Sáng Chế Là Gì? Bằng Sáng Chế Là Gì? - Luật Hoàng Phi
Có thể bạn quan tâm
Mục lục bài viết
- Sáng chế là gì?
- Thời gian bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích
- Sáng chế tiếng Anh là gì?
- Đặc điểm của sáng chế?
- Phân loại sáng chế quốc tế (IPC)
- Cơ sở và phương pháp tiếp cận đối với việc bảo hộ sáng chế
- Những sáng tạo nào không thể được coi là sáng chế?
- Tiêu chuẩn của một sáng chế được cấp Bằng bảo hộ cần đảm bảo điều kiện gì?
- Yêu cầu đối với đơn đăng ký sáng chế
- Bằng sáng chế là gì?
- Quy định Luật sở hữu trí tuệ bằng sáng chế như thế nào?
- Ví dụ tính mới của sáng chế
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế (invention) chiếm vị trí trọng tâm đối với nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ của nền kinh tế trí thức, Bằng độc quyền sáng chế (patent) là một trong những tài sản trí tuệ lâu đời và quan trọng nhất của bảo hộ sở hữu trí tuệ và cũng giống như tất cả các dạng bảo hộ sở hữu trí tuệ khác, mục đích của hệ thống độc quyền sáng chế là khuyến khích phát triển kinh tế và công nghệ bằng việc tưởng thưởng cho các sáng tạo trí tuệ. Số lượng bằng độc quyền sáng chế mà doanh nghiệp sở hữu là một trong những tiêu chí để xếp hạng doanh nghiệp và từ đó đánh giá trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
Vậy sáng chế là gì? Đặc điểm của sáng chế và quy định Luật sở hữu trí tuệ về bằng sáng chế như thế nào. Nhằm giải đáp thắc mắc này Luật Hoàng Phi xin chia sẻ gửi đến Quý độc giả bài viết dưới đây:
Sáng chế là gì?
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình, sáng chế ra đời nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên, sáng chế được bảo hộ dưới hình thức đăng ký độc quyền sáng chế.Lịch sử loài người gắn liền với lao động sáng tạo và không ngừng khám phá thế giới tự nhiên. Trong quá trình đó con người phát hiện ra các quy luật và các sự vật, hiện tượng tồn tại trong tự nhiên như lực ma sát, trọng lực, trở lực của không khí, điện lực đến định luật vạn vật hấp dẫn của Newton và thuyết tương đối của Einstein… tất cả những khám phá này được gọi là phát minh, lý thuyết khoa học hoàn toàn khác biệt với quá trình tư duy sáng tạo của con người vận dụng những kiến thức, quy luật đó để tạo ra các sản phẩm, quy trình nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật trong thực tiễn, tức là các sáng chế.
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới thì sáng chế nghĩa là một giải pháp cho một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực công nghệ. Sáng chế có thể liên quan tới một sản phẩm hay một quy trình”.
Dưới góc độ pháp lý, Khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ định nghĩa: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. Do đó, yêu cầu đầu tiên của một sáng chế phải là giải pháp kỹ thuật không thể là một giải pháp nghệ thuật, thẩm mỹ, một phương pháp toán học, quy tắc, phương pháp tư duy hay phương pháp kinh doanh. Thêm vào đó, các giải pháp này phải có tính mới, có trình độ sáng tạo và dựa vào bản chất của nó có thể được sản xuất hoặc sử dụng trong bất kỳ ngành công nghiệp nào.
Trong khi đó, bằng độc quyền sáng chế (Patent) là một văn bằng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hoặc một cơ quan khu vực nhân danh một số quốc gia) cấp trên cơ sở một đơn yêu cầu bảo hộ, trong đó mô tả một sáng chế và thiết lập một điều kiện pháp lý mà theo đó sáng chế đã được cấp bằng độc quyền chỉ có thể được khai thác một cách bình thường (sản xuất, sử dụng, bán, nhập khẩu với sự cho phép của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế?”.
