hội tài trợ truyền giáo thuộc quyền Giáo Hoàng. Phải dành ưu tiên cho những tổ chức này vì đây là những phương tiện vừa để người công giáo, ngay từ tuổi thơ, được thực sự thấm nhuần cảm thức về đặc tính phổ quát và truyền giáo của Giáo Hội, vừa để vận động việc quyên góp hữu hiệu nhằm tài trợ tuỳ theo nhu cầu của tất cả các sứ vụ truyền giáo6.
Vì vườn nho Chúa ngày càng cần có thêm nhiều thợ và vì các linh mục giáo phận cũng ước ao ngày càng được góp phần nhiều hơn vào việc Phúc Âm hoá thế giới, nên Thánh Công Đồng rất ước mong các Giám mục, khi nghĩ đến việc thiếu linh mục rất trầm trọng đang cản trở công cuộc Phúc Âm hoá tại nhiều miền, hãy gửi đến những giáo phận đang thiếu giáo sĩ một số linh mục có khả năng, muốn dấn thân trong hoạt động truyền giáo và đã được chuẩn bị đầy đủ, để ít ra trong một thời gian, họ thi hành tác vụ truyền giáo với tinh thần phục vụ7.
Để hoạt động truyền giáo của các Giám mục có thể thực thi cách hữu hiệu hơn cho lợi ích của toàn thể Giáo Hội, các Hội đồng Giám mục nên quy định những nguyên tắc liên quan đến việc điều hành sự hợp tác truyền giáo trong toàn miền.
Trong các Hội đồng Giám mục, các ngài nên thảo luận về việc vận động các linh mục thuộc hàng giáo sĩ giáo phận dấn thân cho công cuộc Phúc Âm hoá các dân tộc; các ngài cũng nên ấn định khoản ngân sách đóng góp hằng năm cho việc tài trợ các sứ vụ truyền giáo, tuỳ theo khả năng tài chính của mỗi giáo phận8; điều hành và tổ chức những cách thức và phương tiện trực tiếp nâng đỡ các công tác truyền giáo; hỗ trợ và nếu cần, thiết lập các Tu hội truyền giáo và các chủng viện đào tạo giáo sĩ giáo phận cho sứ vụ truyền giáo, phát huy những mối liên hệ gắn bó hơn giữa các Tu hội truyền giáo và giáo phận.
Cũng thế, các Hội đồng Giám mục nên thành lập và cổ vũ những tổ chức tài trợ cho việc tiếp nhận trong tình huynh đệ và dành những chăm sóc mục vụ thích hợp để giúp đỡ những người di trú vì lý do lao động hay học hành, đến từ các miền truyền giáo. Qua nhóm di dân này, những dân tộc xa xôi cách nào đó lại trở nên gần gũi, và các cộng đoàn Kitô hữu lâu đời có cơ hội thuận tiện để tiếp xúc với những dân tộc chưa được phúc đón nhận Tin Mừng, đồng thời bày tỏ khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô trong nghĩa cử yêu thương và thái độ ân cần giúp đỡ9.
39.
Các linh mục là hiện thân của Chúa Kitô và là cộng sự viên của hàng Giám mục trong ba phận vụ thánh, tự bản chất gắn liền với sứ mệnh thừa sai của Giáo Hội10. Vì thế, các ngài phải nhận thức sâu xa rằng đời sống các ngài đã được thánh hiến để thực thi sứ vụ truyền giáo. Qua việc thi hành tác vụ linh mục – một tác vụ gắn liền với bí tích Thánh Thể là phương thế kiện toàn Giáo Hội - các ngài hiệp thông với Chúa Kitô là Đầu đồng thời dẫn đưa người khác vào mối thông hiệp đó, nhưng các ngài không thể không nhận thấy rằng Nhiệm Thể vẫn chưa đạt đến tầm vóc viên mãn, do đó còn rất nhiều việc phải làm để Thân Thể ấy ngày càng tăng trưởng. Vì thế các ngài phải quy hướng hoạt động mục vụ vào công cuộc quảng bá Tin Mừng nơi những người ngoài Kitô giáo.
