Thách Thức Cho Làng Dao Kéo! - Báo Nhân Dân
Có thể bạn quan tâm
Cái tâm trong sắt thép!
Với hơn 1.000 năm hình thành và phát triển, làng rèn Đa Sỹ (thuộc phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, TP Hà Nội) là một trong những làng nghề truyền thống nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trước đây, làng còn có tên là Đan Khê, Đan Sỹ hay làng Sẽ chuyên rèn khí giới, nông cụ, đến thế kỷ 18 mới chính thức đổi tên thành Đa Sỹ. Qua bao biến cố của thời cuộc, đến nay lửa lò vẫn đỏ.
Thừa hưởng sự truyền dạy từ hai cụ tổ nghề Nguyễn Thuật và Nguyễn Thuần, những bí quyết để tạo ra những sản phẩm tinh xảo của nghề rèn đã được người dân làng Đa Sỹ tiếp thu và phát triển qua nhiều thế hệ. Theo ông Nghiêm Văn Bính (82 tuổi), một thợ rèn có tiếng của làng, thứ làm cho dao, kéo của Đa Sỹ trở nên nổi tiếng là chất lượng sản phẩm. Thợ rèn Đa Sỹ dặn nhau: Làm nghề phải có cái tâm, trước đây, làm ra được con dao, điều đầu tiên là phải bảo đảm chất lượng rất tốt. Vì một sản phẩm đóng tên mình vào rồi, coi như bản mệnh mình gắn liền vào đấy!
Ông Bính tỉ mẩn: “Cầm vào con dao, nó phải êm ái, mát tay, ưng ý, thấy nhẵn nhụi, sống thẳng, chắc chắn, dùng tốt người ta càng… yêu! Còn nếu cầm con dao thấy gợn, thấy đã “cãi nhau” với tay mình thì người ta không muốn nữa rồi. Để tạo ra được một sản phẩm có chất lượng tốt, phải rất công phu và trải qua nhiều công đoạn kỹ càng. Mỗi gia đình làm nghề rèn ở làng đều có bí quyết riêng, nhưng điểm chung là chất lượng thép phải tốt và khâu quan trọng, đòi hỏi nhiều kỹ thuật nhất là khâu tôi thép và làm nguội. Chúng tôi có câu “Già quá hóa mẻ, non quá hóa quằn”, thế nên tôi thép sao để dao ít khi bị mẻ và cứ sắc mãi, cho đến khi dùng mòn hết lớp thép mới thôi”.
Trong ngày lễ giỗ tổ nghề tổ chức tại làng, chúng tôi gặp ông Hoàng Quốc Chính, Chủ tịch Hiệp hội nghề rèn Đa Sỹ. Ông kể, ngoài chất lượng sản phẩm, thì việc tận tâm truyền nghề cũng là cách giúp nghề rèn Đa Sỹ tồn tại. Ở làng chúng tôi, nếu muốn học nghề thì không bao giờ phải đóng tiền, ngay cả với những người ở địa phương khác. Bắt đầu từ những việc đơn giản như quay bễ, mài dao… Người học nghề còn được chủ lò nuôi ăn cơm, đến khi dần biết nghề thì bắt đầu được trả công. Rồi khi thành nghề lại được chủ lò sắm đồ, vã đe… để ra riêng lập nghiệp… Những điều ông Chính nói, về cái đức, cái ân của người làm nghề với nhau ở một làng nghề truyền thống, phải chăng không phải lúc nào cũng dễ thấy trong đời sống kinh doanh, cạnh tranh khốc liệt hiện nay, trong đời sống mà bản thân mỗi doanh nghiệp cũng phải tính toán chi li, thiệt hơn cho câu chuyện nhân sự của mình?