Như vậy, cần phân biệt sáng chế với bằng độc quyền sáng chế. Việc một sáng chế đáp ứng các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật và được cấp một bằng độc quyền sáng chế đã tạo ra một quan hệ pháp luật giữa nhà nước với chủ sở hữu văn bằng và những tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
Thời gian bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích
Nhà nước thông qua bằng độc quyền sáng chế trao cho chủ sở hữu văn bằng quyền ngăn cản tất cả những người khác khai thác thương mại đối tượng kỹ thuật thuộc phạm vi bảo hộ của bằng độc quyền sáng chế trong một thời hạn nhất định để đổi lại việc chủ sở hữu văn bằng bộc lộ sáng chế, đến một lúc nào đó, thường thời hạn này là 20 năm, sau khi hết thời hạn bảo hộ độc quyền sáng chế, các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội có thể được khai thác và hưởng lợi từ sáng chế đó mà không cần phải xin phép và trả phí cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế. Vì vậy, để đổi lại việc được cấp bằng bảo hộ độc quyền sáng chế thì người nộp đơn bắt buộc phải bộc lộ sáng chế đó.
Giải pháp hữu ích là một sáng chế nhỏ (petit patent), sáng chế ngắn hạn hoặc sáng chế đổi mới. Sáng chế nếu không đáp ứng điều kiện bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế thì có thể được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích (Utility Solution Patent) nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện về tính mới, và khả năng áp dụng công nghiệp.
Như vậy, điều kiện để được bảo hộ đối với giải pháp hữu ích ít ngặt nghèo hơn so với sáng chế, điều kiện về trình độ sáng tạo nhìn chung có thể thấp hơn nhiều so với yêu cầu về tiến bộ công nghệ của bằng độc quyền sáng chế hoặc không quy định. Tiêu chuẩn về tính mới cũng thấp hơn so với tiêu chuẩn tính mới để một giải pháp kỹ thuật được bảo hộ dưới hình thức bằng độc quyền sáng chế. Tình trạng kỹ thuật được xem xét đánh giá tính mới đối với giải pháp hữu ích chỉ trong phạm vi nước nộp đơn.
Thời hạn bảo hộ tối đa đối với bằng độc quyền giải pháp hữu ích ngắn hơn (10 năm) trong khi bằng độc quyền sáng chế là 20 năm. Giải pháp hữu ích có thể bị giới hạn trong một số lĩnh vực công nghệ và chỉ có thể được cấp cho sản phẩm mà không được cấp cho các quy trình. Do thiếu thẩm định về tính mới và trình độ sáng tạo nên thời gian đăng ký bằng độc quyền giải pháp hữu ích nhanh hơn và đơn giản hơn, đồng thời phí đăng ký và duy trì cũng thấp hơn so với phí đăng ký bằng độc quyền sáng chế do đó thời gian đưa vào khai thác thương mại cũng nhanh hơn rất nhiều. Chính vì thế, nếu sáng chế là đối tượng được bảo hộ cả dưới dạng bằng độc quyền giải pháp hữu ích và độc quyền sáng chế thì có thể rút ngắn thời gian bằng cách nộp song song.
Nhìn chung, các nước đều cho phép chuyển đổi đơn đăng ký sáng chế có yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế thành đơn đăng ký sáng chế có yêu cầu cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích và ngược lại hoặc mỗi đơn đăng ký có thể yêu cầu cấp một Bằng độc quyền sáng chế hoặc một Bằng độc quyền giải pháp hữu ích cho một nhóm sáng chế có mối liên hệ chặt chẽ về kỹ thuật nhằm thực hiện một ý đồ sáng tạo chung duy nhất.
