Tư Vấn Về Tính Mới Của Sáng Chế - Đăng Ký Nhãn Hiệu
Có thể bạn quan tâm
Căn cứ Khoản 12 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ thì sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Như vậy, tính mới của sáng chế được thể hiện như thế nào?
Căn cứ vào Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ thì sáng chế được xem là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
– Thứ nhất: sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật sở hữu trí tuệ;
– Thứ hai: sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật sơ hữu trí tuệ công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
– Thứ ba: sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật sở hữu trí tuệ trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức.
Tính mới của sáng chế phải mang tính chất tuyệt đối, tức là sáng chế cũng phải mới so với toàn thế giới chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam.
Tiêu chí chưa bị bộc lộ công khai:
– Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
– Thời điểm để xác định một sáng chế bị bộc lộ công khai là ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
– Hình thức bộc lộ công khai có thể là sáng chế sáng chế đã được sử dụng, mô tả bằng ấn phẩm tư liệu, mô tả bằng thuyết trình, giảng dạy, đăng tải trên Internet, lưu thông trên thị trường…hoặc bằng bất kỳ cách bộc lộ nào khác miễn để cho người khác biết đến sáng chế của mình.
– Để xác định một sáng chế có tính mới hay không thì cần có sự so sánh, đối chiếu với các đối chứng cụ thể. Các đối chứng này không chỉ giới hạn trong phạm vi những đăng kí sáng chế, văn bằng bảo hộ trong nước và nước ngoài mà còn phải tra cứu ở cả những công trình khoa học, tài liệu nghiên cứu thuộc lĩnh vực.
Một điểm cần lưu ý nữa là khi dùng các tài liệu đối chứng thì không được kết hợp tài liệu của từng phần riêng biệt yêu cầu bảo hộ mà phải đánh giá tổng thể. Ví dụ như yêu cầu bảo hộ một cái bàn có bánh xe di chuyển được cấu tạo từ mặt bàn của chiếc bàn thông thường và chân bàn có bánh xe di chuyển của chiếc ghế có bánh xe, thì khi bảo hộ, phải tìm tài liệu đối chứng là tổng thể cái mặt bàn + chân ghế có bánh xe chứ không thể dẫn chứng tài liệu từ sản phẩm bàn và ghế trên để xét nghiệm sáng chế.
Tiêu chí không trùng lặp với bất kì một giải pháp kĩ thuật nào trước đó:
Sáng chế để bảo đảm tính mới thì phải đảm bảo sự không trùng lặp hoặc có ít nhất một dấu hiệu kỹ thuật cơ bản khác biệt so với các giải pháp kỹ thuật đã được cấp bằng bảo hộ hoặc đã nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ.
Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định về trường hợp ngoại lệ trong việc xác định tính mới của sáng chế. Theo đó, sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
– Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký.
– Sáng chế được người có quyền đăng ký công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
– Sáng chế được người có quyền đăng ký trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức.
Đây là các trường hợp mà sự biết đến và bộc lộ của sáng chế đến từ những người có điều kiện nhất định và giới hạn số lượng biết đến sáng chế như người kiểm định; cộng sự cùng tạo ra sáng chế đó hoặc số lượng người tới xem triển lãm (số lượng này có thể giới hạn được). Tuy nhiên, với trường hợp này, những người cộng sự cùng làm ra sáng chế phải có một thoả thuận về việc giữ bí mật tính mới của sáng chế, nhưng khi một người trong số đó phá vỡ quy tắc, bộc lộ sáng chế ra với bên ngoài thì sáng chế này cũng bị coi là không còn tính mới.
Để một sáng chế được bảo hộ, việc xem xét về tính mới là vô cùng quan trọng và cũng là một quá trình tương đối phức tạp. Vì vậy, trước khi quyết định đăng ký cho một sáng chế nào đó, chủ sở hữu sáng chế cần phải kiểm tra tính mới của sáng chế mà mình sở hữu, để chắc chắn rằng sáng chế đó vẫn chưa bị bộc lộ công khai và khác biệt đáng kể với những sáng chế được bảo hộ trước đó.
>>>Xem thêm: Các nội dung chính của đơn đăng ký bảo hộ sáng chế
XEM NGAY VIDEO HƯỚNG DẪN VIẾT TỜ KHAI ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU
Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí
- Phòng Sở hữu Trí Tuệ - VP Luật Newvision Law
- Địa chỉ: Số 34, Ngõ 187 Trung Kính, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
- Email: contact.newvisionlaw@gmail.com
- Hotline: Hotline tư vấn sở hữu trí tuệ: 0984.769.278
Hoặc Bạn Có Thể Gửi Nội Dung Đăng Ký Tư Vấn Miễn Phí Qua Biểu Mẫu Dưới Đây Chúng Tôi/Luật Sư Sẽ Liên Hệ Lại Ngay!
Từ khóa » Ví Dụ Về Tính Mới Của Sáng Chế
-
Tính Mới Của Sáng Chế Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam
-
Tính Mới Của Sáng Chế được Quy định Như Thế Nào?
-
Sáng Chế Là Gì? Bằng Sáng Chế Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
Sáng Chế Là Gì? Ví Dụ Về Sáng Chế Như Thế Nào 2021?
-
Sáng Chế Trong Pháp Luật Sở Hữu Trí Tuệ
-
Yêu Cầu Bảo Hộ Sáng Chế- Tính Mới
-
Sáng Chế Là Gì? Ví Dụ Về Sáng Chế?
-
Làm Thế Nào để Xác định được Sản Phẩm Có Khả Năng Bảo Hộ Sáng ...
-
Trình độ Sáng Tạo Của Sáng Chế - Bảo Hộ Thương Hiệu
-
Một Số Quy định Về Tính Mới Của Sáng Chế
-
[PDF] Bài 3. Sáng Chế Và Bằng độc Quyền Sáng Chế
-
Sáng Chế - Giải Pháp Hữu ích
-
[PDF] Hướng Dẫn Sử Dụng Thông Tin Sáng Chế