Trong hoạt động mục vụ, các linh mục hãy khích lệ và duy trì nơi tín hữu lòng nhiệt thành đối với việc Phúc Âm hoá thế giới, bằng cách dùng các bài giáo lý và giảng thuyết để giúp họ hiểu biết về nhiệm vụ của Giáo Hội phải loan báo Chúa Kitô cho muôn dân; trình bày cho các gia đình Kitô hữu về sự cần thiết và tính cách cao quý của việc vun trồng ơn gọi truyền giáo nơi những người con trong gia đình, nam cũng như nữ; phát huy lòng nhiệt thành truyền giáo nơi thanh thiếu niên trong các trường học và các hội đoàn công giáo, để từ đó có thêm những người rao giảng Tin Mừng tương lai. Các ngài phải nhắc nhở tín hữu cầu nguyện cho các sứ vụ truyền giáo và đừng ngại ngùng khi xin họ giúp đỡ, dám trở nên như những hành khất vì Chúa Kitô và vì phần rỗi các linh hồn11.
Các giáo sư Chủng viện và Đại học phải cho giới trẻ biết được hiện trạng đích xác của thế giới và của Giáo Hội, để giúp họ nhận ra nhu cầu phải thực thi cấp bách việc Phúc Âm hoá cho những người ngoài Kitô giáo, đồng thời cũng để nuôi dưỡng nhiệt tâm truyền giáo nơi các thanh thiếu niên. Trong khi dạy các môn Tín lý, Thánh Kinh, Luân lý và Lịch sử, phải nêu rõ chiều kích truyền giáo hàm chứa trong các môn ấy, để nhờ đó ý thức truyền giáo được hình thành nơi các linh mục tương lai.
40.
Các Hội dòng, dù sống đời chiêm niệm hay hoạt động, cho đến nay đã và đang góp phần rất lớn vào công cuộc Phúc Âm hoá thế giới. Thánh Công Đồng vui mừng nhìn nhận công lao của họ và cảm tạ Thiên Chúa vì biết bao nỗ lực đã được thực hiện để làm vinh danh Chúa và phục vụ các linh hồn. Thánh Công Đồng khuyến khích họ hãy luôn kiên tâm tiếp tục công việc đã khởi sự, bởi biết rằng sức mạnh của đức ái mà họ vẫn muốn thực thi cách hoàn hảo hơn trong đời sống ơn gọi, đang thúc đẩy và đòi buộc họ phải có tinh thần và hành động thực sự mang tính công giáo12.
Các Hội dòng sống đời chiêm niệm góp phần rất lớn vào việc trở lại của các linh hồn nhờ những kinh nguyện, hy sinh và thử thách, vì Thiên Chúa luôn đoái nghe lời cầu xin sai thợ đến gặt lúa của Ngài13, Ngài soi mở tâm hồn người ngoài Kitô giáo để họ lắng nghe Tin Mừng14, và làm cho lời cứu rỗi sinh hoa kết quả trong lòng họ15. Hơn nữa, xin các Hội dòng hãy thành lập cơ sở tại những xứ truyền giáo, như nhiều Dòng đã từng làm, để ở đó, trong khi thích nghi với truyền thống tôn giáo đích thực của các dân tộc, các tu sĩ tỏ cho những người ngoài Kitô giáo thấy chứng từ cao đẹp về uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, cũng như về sự hợp nhất trong Chúa Kitô.
Phần các Hội dòng sống đời hoạt động, hoặc chuyên lo việc truyền giáo hoặc không, đều phải chân thành tự vấn trước mặt Chúa về khả năng gia tăng các hoạt động cho việc mở rộng Nước Chúa nơi muôn dân; hoặc về trường hợp có thể để cho những người khác đảm nhận một số tác vụ nào đó, còn chính họ sẽ cống hiến công sức cho các sứ vụ truyền giáo; hay về đề xuất có thể đảm nhận công tác nào đó trong sứ vụ truyền giáo bằng cách thích nghi Hiến pháp của Hội dòng nếu cần, trong khi vẫn giữ đúng tinh thần của Vị Sáng Lập; hoặc về khả năng của các tu sĩ trong Dòng có thể tuỳ sức tham gia vào hoạt động truyền giáo; hay về ý hướng thích nghi nếp sống hiện giờ của các tu sĩ với tâm tính và hoàn cảnh của dân chúng để có thể trở nên chứng tá của Tin Mừng.
Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Giáo Hội ngày càng có thêm nhiều Tu hội đời, hoạt động dưới quyền Giám mục, có thể mang lại kết quả dồi dào cho các sứ vụ truyền giáo về nhiều phương diện, như là dấu chỉ của sự tận hiến trọn vẹn cho công cuộc Phúc Âm hoá thế giới.
41.
Giáo dân cộng tác vào công cuộc Phúc Âm hoá của Giáo Hội, đồng thời tham gia vào sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội với tư cách là chứng nhân và khí cụ sống động16, đặc biệt khi họ được Thiên Chúa kêu gọi và được Giám mục thu nhận để thi hành công tác truyền giáo.