Tóm lại sáng chế phải có đặc tính kỹ thuật hay nói cách khác, phải có đóng góp về mặt kỹ thuật cho nền kỹ nghệ. Các ý tưởng lý thuyết phi kỹ thuật là đối tượng bị loại trừ khỏi khả năng được cấp bằng độc quyền sáng chế?’. Sáng chế có thể liên quan đến việc sáng tạo ra một thiết bị, sản phẩm, phương pháp hoặc quy trình hoàn toàn mới, hoặc có thể đơn giản là một sự cải tiến bổ sung cho các sản phẩm hoặc quy trình đã được biết đến. Ngày nay, khi hầu hết các sáng chế đều là kết quả của những nỗ lực đáng kể và đầu tư dài hạn trong nghiên cứu và phát triển thì cũng có rất nhiều cải tiến kỹ thuật đơn giản và rẻ tiền nhưng có giá trị thị trường lớn, đã mang lại thu nhập và lợi nhuận đáng kể cho các nhà sáng chế và công ty sở hữu chúng”
Sáng chế tiếng Anh là gì?
Sáng chế tiếng Anh là patent.
Đặc điểm của sáng chế?
Sáng chế có những đặc điểm sau đây:
– Sáng chế được thể hiện dưới dạng sản phẩm là vật thể
Dụng cụ, máy móc, linh kiện, thiết bị….là những sản phẩm dưới dạng vật thể. Các sản phẩm này được thể hiện bằng tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo, đặc trưng về kết cấu có chức năng như một phương tiện để đáp ứng nhu cầu của con người
– Sáng chế được thể hiện dưới dạng sản phẩm là chất thể
Thực phẩm, dược phẩm, vật liệu, chất liệu…là những sản phẩm dưới dạng chất thể. Các sản phẩm này được thể hiện bằng tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo, đặc trưng về tỉ lệ, trạng thái và sự hiện diện nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định của con người
– Sáng chế được thể hiện dưới dạng sản phẩm là vật liệu sinh học
Động vật biến đổi gen, thực vật, gen…là những sản phẩm dưới dạng vật liệu sinh học. Các sản phẩm này có chứa các thông tin di truyền, biến đổi dưới sự tác động của con người
– Phương pháp hay quy trình
Các dấu hiệu về trình tự, điều kiện, thành phần tham gia, phương tiện thực hiện…là tập hợp các thông tin đã được xác định, tiến hành qua phương pháp hay quy trình (phương pháp chuẩn đoán, quy trình công nghệ, kiểm tra, xử lý…).
Phân loại sáng chế quốc tế (IPC)
Thỏa ước về Phân loại sáng chế quốc tế được ký kết ngày 24/03/1971 tại Hội nghị ngoại giao các nước thành viên Công ước Paris về Bảo hộ quyền SHCN tổ chức tại Strasbourg (Cộng hòa Pháp).
Phân loại sáng chế quốc tế là công cụ để phân loại sáng chế và giải pháp hữu ích một cách thống nhất trên phạm vi thế giới, và là công cụ tra cứu có hiệu quả, giúp nhanh chóng tìm ra những bản mô tả sáng chế thích hợp phục vụ cho việc đánh giá tính mới, trình độ sáng tạo của một giải pháp kỹ thuật, cũng như để xác định tình trạng kỹ thuật của một vấn đề cụ thể. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều đã sử dụng phân loại sáng chế quốc tế, mặc dù có một vài nước vẫn dùng phân loại sáng chế quốc gia nhưng cũng vẫn ghi cả chỉ số phân loại sáng chế quốc tế tương ứng trên tư liệu sáng chế của mình. Nhờ đó mà việc tra cứu tư liệu sáng chế của các nước trở nên đơn giản, dễ dàng và thuận tiện hơn rất nhiều so với trước đây khi mỗi nước sử dụng phân loại sáng chế quốc gia riêng.
Phân loại sáng chế quốc tế được một Hội đồng chuyên gia về IPC tiến hành sửa đổi thường kỳ và do đó, một phiên bản mới của Phân loại sáng chế quốc tế sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01 hàng năm.
Cơ sở và phương pháp tiếp cận đối với việc bảo hộ sáng chế
Có thể kể tên một số học thuyết giải thích cho việc cần thiết phải bảo hộ các sáng chế như sau:
Thuyết phần thưởng: Các tác giả sáng chế cần được thưởng cho việc tạo ra các sáng chế hữu ích và luật pháp phải được sử dụng để bảo đảm việc thưởng này.