Giờ đây, làng Đa Sỹ vẫn có đến hơn 800 lò rèn còn đỏ lửa. Thế hệ trẻ đã áp dụng nhiều loại máy móc hỗ trợ việc sản xuất như máy ép, mài… hay búa máy nhằm giảm thiểu sức người, giúp tăng năng suất lao động. Trước đây nguyên liệu khá hiếm, người dân thường tận dụng từ nhíp xe ô-tô, ray đường sắt bỏ đi…, sau này nguồn nguyên liệu dồi dào, phần lớn tôn, thiếc được nhập từ Thạch Thất (Hà Nội) và Nam Định. Nhờ vậy số lượng cũng như chủng loại mặt hàng cũng được nâng lên đáng kể. Mỗi ngày Đa Sỹ xuất xưởng hàng nghìn con dao, chiếc kéo chất lượng cao.
Đáng chú ý, do nhu cầu của thị trường tăng lên, cùng với thương hiệu Đa Sỹ đã nổi tiếng từ lâu, nên sản phẩm làm ra bao nhiêu đều được tiêu thụ hết. Không chỉ ở thị trường trong nước, dao kéo Đa Sỹ còn có mặt ở nhiều nơi như Lào, Campuchia và nhiều nước châu Âu. Đặc biệt, người dân cũng đã bước đầu biết cách làm thương hiệu qua việc đóng dấu tên vào mỗi sản phẩm của mình và quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện đời sống của người làm nghề rèn ở làng tương đối ổn định, bình quân mỗi lao động có thu nhập khoảng 500 nghìn đồng/ngày. Nhiều hộ đầu tư máy móc hỗ trợ sản xuất, thu nhập có thể lên tới 1 triệu đồng/ngày.
Một hộ sản xuất cho ra lò khoảng 100 sản phẩm mỗi ngày.
Bộn bề cho tương lai
Tuy nhiên, như tâm sự của những người thợ làng nghề giàu truyền thống này (Đa Sỹ còn có nghề làm thuốc, nổi tiếng là đất học…), thì các khâu sản xuất đã có máy móc hỗ trợ nhiều, nhưng nói chung nghề rèn vẫn khá vất vả so các nghề khác.
Thợ rèn suốt ngày phải tiếp xúc với bụi than, sắt rất độc hại. Ngoài không khí ô nhiễm, lẫn tiếng ồn thì việc phải ngồi cạnh lò rèn trong những ngày hè nóng bức cũng là một cực hình. Bệnh nghề nghiệp ở đây chủ yếu là đau dạ dày do ngồi nhiều và bệnh phổi do ảnh hưởng khói bụi. Nên không phải ai cũng muốn gắn bó, nhất là thế hệ trẻ. Số thanh niên còn bám nghề cũng ít dần theo xu thế, nhiều người chuyển sang kinh doanh, buôn bán, vì thế thợ giỏi ngày càng hiếm, chủ yếu là lớp thợ già.
Nhìn sang những làng nghề khác, đôi khi những người thợ già cũng thấy chạnh lòng bởi cùng là hàng thủ công truyền thống nhưng con dao của Đa Sỹ không thể đặt ngang với hàng lưu niệm như lụa Vạn Phúc, hay sản phẩm thêu Thường Tín… vì từ trước tới nay, chẳng mấy ai đi tặng dao nhau cả. Tất nhiên, người ta cũng hiểu, đó là do đặc thù nghề nghiệp. Nhưng cũng bởi yếu tố đặc thù mà người thợ làng rèn cũng chịu một thiệt thòi không đáng có, cần được sự quan tâm điều chỉnh của các cơ quan chức năng. Đó là chưa có đặc thù nào để xét danh hiệu nghệ nhân cho làng rèn dao kéo như ở Đa Sỹ. Không như các làng nghề khác như dệt, thủ công mỹ nghệ… có thể sáng tạo ra nhiều mẫu mã, nhưng nghề rèn thì theo ông Hoàng Quốc Chính, tốt mấy thì cũng chỉ là con dao, hoặc sắc, hoặc cùn thôi, không thể sáng tạo ra thêm “râu, ria” gì được, dao là dao mà kéo là kéo, chứ không thể tạo ra những hình thức cầu kỳ, màu mè được. Được biết, cả làng từ trước tới nay mới chỉ có một người được trao tặng danh hiệu nghệ nhân. Hiệp hội của làng cũng đang xúc tiến đăng ký thương hiệu bản quyền.
