Tập Quán Pháp Là Gì? Lấy Ví Dụ Và điều Kiện áp Dụng Tập Quán Pháp?

Mục lục bài viết

  • 1 1. Tập quán pháp là gì?
  • 2 2. Tập quán điều chỉnh một số quan hệ nhân thân:
  • 3 3. Áp dụng tập quán trong một số vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự:
  • 4 4. Tập quán trong việc xác định quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản:
  • 5 5. Áp dụng tập  quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và thừa kế:
  • 6 6. Áp dụng tập quán quốc tế:

1. Tập quán pháp là gì?

Tập quán pháp là tập quán được pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý, trở thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây được xem như một nguồn bổ trợ, nhất là khi nhiều quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật. 

Trong Bộ luật dân sự 2015, Nhà nước ta đã thừa nhận một số tập quán. Việc thừa nhận này trước hết thông qua một quy định mang tính nguyên tắc thể hiện tại Điều 5: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định”

Thứ tự ưu tiên và điều kiện để áp dụng tập quán pháp:

– Giữa các bên không có thỏa thuận

– Không có pháp luật điều chỉnh trực tiếp

– Có tập quán áp dụng

– Tập quán không trái với với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

2. Tập quán điều chỉnh một số quan hệ nhân thân:

–  Đối với quyền có họ, tên: trong số những quyền nhân thân được BLDS năm 2015 ghi nhận, bảo vệ thì quyền xác định dân tộc là quyền có sự tham gia điều chỉnh của tập quán pháp. Theo khoản 2 Điều 26 BLDS 2015: ” Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.” Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp  liên quan đến việc xác định họ cho cá nhân khi có yêu cầu, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền dân sự của cá nhân cụ thể trong trường hợp này – quyền họ, tên.

–  Quyền xác định, xác định lại dân tộc:

Khoản 1 Điều 28 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn”.

Quy định này không chỉ rõ thứ tự ưu tiên xác định dân tộc theo tập quan trước hay theo thỏa thuận trước dẫn đến có những trường hợp tranh chấp xảy ra rất khó giải quyết.

3. Áp dụng tập quán trong một số vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự:

Giải thích giao dịch dân sự (bao gồm cả hợp đồng dân sự) theo Điều 121:

“Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:

a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;

b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;

c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”

Như vậy, tập quán nơi giao dịch được xác lập nếu được lựa chọn để giải thích giao dịch dân sự thì đó chính là tập quán pháp

Tập quán còn được sử dụng để xác định nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng tài sản thuê trong giao dịch thuê tài sản. “Bên cho thuê phải bảo đảm tài sản thuê trong tình trạng như đã thỏa thuận, phù hợp với mục đích thuê trong suốt thời gian cho thuê; phải sửa chữa những hư hỏng, khuyết tật của tài sản thuê, trừ hư hỏng nhỏ mà theo tập quán bên thuê phải tự sửa chữa”.

4. Tập quán trong việc xác định quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản:

Tập quán pháp còn được sử dụng để xác định quyền sở hữu chung, hình thành quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung của cộng đồng. Việc xác lập quyền sở hữu chung có thể được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật và cũng có thể được hình thành theo tập quán (Điều 208 BLDS năm 2015).

Việc quy định về áp dụng tập quán trong việc xác định nghĩa vụ của người hưởng dụng tài sản là quy định mới phù hợp và tương thích với việc ghi nhận thêm một quyền khác đối với tài sản đó là quyền hưởng dụng tài sản.

5. Áp dụng tập  quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và thừa kế:

Quy định về áp dụng tập quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong việc thanh toán và phân chia di sản thừa kế  vấn được BLDS 2015. Theo đó, khoản 4 Điều 603 quy định về bồi thường do súc vật gây ra có quy định: “Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Liên quan đến vấn đề thừa kế, Điều 658 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ và các khoản chi phí, tại khoản 1 quy định chi phí đầu tiên được ưu tiên thanh toán chính là chi phí hơp lý theo tập quán cho việc mai táng.