Thuyết khuyến khích: Cơ chế theo đó sáng chế được khen thưởng, sẽ khích lệ sự tạo ra sáng chế mới cho nghiên cứu và phát triển.
Thuyết hợp đồng hoặc bộc lộ: Bằng việc đưa ra hệ thống bảo hộ, các nhà sáng chế sẽ được khuyến khích bộc lộ các sáng chế của họ, giới thiệu công chúng, sau một thời gian độc quyền.
Thuyết luật tự nhiên: Các cá nhân có quyền sở hữu đối với các ý tưởng của mình. VÀ Và gần đây nhất, do ảnh hưởng của các cuộc đàm phán vượt ra ngoài khuôn khổ của Hiệp định TRIPs đã hình thành thuyết bảo hiệu, theo đó chế độ bảo hộ sáng chế sẽ báo hiệu một môi trường đầu tư có thể chấp nhận được, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.
Mục đích của bằng độc quyền sáng chế là cung cấp một cơ chế bảo hộ các cải tiến kỹ thuật và đột phá trong khoa học công nghệ. Đây có thể xem như là một sự khuyến khích và tưởng thưởng cho những sáng tạo đổi mới phù hợp với nguyện vọng hợp pháp của các nhà sáng chế và là minh chứng cho một hệ thống pháp luật tiến bộ.
Trong cơ chế bảo hộ này có hai lợi ích đối lập của hai nhóm đối tượng khác nhau mà nhiệm vụ của hệ thống độc quyền sáng chế là phải tìm ra điểm cân bằng để duy trì sự hài hòa thỏa đáng giữa phúc lợi cộng đồng và lợi ích cá nhân đồng thời vẫn hỗ trợ thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra cạnh tranh thương mại lành mạnh và phát triển kinh tế xã hội. Đối với nhà sáng chế, hệ thống độc quyền sáng chế dành sự bảo hộ ý tưởng sáng tạo và tưởng thưởng cho sự đầu tư nghiên cứu triển khai của nhà sáng chế nên trong thời gian hiệu lực của văn bằng, nhà sáng chế có độc quyền sử dụng và cho phép sử dụng sáng chế của mình.
Ngược lại, cộng đồng phải tuyệt đối tồn trọng quyền của nhà sáng chế trong thời gian bảo hộ, không được sử dụng sáng chế cho mục đích thương mại nếu không được chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho phép. Để đổi lại sự bảo hộ đó, nhà sáng chế phải bộc lộ thông tin kỹ thuật trong sáng chế để sau này cộng đồng có thể sử dụng và sáng tạo tiếp theo.
Những sáng tạo nào không thể được coi là sáng chế?
Đối với các nước châu Âu, theo Điều 52 của Công ước về bằng phát minh sáng chế châu Âu (EPC) quy định những sáng tạo sau đây không thể được coi là những sáng chế có khả năng được cấp bằng bảo hộ, đó là:
– Những khám phá, các học thuyết khoa học, các phương pháp toán học;
– Những sáng tạo thẩm mỹ;
– Sự sắp xếp kế hoạch, quy tắc và phương pháp thực hiện các hành vị trí óc, chơi các trò chơi hay kinh doanh và các chương trình máy tính;
– Trình bày thông tin;
– Các phương thức điều trị cơ thể người hay động vật qua mổ xẻ (giải phẫu) hay điều trị không dùng phẫu thuật và các phương pháp chẩn đoán được tiến hành trên cơ thể người hay vật sẽ không được coi là những sáng chế. Tuy nhiên, việc loại trừ trên không áp dụng cho các sản phẩm, nhất là các chất hay các hợp chất được đem sử dụng cho bất kỳ phương pháp nào nêu trên.
Phạm vi loại trừ khỏi khả năng bảo hộ sáng chế của những sáng tạo được viện dẫn ở trên do Công ước văn bằng sáng chế
Công ước về bằng phát minh sáng chế châu Âu được viết tắt là (EPC) là cơ sở hình thành văn phòng cáp bằng phát minh sáng chế châu Âu là European Patent Office được viết tắt là EP0. EPO có trụ sở tại Munich, Đức. Công ước hiện được áp dụng ở hầu hết các nước thành viên cộng đồng châu Âu và một vài nước châu Âu khác… EPC quy định việc đơn lẻ bằng tiếng Anh, tiếng Đức hoặc tiếng Pháp.