Bên cạnh đó, những trăn trở ngày càng thường trực hơn trong nhiều bậc cao niên của làng rèn Đa Sỹ là nỗi lo về chất lượng sản phẩm sẽ kém đi do sản xuất đại trà. Thực tế, đã có chủ lò ôm nhiều mặt hàng không phải sở trường khiến thương hiệu Đa Sỹ mất uy tín. Nhiều cá nhân ở địa phương khác đến học nghề rồi về mở lò và sản phẩm cũng đóng dấu dao kéo Đa Sỹ gây nhiễu loạn thương hiệu. Bên cạnh việc phải cạnh tranh với các thương hiệu khác từ các làng nghề trong nước cũng như hàng giá rẻ của Trung Quốc, chất lượng tốt của Thái-lan, công tác quảng bá, tiếp thị cho làng rèn cũng rất vất vả. Bởi việc mang sản phẩm tham gia các hội chợ, nhất là ở các tỉnh miền núi cũng khá tốn kém trong khâu vận chuyển. Hiện, UBND phường Kiến Hưng đã quy hoạch khu đất làng nghề rộng 15 ha cho Đa Sỹ để tập trung khu sản xuất tránh ô nhiễm môi trường. Tuy đã được phê duyệt nhưng dự án vẫn chưa triển khai do còn nhiều vướng mắc.
Người thợ rèn làng Đa Sỹ vẫn đang cố gắng từng ngày giữ lửa nghề truyền thống, đối diện những khó khăn, thách thức và tìm hướng đi trong bối cảnh mới. Làng rèn Đa Sỹ đã được Hiệp hội làng nghề Việt Nam công nhận là một trong những làng nghề tiêu biểu của Việt Nam. Ông Hoàng Quốc Chính cho biết: Ngoài việc cố gắng bảo đảm chất lượng sản phẩm, chúng tôi cũng đã liên hệ với các ban, ngành chức năng để phát triển thêm mảng du lịch làng nghề. Còn quá nhiều câu hỏi đang đặt ra trước mắt cho việc gắn bó với nghề, giữ gìn kỹ thuật, bảo vệ môi trường và sức khỏe những người thợ...
Bài & ảnh: KHIẾU MINH
Từ khóa » Thợ Rèn ăn Dao Luộc
-
Thợ Rèn ăn Dao Lụt - Tạp Chí Đáng Nhớ
-
Thợ Rèn ăn Dao Lụt - Lại Nguyên Ân
-
Thợ Rèn ăn... Dao Lụt! - Báo Công An Đà Nẵng
-
Thợ Rèn ăn Dao Lụt - Sài Gòn Xưa
-
Thợ Rèn ăn Dao Luộc, Mẹ Bán Len... - Len Sợi Phụ Kiện Đà Nẵng
-
Thợ Rèn ăn Dao Lụt - Việt Cổ Phong
-
Tục Ngữ Về "thợ Rèn" - Ca Dao Mẹ
-
Thợ Rèn Bảy Búa - Phú Yên Online
-
Dân Tộc Dao | HỆ VĂN HÓA ĐỜI SỐNG KHOA GIÁO - VOV4
-
Từ Nghề Rèn Hiền Lương Nghĩ đến Gia Tài Giàu Có Của Huế
-
Đại Thợ Rèn Tiểu Mật Đào - Chương 38 - Truyện FULL
-
Đại Thợ Rèn Tiểu Mật Đào - Chương 20 - Doc Truyen
-
Tìm Lại Hồn Quê - Báo Cà Mau