Trong những địa hạt đã gia nhập Kitô giáo, giáo dân cộng tác vào công cuộc Phúc Âm hoá bằng cách phát huy nơi chính mình và những người chung quanh sự hiểu biết và lòng yêu mến đối với các sứ vụ truyền giáo, cổ vũ ơn kêu gọi trong gia đình, trong các hội đoàn và trường học công giáo, đóng góp vào các chương trình tài trợ, để có thể trao tặng cho người khác hồng ân đức tin họ đã lãnh nhận cách nhưng không.
Tại các xứ truyền giáo, những giáo dân, cả người ngoại quốc lẫn người địa phương bản xứ, nên làm giáo viên tại các trường học, đảm trách các công việc trần thế, cộng tác vào các sinh hoạt tại giáo xứ hay giáo phận, thành lập và phát huy các phương thức hoạt động tông đồ giáo dân, để tín hữu của các Giáo Hội trẻ được tham gia vào đời sống Giáo Hội càng sớm càng tốt17.
Sau cùng, người giáo dân hãy tình nguyện hợp tác trong lãnh vực kinh tế xã hội với các quốc gia đang phát triển; sự cộng tác này càng đáng biểu dương nếu liên quan đến việc thành lập các tổ chức tác động đến chính những cơ cấu căn bản của đời sống xã hội, hay để đào tạo những người có trách nhiệm với quốc gia.
Cũng đáng đặc biệt tán dương những giáo dân đang giúp nâng cao sự hiểu biết về các dân tộc và các tôn giáo qua những công trình khảo cứu lịch sử hay khoa học tôn giáo tại các Đại Học hay các Viện Khoa Học, đã giúp ích rất nhiều cho những người rao giảng Tin Mừng, đồng thời cũng chuẩn bị cho việc đối thoại với những người ngoài Kitô giáo.
Họ phải hợp tác trong tình huynh đệ với các Kitô hữu khác, với những người ngoài Kitô giáo và nhất là với các thành viên của những tổ chức quốc tế, nhưng hãy luôn nhớ rằng “việc xây dựng xã hội trần thế phải đặt nền tảng trong Chúa và quy hướng về Người”18.
Để chu toàn tất cả những phận vụ đó, giáo dân cần được chuẩn bị về kỹ thuật và đời sống thiêng liêng tại những Học viện chuyên khoa, để đời sống họ trở thành chứng tá cho Chúa Kitô đối với những người ngoài Kitô giáo, như lời Thánh Tông Đồ: “Anh em đừng nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho Dân ngoại hoặc cho Giáo Hội Chúa, cũng như tôi đây, tôi làm đẹp lòng mọi người trong mọi sự, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu rỗi” (1 Cr 10,32-33).
KẾT LUẬN
42.
Các Nghị phụ Công Đồng, hợp nhất với Đức Giáo Hoàng, trong ý thức thật sâu xa về bổn phận phải mở rộng Nước Chúa khắp nơi, gửi lời chào thân ái đến tất cả những ai đang rao giảng Tin Mừng, đặc biệt xin được chia sẻ nỗi thống khổ của những người đang chịu bách hại vì Danh Chúa Kitô1.
Được nung nấu bằng chính ngọn lửa tình yêu của Chúa Kitô dành cho nhân loại, với niềm xác tín rằng Thiên Chúa chính là Đấng làm cho Vương quyền Ngài hiển trị nơi trần gian, các Nghị phụ hợp ý cầu nguyện với tất cả các Kitô hữu để, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương các thánh Tông đồ, xin cho muôn dân mau được đưa về nhận biết chân lý2 để vinh quang Thiên Chúa đang rạng ngời trên gương mặt Chúa Giêsu Kitô, cũng chiếu soi mọi người nhờ Chúa Thánh Thần3.
Tất cả và từng điều được ban bố trong Sắc Lệnh này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 7 tháng 12 năm 1965 Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo (Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)
1 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 48.
2 x. Mc 16,15.
3 T. AUGUSTINÔ, Enar. in Ps. 44, 23: PL 36, 508; CChr 38, 510.
4 x. Mt 5,13-14.
5 x. Hc 36,19.
1 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 2.
2 x. Ga 11,52.