Khi bằng phát sinh sáng chế được chấp nhận cấp với khoản lệ phí thích hợp, việc biên dịch đã được đệ trình, đơn xin lẻ được chuyển thành một loạt các bằng phát minh sáng chế riêng. Hệ thống này cũng cho phản đối việc cấp bằng trong vòng 9 tháng kể từ khi nộp đơn tại EP0 cho đến khi bằng được cấp. Tuy nhiên, các vấn để tiếp theo về hiệu lực phải được giải quyết tại Tòa án quốc gia.
Châu Âu (EPC) quy định trong phạm vi rộng. Những loại sáng tạo thiên về hình thức được xem như “những sáng chế”. Chẳng hạn như các chương trình máy tính, việc điều trị y học đối với con người, các học thuyết khoa học (pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng không cấp bằng sáng chế cho những người tạo ra các sản phẩm trên). Theo nội dung quy định của EPC thì các sáng tạo trên đã được điều chỉnh bởi việc bảo hộ quyền tác giả theo Công ước Berne, do đó các quốc gia không bị ràng buộc bởi EPC là phải quy định việc bảo hộ văn bằng. Nhưng đối với những sáng tạo ra một khía cạnh thẩm mỹ” của một vật có đặc tính kỹ thuật thì các đặc tính kỹ thuật đó có thể được cấp văn bằng (riêng công dụng về mặt thẩm mỹ thì không được xét cấp văn bảng bảo hộ). Cũng tương tự như vậy, một phương pháp trình bày thông tin có thể được cấp văn bằng sáng chế. Đó là những đường xoắn trên đĩa hát được thiết kế để ghi âm thanh Stereo.
Nhưng theo quan điểm của các nước tham gia Công ước văn bằng sáng chế châu Âu thì một chương trình máy tính không thể được cấp bằng sáng chế (cho người tạo ra chương trình đó) cho dù nội dung của nó là gì! Tuy nhiên, cần phải phân biệt việc sử dụng một chương trình máy tính theo cách hiểu thuộc lĩnh vực kỹ thuật cho việc áp dụng sáng chế thì nó có thể tạo nên một phần của sáng chế tổng thể và chủ thể của sáng chế đó đương nhiên được cấp bằng bảo hộ.
Quan điểm của các nước thành viên EPC về phương pháp điều trị người và động vật, theo họ việc điều trị con người và động vật về cơ bản là vấn đề phi kinh tế và do đó, nó nằm ngoài phạm vi bảo hộ đối với một sáng chế. Việc loại trừ trên chỉ được áp dụng đối với các phương pháp điều trị cơ thể người và vật mà không áp dụng đối với các sản phẩm được sử dụng trong việc điều trị đó.
Nhưng các hợp chất được đem sử dụng cho phương pháp điều trị cho người và động vật thì lại được bảo hộ. Các nước thuộc Tổ chức EPC cũng không cấp bằng sáng chế đối với những khám phá, những học thuyết, phương pháp, bố trí chương trình và hệ thống. Theo quan điểm của các nước thuộc Tổ chức EPC thì việc loại trừ những dạng sáng tạo trên cũng giống như việc loại trừ các “ý tưởng. Theo nguyên tắc xét cấp bằng sáng chế trong Công ước EPC thì: “Việc khám phá ra một vật chất đã được biết tới cụ thể nào đó có thể chịu được những va chạm cơ học sẽ không thể được cấp văn bằng, nhưng một thanh tà vẹt đường ray được làm từ vật liệu đó có thể hoàn toàn được bảo hộ”.