6. Áp dụng tập quán quốc tế:

Tương tự với phần tập quán trong nước, phần áp dụng tập quán quốc tế trong BLDS 2015 đã được tách biệt khỏi phần áp dụng pháp luật nước ngoài trở thành một quy định độc lập và nội dung của quy định này được điều chỉnh cho phù hợp với luật quốc tế. Điều 666 BLDS 2015 quy định các bên được lựa chọn tập quán quốc tế để áp dụng trong trường hợp điều ước quốc tế hoặc luật Việt Nam có quy định  cho lựa chọn tập quán quốc tế. Nếu hậu quả của việc áp dụng tập quán đó trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.

Thay đổi này của BLDS 2015 đã thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Kể cả trong trường hợp có luật để áp dụng nhưng các bên lựa chọn tập quán quốc tế  để áp dụng thì lựa chọn của các bên vẫn được tôn trọng và tập quán quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng.

Nguyên tắc áp dụng tập quán pháp:

– Tập quán phải rõ ràng để xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự

– Tập quán phải là thói quen được hình thành, thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong đời sống xã hội

– Tập quán được áp dụng trong trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định

– Tập quán được áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

Trong trường hợp, tập quán pháp trong đó có tình tiết hai bên tranh chấp thuộc hai địa phương khác nhau đều có tập quán để áp dụng thì tập quán trong trường hợp này được áp dụng như sau:

Ví dụ trường hợp trâu bò thả rông thuộc sở hữu của ai?

Ở khu vực miền núi phía bắc Tây Nguyên đối với trâu bò thả rông. Người được trâu bò thả rông sau một thời gian không phải là người được xác lập quyền sở hữu đối với trâu bò này mà người sở hữu thực sự của nó là người đã thả rông nó vì tập quán những nơi này là thả rông trâu bò, việc áp dụng tập quán này hoàn toàn phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu của vùng núi mùa khô lạnh, trâu bò không có thức ăn thì thả rông cho trâu bò tự tìm thức ăn, đến mùa ấm áp có thức ăn thì trâu bò về lại chuồng trại ban đầu của nó. Ở địa phương khác, việc xác định chủ sở hữu đối với trâu bò được xác định sở hữu cho người bắt được trâu bò trong một thời hạn nhất định. Như vậy, ở hai địa phương khác nhau, việc xác định chủ sở hữu đối với trâu, bò thả rông bị lạc áp dụng tập quán khác nhau. Do đó, khi phát sinh tranh chấp việc lựa chọn tập quán ở địa phương nào áp dụng để giải quyết tranh chấp còn nhiều vướng mắc.

– Có tập quán được cộng đồng thừa nhận như chuẩn mực ứng xử trong các trường hợp đó. Do các phong tục tập quán rất phong phú đa dạng và có sự khác biệt giữa các vùng miền, dòng họ, gia đình, dân tộc; nên khi áp dụng tập quán thì phải áp dụng những tập quán được đông đảo mọi người trong cộng đồng và khu vực thừa nhận. Không được phép áp dụng tập quán của địa phương này cho địa phương khác hay của dòng họ, gia đình này cho dòng họ và gia đình khác.

Theo đó, việc áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp ví dụ trên phải thỏa mãn những điều kiện trên.

Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc: 

“1. Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.

2. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được gia súc. Trong thời gian nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra hoặc 50% giá trị số gia súc sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc”.

Tập quán được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tồn tại lâu dài trong đời sống xã hội, vì vậy, không phải tập quán nào cũng còn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong thời kỳ hiện nay. Vì vậy, việc xác định rõ nguyên tắc áp dụng tập quán trong điều chỉnh các quan xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng rất quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của những tập quán tiến bộ và loại bỏ dần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn những tập quán lạc hậu không còn phù hợp để áp dụng trong điều kiện hiện nay.

Từ khóa » Ví Dụ Về Pháp Luật Và Phong Tục Tập Quán