3 x. T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r. III, 18, 1: “Ngôi Lời ở nơi Thiên Chúa, nhờ Người muôn vật được tạo thành và Người hằng ở giữa nhân loại…”: PG 7, 932; T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r., IV, 6, 7: “Từ nguyên thủy, Chúa Con hiện diện trong công trình tạo dựng, đã mặc khải Chúa Cha cho tất cả những kẻ Người muốn, khi nào Người muốn và theo cách Chúa Cha muốn”: PG 7, 990; x. T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r., IV, 20, 6 và 7: PG 7, 1037; x. T. IRÊNÊÔ, Demonstratio, số 34: PO XII, 773: Sources Chrét., 62, Paris 1958, tr. 87; CLEMENTÊ ALEX., Protrep. 112, 1: GCS Clemens I, 79; Strom. VI, 6, 44, I: GCS Clemens II, 453; 13, 106, 3 và 4: GCS Clemens II, 485; Về giáo thuyết này, x. PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh 31.12.1952; CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 16.
4 x. Cl 1,13; Cv 10,38.
5 x. 2 Cr 5,19.
6 x. Dt 1,2; Ga 1,3 và 10; 1 Cr 8,6; Cl 1,16.
7 x. Ep 1,10.
8 2 Cr 8,9.
9 x. Mc 10,45.
10 x. T. ATHANASIÔ, Ep. ad Epictetum, 7: PG 26, 1060; T. CYRILLÔ GIÊRUSALEM, Catech. 4, 9: PG 33, 465; MARIÔ VICTORINÔ, Adv. Arium, 3, 3: PL 8, 1101; T. BASILIÔ, Epist. 261, 2: PG 32, 969; T. GRÊGÔRIÔ NAZ., Epist. 101: PG 37, 181; T. GRÊGÔRIÔ NYSS., Antirrheticus, Adv. Apollin., 17: PG 45, 1156; T. AMBRÔSIÔ, Epist. 48, 5: PL 16, 1153; T. AUGUSTINÔ, in Ioan. Ev. tr. XXIII, 6: PL 35, 1585; CChr 36, 236; Hơn nữa, điều chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã không cứu chuộc chúng ta, đó là vì Ngài đã không nhập thể: De Agone Christ. 22, 24: PL 40, 302; T. CYRILLÔ ALEX., Adv. Nestor, I, I: PG 76, 20; T. FULGENTIÔ, Epist. 17, 3, 5: PL 65, 454; Ad Trasimundum, III, 21: PL 65, 284: de tristitia et timore.
11 x. Dt 4,15; 9,28.
12 Lc 24,47.
13 Cv 1,8.
14 Chính Chúa Thánh Thần đã dùng các tiên tri mà phán dạy: Symb. Constantinopol.: DS 150; T. LÊÔ CẢ, Sermo 76: PL 54, tr. 405-406: “Trong ngày Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã ban ơn tràn ngập trên các môn đệ Chúa Kitô, đây không phải là bắt đầu ban ơn, nhưng là tuôn đổ thêm ân huệ: vì các tổ phụ, các tiên tri và tư tế, cũng như toàn thể các thánh nhân sống trong những thời đại xa xưa, cũng đã được chính Chúa Thánh Thần thánh hoá dưỡng nuôi, mặc dù mức độ ân phúc có khác nhau”. Cũng xem Sermo 77, 1: PL 54, 412; LÊÔ XIII, Thông điệp Divinum Illud, 9.5.1897: ASS 29 (1897), tr. 650-651; Thánh Gioan Kim Khẩu cũng nói như thế, nhưng nhấn mạnh hơn về tính cách mới mẻ của sứ mệnh Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần: In Ep. ch. 4, Hom. 10, 1: PG 62, 75.
15 x. Ga 14,16.
16 Các Giáo phụ thường nói về tháp Babel và ngày lễ Ngũ Tuần: ÔRIGÊNÊ, in Genesim, ch. 1: PG 12, 112; T. GRÊGÔRIÔ NAZ., Oratio 41, 16: PG 36, 449; T. GIOAN KIM KHẨU, Hom. 2 in Pentec., 2: PG 50, 467; In Act. Apost.: PG 60, 44; T. AUGUSTINÔ, Enn. in Ps. 54, 11: PL 36, 636; CChr 39, 664t.; Sermo 271: PL 38, 1245; T. CYRILLÔ ALEX., Glaphyra in Genesim II: PG 69, 79; T. GRÊGÔRIÔ CẢ, Hom. in Evang., quyển II, Hom. 30, 4: PL 76, 1222; T. BÊĐA, In Hexaem., quyển III: PL 91, 125; Ngoài ra, xem bức hoạ nơi tiền đường của Vương Cung Thánh Đường Marcô ở Venezia. Giáo Hội nói mọi thứ tiếng, và như thế hợp nhất mọi người trong tính cách đại đồng của đức tin: T. AUGUSTINÔ, Sermones 266, 267, 268, 269: PL 38, 1225-1237; Sermo 175, 3: PL 38, 946; T. GIOAN KIM KHẨU, In Epist. 1 ad Cor., Hom. 35: PG 61, 296; T. CYRILLÔ ALEX., Fragm. in Act.: PG 74, 758; T. FULGENTIÔ, Sermo 8, 2-3: PL 65, 743-744. Về lễ Hiện Xuống như là cuộc thánh hiến các Tông đồ cho sứ mệnh; x. J.A. CRAMER, Catena in Acta Ss. Apostolorum, Oxford 1838, tr. 24t.