Theo quy định trên, chỉ những sáng tạo nêu ra một giải pháp cụ thể nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật mang tính chất công nghiệp mới được coi là sáng chế và được bảo hộ. Còn những khám phá khác như bố trí chương trình, phương pháp học thuyết mặc dù có hữu ích nhưng không có khả năng áp dụng công nghiệp trên thực tế thì không được bảo hộ là sáng chế, theo đó những sản phẩm trí tuệ trên được coi là tài sản công cộng! Quan điểm của pháp luật Australia và Hoa Kỳ khác biệt so với quy định của EPC trong việc bảo hộ những sản phẩm trí tuệ.
Quan điểm của hai nước nói trên về bảo hộ một sáng chế với những điều kiện cụ thể. Pháp luật của Australia quy định một sáng chế trước hết là: “một cách sản xuất mới” trước khi nó được xem xét bảo hộ theo văn bằng (Điều 18, Luật về Văn bằng sáng chế, 1990). Như vậy, giải pháp đó phải là giải pháp kỹ thuật áp dụng trên thực tế, tính mới của giải pháp đó được áp dụng vào sản xuất có tính sáng tạo và độc đáo không trùng lặp với những giải pháp kỹ thuật khác đang được áp dụng trên thực tế. Tại Hoa Kỳ, một sáng chế hay một khám phá chỉ có thể được bảo hộ khi nó thỏa mãn về một “quy trình, máy móc, sản xuất hay hỗn hợp các chất hay là bất kỳ một sự cải tiến có ích và mới nào của những thứ đó”
Theo pháp luật của Hoa Kỳ thì một “quy trình” được hiểu là “một trình tự, nghệ thuật hay phương pháp”. Như vậy, phạm vi những sản phẩm trí tuệ ở Hoa Kỳ và Australia được cấp bằng bảo hộ sáng chế rộng hơn so với những quy định của EPC. Điều này đã làm cho pháp luật về văn bằng được mở rộng để bảo hộ phần mềm máy tính, công thức toán học và kể cả một số phương pháp trong kinh doanh (phương pháp giao dịch bán hàng thông qua mạng Internet…).
Tiêu chuẩn của một sáng chế được cấp Bằng bảo hộ cần đảm bảo điều kiện gì?
Quy định về những tiêu chuẩn của một sáng chế được cấp Bằng bảo hộ phải đáp ứng ba điều kiện: Tính mới, tính sáng tạo và tính hữu ích. Nhưng phạm vi của tính mới, tính sáng tạo theo luật của EPC và của Australia, Hoa Kỳ có sự khác nhau. Tiêu chuẩn yêu cầu theo EPC về tính mới của một giải pháp kỹ thuật phải mới so với thế giới. Sáng chế phải có tính mới khi đem so sánh với thực tế tri thức hoặc kỹ năng, kỹ thuật trên phạm vị thế giới (quan điểm của EPC cũng tương tự như quan điểm của Việt Nam về sáng chế).
Quan điểm của pháp luật Australia và Hoa Kỳ lại khác ở chỗ:
– Tiêu chuẩn về tính mới của Australia so với thế giới là đối với các tài liệu, còn việc tiết lộ được tiến hành thông qua việc thực hiện một hành vi” và chỉ có các hành vi được thực hiện trong khuôn khổ thẩm quyền quốc gia trước ngày nộp đơn mới được coi là vi phạm những giải pháp kỹ thuật được bảo hộ trước đó. Như vậy, ở Australia trong trường hợp một giải pháp kỹ thuật của một người chưa được thực hiện trong khuôn khổ thẩm quyền quốc gia trước ngày người khác nộp đơn, được coi là có tính mới;