17 x. Lc 3,22; 4,1; Cv 10,38.
18 x. Ga 14-17; PHAOLÔ VI, Huấn từ đọc tại Công Đồng, 14.9.1964: AAS 56 (1964), tr. 807.
19 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 4.
20 T. AUGUSTINÔ, Sermo 267, 4: PL 38, 1231: “Linh hồn làm gì trong các chi thể của một thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng làm như thế trong toàn thể Giáo Hội”; x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 7 và ghi chú 8.
21 x. Cv 10,44-47; 11,15; 15,8.
22 x. Cv 4,8; 5,32; 8,26.29.39; 9,31; 10; 11,24-28; 13,2.4.9; 16,6-7; 20,22-23; 21,11 v.v...
23 x. Mt 28,18.
24 x. Cv 1,4-8.
25 x. Ga 20,21.
26 x. Cl 1,24.
27 TERTULLIANÔ, Apologeticum, 50, 13: PL 1, 534; CChr 1, 171.
28 T. TÔMA AQ. đã nói về hoạt động tông đồ để xây dựng Giáo Hội: x. Sent., quyển I, dist. 16, q. 1, a. 2 ad 2 và ad 4; a. 3 sol.; Summa Theol. I, q. 43, a. 7 ad 6; I-II, q. 106, a. 4 ad 4; x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 445 và 453; PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„, 28.2.1926: AAS 18 (1926), tr. 74; PIÔ XII, 30.4.1939, nói với các vị Giám Đốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo; PIÔ XII, 24.6.1944, nói với các vị Giám Đốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo: AAS 36 (1944), tr. 210, đăng lại trong AAS 42 (1950), tr. 727, và 43 (1951), tr. 508; PIÔ XII, 29.6.1948, nói với các giáo sĩ bản xứ: AAS 40 (1948), tr. 374; PIÔ XII, Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 507; PIÔ XII, Fidei Donum, 15.1.1957: AAS 49 (1957), tr. 236; GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 835; PHAOLÔ VI, Bài giảng ngày 18.10.1964: AAS 55 (1964), tr. 911.
Các Đức Giáo Hoàng cũng như các Giáo phụ và các học giả kinh viện thường nói đến việc mở rộng Giáo Hội: T. TÔMA AQ., Comm. in Mt 16,28; LÊÔ XIII, Thông điệp Sancta Dei Civitas, 3.12.1880: AAS 13 (1880), tr. 241; BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 442; PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„, 28.2.1926: AAS 18 (1926), tr. 65.
29 x. 1 Pr 1,23.
30 x. Cv 2,42.
31 Hoạt động truyền giáo dĩ nhiên cũng bao gồm cả các phần đất thuộc Châu Mỹ Latinh, nơi chưa có hàng Giáo phẩm riêng, chưa có sinh hoạt Kitô giáo lớn mạnh, cũng như chưa được rao giảng Tin Mừng đầy đủ. Ở đây Công Đồng không đặt vấn đề về việc Toà Thánh có công nhận những địa hạt đó là xứ truyền giáo hay không. Vì thế, khi nói về hoạt động truyền giáo liên hệ đến một địa hạt nào đó, thì đúng ra là đề cập đến một hoạt động “thông thường” được thực hiện trong những địa hạt nhất định mà Toà Thánh đã công nhận.
32 CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio, 1.
33 x. Mc 16,16; Ga 3,5.
34 CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 14.
35 x. Dt 11,6.
36 x. 1 Cr 9,16.
37 x. Ep 4,11-16.
38 x. Ga 7,18; 8,30 và 44; 8,50; 17,1.
39 Về ý tưởng tổng hợp này, xem Học thuyết của thánh Irênêô về chủ đề “quy phục dưới quyền một Thủ Lãnh”; cũng xem HYPPÔLYTÔ, De Antichristo, số 3: “Thương yêu và ước ao cứu vớt tất cả mọi người, muốn làm cho mọi người trở nên con cái Thiên Chúa và kêu mời tất cả các thánh liên kết thành một con người hoàn hảo duy nhất...: PG 10, 732; GCS Hyppolyt I, 2, tr. 6; x. HYPPÔLYTÔ, Benedictiones Iacob, 7: TU 38-1, tr. 18, hàng 4tt; ÔRIGÊNÊ, In Ioann, bộ I, 16: “ Nơi những người sẽ đến với Thiên Chúa, nhận biết Thiên Chúa và được hướng dẫn bởi Ngôi Lời, Đấng ở nơi Thiên Chúa, chỉ là một hành động duy nhất: nhờ đó, tất cả đều được dạy dỗ để nhận biết Chúa Cha như những người con biết Cha mình, như chính Chúa Con, Đấng duy nhất hiện giờ đã biết Chúa Cha”: PG 14, 49; GCS ÔRIGÊNÊ, IV, 20; T. AUGUSTINÔ, De Sermone Domini in monte, I, 41: “Chúng ta hãy yêu thương những gì có thể cùng chúng ta được dẫn vào vương quốc, nơi mà không ai gọi Thiên Chúa duy nhất là “Cha tôi” nhưng tất cả đều gọi “Cha chúng tôi”: PL 34, 1250; T. CYRILLÔ ALEX, In Ioann. I: “Tất cả chúng ta đều ở trong Chúa Kitô và chính trong Người mà con người mang tính nhân loại của chúng ta được tác sinh. Vì thế Người được gọi là Ađam mới. Đấng tự bản tính là Con và là Thiên Chúa đã cư ngụ giữa chúng ta; nhờ đó, trong Thần Khí của Người, chúng ta được kêu lên: Abba, Cha ơi. Ngôi Lời cư ngụ nơi tất cả như trong một ngôi đền thờ, nghĩa là nơi những gì Người đã nhận lấy vì chúng ta và từ chúng ta, để, nói như Thánh Phaolô, khi mọi sự đã ở trong Người, Người sẽ giao hoà tất cả với Chúa Cha trong một thân thể duy nhất”: PG 73, 161-164.
40 BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 445: “vì Giáo Hội của Chúa là công giáo nên không xa lạ đối với bất cứ một dân tộc hay quốc gia nào...”; x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: “Theo lệnh Chúa, Giáo Hội mở rộng đến tất cả muôn dân... khi hoà nhập vào một dân tộc nào, như sức mạnh được truyền vào mạch máu, Giáo Hội không là cũng không tự cho là một tổ chức ngoại lai đối với dân tộc đó... Hơn nữa, tất cả những gì là tốt đẹp, thiện hảo nơi một dân tộc, thì những người đã được tái sinh trong Chúa Kitô cũng công nhận như thế, và còn làm cho nên hoàn hảo hơn nữa”. 25.5.1961: AAS 25.5.1961, tr. 444.
41 x. Ga 3,18.
42 x. T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r., III, 15, số 3. PG 7, 919: “Họ đã là những người rao giảng chân lý và là những tông đồ mang lại tự do”.
43 Kinh Nhật Tụng Rôma Tiền xướng “O” Kinh Chiều ngày 23.12.
44 x. Mt 24,31; Didachè 10,5: Funk I, 32.
45 x. Mc 13,10.
46 CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 17; T. AUGUSTINÔ, De Civ. Dei, 19, 17: PL 41, 646; THÁNH BỘ TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN, Bài giáo huấn Collectanea I, số 135, tr. 42.
47 Theo Ôrigênê, Tin Mừng phải được rao giảng trước khi tận thế: Hom. in Luc., XXI: GCS, Orig. IX 136, 21tt.; In Matth. comm. ser., 39: XI 75, 25tt.; 76, 4tt.; Hom. in Ierem. III, 2: VIII 308, 29t.; T. TÔMA, Summ. Theol., I-II, q. 106, a. 4, ad 4.
48 x. Cv 1,7.
49 T. HILARIÔ PICT., In Ps. 14: PL 9, 301; EUSEBIÔ C₡S., In Isaiam, 54, 2-3: PG 24, 426-463; T. CYRILLÔ ALEX., In Isaiam V, ch. 54, 1-3: PG 70, 1193.
50 x. Ep 4,13.
51 x. Ga 4,23.
1 x. Mt 5,16.
2 1 Ga 4,11.