– Còn ở Hoa Kỳ, luật quy định tiêu chuẩn có tính mới nếu như sáng chế đã được công khai ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới hay nó đã được áp dụng trên thực tế hoặc đã được bán tại nước này trước ngày người có sáng chế tương tự nộp đơn thì sáng chế đó không được bảo hộ. Tương tự như vậy, nếu một sáng chế đã được miêu tả trong một ấn phẩm bất kỳ tại một nơi nào đó hay giải pháp đó đã được đem bán tại nước này hơn một năm so với ngày một người nộp đơn thì giải pháp của người đó không được bảo hộ. Nhưng theo quy định của EPC (Điều 54), tính mới của một sáng chế phải không tạo thành một phần của tri thức hay kỹ năng đó. Tri thức hay kỹ năng trước đó được hiểu là bao gồm tất cả những gì đã có sẵn trong công chúng thông qua miêu tả bằng văn bản hay lời nói, thông qua sử dụng hay bằng cách nào khác, trước ngày nộp đơn xin văn bằng châu Âu. Tuy nhiên, theo Điều 55 của EPC thì trong một số trường hợp hạn chế những sự tiết lộ trước đó của người sáng chế hay người khác cũng không ảnh hưởng tới việc bảo hộ một sáng chế. Việc tiết lộ sáng chế không được tính đến nếu nó diễn ra trong thời gian không quá 06 tháng trước ngày nộp đơn xin văn bằng châu Âu với những lý do sau:
– Việc lạm dụng hay sử dụng sai rõ ràng liên quan tới người có đơn hay người tiền nhiệm hợp pháp của người nộp đơn; LAI – Những tình tiết là người có đơn hay tiền nhiệm hợp pháp của người nộp đơn đã trưng bày sáng chế tại một cuộc triển lãm quốc tế chính thức hay được coi là chính thức mà phù hợp với những quy định tại điều khoản của Công ước về triển lãm quốc tế được ký tại Paris ngày 22/11/1928 và sửa đổi lần cuối vào ngày 30/11/1972. Ca Ngược lại, tại Australia và Hoa Kỳ cũng quy định về trường hợp trên nhưng nhà sáng chế được tiết lộ sáng chế cho hiệp hội học giả hay thử nghiệm sáng chế trước công chúng trong hạn 12 tháng trước khi nộp đơn xin cấp Bằng bảo hộ sáng chế đó.
Yêu cầu đối với đơn đăng ký sáng chế
– Tài liệu xác định sáng chế cần bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế bao gồm bản mô tả sáng chế và bản tóm tắt sáng chế. Bản mô tả sáng chế gồm phần mô tả sáng chế và phạm vi bảo hộ sáng chế.
– Phần mô tả sáng chế phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Bộc lộ đầy đủ và rõ ràng bản chất của sáng chế đến mức căn cứ vào đó người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện được sáng chế đó;
b) Giải thích vắn tắt hình vẽ kèm theo, nếu cần làm rõ thêm bản chất của sáng chế;
c) Làm rõ tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế.
3. Phạm vi bảo hộ sáng chế phải được thể hiện dưới dạng tập hợp các dấu hiệu kỹ thuật cần và đủ để xác định phạm vi quyền đối với sáng chế và phải phù hợp với phần mô tả sáng chế và hình vẽ.
4. Bản tóm tắt sáng chế phải bộc lộ những nội dung chủ yếu về bản chất của sáng chế.
Bằng sáng chế là gì?
Bằng sáng chế hay văn bằng bảo hộ sáng chế, với các tên gọi cụ thể là bằng độc quyền sáng chế, bằng độc quyền giải pháp hữu ích, là văn bản do cơ quan có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân, nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế.
Quy định Luật sở hữu trí tuệ bằng sáng chế như thế nào?
Căn cứ vào Luật Sở hữu trí tuệ 2005 bằng sáng chế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, đây là văn bằng bảo hộ được nhà nước xác nhận quyền sở hữu về sản phẩm, quy trình công nghệ.
Chủ thể được cấp bằng sáng chế chính là tác giả của sáng chế hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, vật chất cho tác giả theo thỏa thuận.
Hiệu lực bằng sáng chế được tính từ ngày cấp đến hết:
+ 20 năm kể từ ngày nộp đơn (với bằng độc quyền sáng chế);
+ 10 năm kể từ ngày nộp đơn (với bằng độc quyền giải pháp hữu ích).
Trong thời gian bằng sáng chế có hiệu lực bất cứ cá nhân, tổ chức nào có hành vi sử dụng mà không được sự cho phép chủ bằng thì sẽ bị coi là xâm phạm quyền sở hữu bằng sáng chế.