3 x. Mt 9,35tt; Cv 10,38.
4 x. 2 Cr 12,15.
5 x. PHAOLÔ VI, Diễn văn đọc tại Công Đồng, 21.11.1964: AAS 56 (1964) tr. 1013. x. Mt 20,26; 23,11.
6 x. Ep 4,24.
7 x. Cl 4,3.
8 x. Cv 4, 13.29.31; 9,27-28; 13,16; 14,3; 19,8; 26,26; 28,31; 1 Ts 2,2; 2 Cr 3,12; 7,4; Pl 1,20; Ep 3,12; 6,19-20.
9 x. 1 Cr 9,16; Rm 10,14.
6 x. Mc 16,15.
10 x. 1 Ts 1,9-10; 1 Cr 1,18-21; Gl 1,31; Cv 14,15-17; 17,22-31.
11 x. Cv 16,14.
12 x. Cl 3,5-10; Ep 4,20-24.
13 x. Lc 2,34; Mt 10,34-39.
14 x. 1 Ts 1,6.
15 x. CĐ VATICANÔ II, Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo Dignitatis Human„, 2, 4, 10; CĐ VATICANÔ II, Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes, 21.
16 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 17.
17 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 64-65.
18 Về việc giải thoát khỏi ách nô lệ ma quỷ và tối tăm: trong Phúc Âm, x. Mt 12,28; Ga 8,44; 12,31 (x. 1 Ga 3,8; Ep 2,1-2): trong Phụng vụ về bí tích Rửa Tội, x. Sách Nghi Lễ Rôma. x. Cl 1,13
19 x. Rm 6,4-11; Cl 2,12-13; 1 Pr 3,21-22; Mc 16,16.
20 x. 1 Ts 3,5-7; Cv 8,14-17.
21 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 14.
22 x. T. AUGUSTINÔ, Tract. in Ioann. 11, 4: PL 35, 1476.
23 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 9.
24 x. 1 Cr 3,9.
25 x. Ep 4,1.
26 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 10, 11, 34.
27 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, 21.
28 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 12, 35.
29 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 23, 26.
30 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 11, 35, 41.
31 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về các Giáo Hội Công giáo Đông phương Orientalium Ecclesiarum, 4.
32 x. Epist. ad Diognetum, 5: PG 2, 1173; x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 38.
33 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 32; x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân Apostolicam Actuositatem, 5-7.
34 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục Optatam Totius, 4, 8, 9.
35 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 17.
36 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục Optatam Totius, 1.
37 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 843-844.
38 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio, 4.
39 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 842.
40 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 29.
41 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 855.
42 Ở đây nói về những người vẫn được gọi là “giáo lý viên chuyên ngạch”.
43 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 31, 44.
1 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 838.
2 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, 11; Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục Optatam Totius, 2.
3 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 25.
4 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, 10: để sinh hoạt mục vụ đặc biệt cho những cộng đồng xã hội khác nhau được dễ dàng, phải tiên liệu việc thiết lập các giáo hạt Giám chức tuỳ theo đòi hỏi của việc tổ chức hoạt động tông đồ.
5 x. 1 Cr 15,23.
6 x. 1 Cr 15,28.
7 x. Ep 4,24.
8 x. Tv 2,8.
9 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, 13.
10 x. PHAOLÔ VI, Diễn từ đọc trong lễ phong thánh cho các vị Tử đạo Uganda: AAS 56 (1964), tr. 908.
11 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 13.
1 CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 17.
2 x. Mc 3,13t.
3 x. 1 Cr 12,11.
4 “Tổ chức” ở đây hiểu là các Dòng tu, Hội dòng, Tu hội và các Hiệp hội hoạt động truyền giáo.
5 x. PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„, 28.2.1926: AAS 18 (1926), tr. 69-71; PIÔ XII, Thông điệp S„culo Exeunte, 13.6.1940: AAS 32 (1940), tr. 256; Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 506.
6 x. Cv 13,2.
7 x. Gl 1,16.
8 x. Ep 6,19t; Cv 4,31.
9 x. Mt 11,29tt.
10 x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 449-450.
11 x. 2 Cr 6,4t.
12 x. 2 Cr 8,2.
13 x. 1 Tm 4,14; Ep 4,23; 2 Cr 4,16.
14 x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 448-449; PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951) tr. 507. Việc đào tạo các linh mục truyền giáo cũng được Công Đồng Vaticanô II đề cập trong Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục.
15 x. Cv 2,42; 4,32.
16 x. 2 Tm 1,7.
17 x. Pl 4,11.