Quy trình và thời hạn đăng ký bằng sáng chế:
– Nộp đơn đăng ký sáng chế tại Cục sở hữu trí tuệ, đơn hợp lệ Cục sở hữu trí tuệ sẽ ra thông bao chấp nhận, đơn không hợp lệ sẽ ra thông báo từ chối chấp nhận đơn. Thời gian thẩm định đơn đăng ký bằng sáng chế là 1 tháng tính từ ngày nộp đơn
– Công bố đơn hơp lệ: đơn đăng ký sáng chế được công bố trên công báo sở hữu công nghiệp
– Yêu cầu thẩm định nội dung: thời gian thẩm định nội dung bằng sáng chế là không quá 18 tháng
– Quyết định cấp văn bằng sáng chế : đơn hợp lệ, đáp ứng đủ các tiêu chuẩn bảo hộ Cục sở hữu trí tuệ sẽ thông báo và yêu cầu nộp lệ phí ( lệ phí cấp bằng và lệ phí đăng bạ, lệ phí công bố văn băng bảo hộ)
Ví dụ tính mới của sáng chế
Sáng chế được bảo hộ và cấp bằng nếu đáp ứng điều kiện có tính mới. Đây là một điều kiện quan trọng, yêu cầu cơ bản để xem xét việc cấp bằng độc quyền sáng chế.
Ví dụ tính mới của sáng chế : tính mới trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc Đông y cổ truyền của Việt Nam
Tính mới trong ví dụ vừa được nêu trên có nghĩa là trước ngày nộp đơn độc quyền các bài thuốc Đông y cổ truyền Việt Nam, không có một bài thuốc nào giống hệt, bộc lộ công khai và được sử dụng hoặc mọi người đã từng biết đến rộng rãi dưới bất cứ hình thức nào trong nước.
Ngoài ra không có một cá nhân, tổ chức nào yêu cầu bảo hộ sáng chế bài thuốc Đông y giống hệt trong ngày nộp đơn đăng ký tại Cục sở hữu trí tuệ hoặc trước ngày ưu tiên ( trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên)
Tính mới trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc Đông y cổ truyền của Việt Nam không bị mất trong trường hợp sau ( đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn 6 tháng tính từ ngày công bố):
– Sáng chế được người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký
– Sáng chế được người có quyền đăng ký dưới dạng báo cáo khoa học
– Sáng chế được người có quyền đăng ký tạo cuộc triển làm quốc tế hoặc triển lãm quốc gia của Việt Nam
Trên đây là toàn bộ những thông tin giải đáp thắc mắc và tư vấn sáng chế là gì,
đặc điểm của sáng chế và quy định Luật sở hữu trí tuệ về bằng sáng chế như thế nào mà Luật Hoàng Phi muốn gửi tới Quý độc giả tham khảo, để được hỗ trợ tư vấn thêm liên hệ chúng tôi qua số 0981.378.999 hoặc email: lienhe@luathoangphi.vn.
Từ khóa » Ví Dụ Về Tính Mới Của Sáng Chế
-
Tính Mới Của Sáng Chế Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam
-
Tính Mới Của Sáng Chế được Quy định Như Thế Nào?
-
Sáng Chế Là Gì? Ví Dụ Về Sáng Chế Như Thế Nào 2021?
-
Sáng Chế Trong Pháp Luật Sở Hữu Trí Tuệ
-
Tư Vấn Về Tính Mới Của Sáng Chế - Đăng Ký Nhãn Hiệu
-
Yêu Cầu Bảo Hộ Sáng Chế- Tính Mới
-
Sáng Chế Là Gì? Ví Dụ Về Sáng Chế?
-
Làm Thế Nào để Xác định được Sản Phẩm Có Khả Năng Bảo Hộ Sáng ...
-
Trình độ Sáng Tạo Của Sáng Chế - Bảo Hộ Thương Hiệu
-
Một Số Quy định Về Tính Mới Của Sáng Chế
-
[PDF] Bài 3. Sáng Chế Và Bằng độc Quyền Sáng Chế
-
Sáng Chế - Giải Pháp Hữu ích
-
[PDF] Hướng Dẫn Sử Dụng Thông Tin Sáng Chế