18 x. 2 Cr 4,10t.
19 x. 2 Cr 12,15t.
20 CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 41.
21 x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 440; PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 507.
22 BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 448; THÁNH BỘ TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN, Sắc lệnh 20.5.1923: AAS 15 (1923), tr. 369-370; PIÔ XII, Thông điệp S„culo Exeunte, 2.6.1940: AAS 32 (1940), tr. 256; PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 507; GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 843-844.
23 CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục Optatam Totius, 19-21; Tông hiến Sedes Sapienti„ với những quy luật chung, 31.5.1956: AAS 48 (1956), tr. 354-365.
24 PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 523-524.
25 BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 448; PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 507.
26 x. PIÔ XII, Thông điệp Fidei Donum, 15.6.1957: AAS 49 (1957), tr. 234.
27 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, 10, chỗ nói về các giáo phận, các Giám chức và các vấn đề tương tự.
1 x. Rm 12,6.
2 x. 1 Cr 3,10.
3 x. Ga 4,37.
4 x. 1 Cr 3,8.
5 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 18.
6 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 23.
7 x. Tự sắc Apostolica Sollicitudo, 15.9.1965.
8 x. PHAOLÔ VI, Diễn văn đọc tại Công Đồng, 21.11.1964: AAS 56 (1964), tr. 1011.
9 x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maximum Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 39-40.
10 Nếu vì lý do nào đó mà đến nay một số xứ truyền giáo vẫn còn tạm thời tuỳ thuộc vào nhiều Thánh Bộ khác, thì đó phải là những Thánh Bộ có liên hệ với Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, để chỉ có một phương pháp cũng như một nguyên tắc hoàn toàn cố định và đồng nhất trong việc tổ chức và điều hành các xứ truyền giáo.
11 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục Christus Dominus, 35, 4.
12 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục Christus Dominus, 36-38.
13 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục Christus Dominus, 35, 5-6.
1 x. Ep 4,13.
2 x. Is 11,12.
3 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio, 12.
4 x. Mc 16,15.
5 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 23-24.
6 x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Maxium Illud, 30.11.1919: AAS 11 (1919), tr. 453-454; PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„, 28.2.1926: AAS 18 (1926), tr. 71-73; PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 525-526; PIÔ XII, Thông điệp Fidei Donum, 15.1.1957: AAS 49 (1957), tr. 241.
7 x. PIÔ XII, Thông điệp Fidei Donum, 15.1.1957: AAS 49 (1957), tr. 245-246.
8 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục Christus Dominus, 6.
9 x. PIÔ XII, Thông điệp Fidei Donum, 15.1.1957: AAS 49 (1957), tr. 245.
10 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28.
11 x. PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„, 28.2.1926: AAS 28 (1926), tr. 72.
12 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 44.
13 x. Mt 9,38.
14 x. Cv 16,14.
15 x. 1 Cr 3,7.
16 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 33, 35.
17 x. PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 510-514; GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 851-852.
18 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 46.
1 x. PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 527; GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 28.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 864.
2 x. 1 Tm 2,4.
3 x. 2 Cr 4,6.
Từ khóa » Tóm Tắt Sắc Lệnh Ad Gentes
-
Tìm Hiểu Sắc Lệnh: "ÐẾN VỚI MUÔN DÂN" (AD GENTES)
-
Sac Lenh Ve Hoat Dong Truyen Giao - Ad Gentes
-
Tìm Hiểu Về Sắc Lệnh Truyền Giáo (ad Gentes) - Tin Vui Xuân Lộc
-
Học Hỏi Ad Gentes - Chủng Viện Qui Nhơn
-
Sắc Lệnh Về Hoạt Đông Truyền Giáo Của Giáo Hội - Ad Gentes
-
Những Bước Chuyển Mình Của Hội Thánh Trên đường Loan Báo Tin ...
-
Ad Gentes – Sắc Lệnh Về Hoạt động Truyền Giáo - Tu Viện Thánh Gia
-
Nối Kết Giữa Sắc Lệnh Ad Gentes Và Thông Điệp Redemptoris Missio
-
Bình Vẫn Chưa Hề Cũ: Mệnh Lệnh Và Di Chúc đi Cùng Năm Tháng
-
Tính Hiện Thực Của Sắc Lệnh Ad Gentes Tại Việt Nam
-
Cong Giao Viet Nam
-
Những Văn Kiện Của Giáo Hội Về Truyền Giáo Trong 100 Năm Qua
-
Công đồng Vaticanô II – Wikipedia Tiếng Việt