Thực Thi Các FTA Thế Hệ Mới: Lý Luận, Thực Tiễn Và Giải Pháp

1. Hiệp định thương mại tự do và những tác động tới kinh tế - xã hội

Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một hiệp ước giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các nước tiến hành theo lộ trình việc cắt và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do, tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên.

Bốn nội dung mà FTA đề cập đến thường bao gồm: Quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; Quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan (thông lệ áp dụng chung là 90% thương mại); Quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời gian cắt giảm thuế thường được kéo dài không quá 10 năm Quy định về quy tắc xuất xứ.

Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy 03 thế hệ hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement - FTA) nối tiếp nhau đã diễn ra trong quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa. Theo đó :

- FTA thế hệ thứ nhất tập trung ở việc tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng hóa (cắt giảm thuế quan, loại bỏ các rào cản phi thuế quan);

- FTA thế hệ thứ hai mở rộng phạm vi tự do hóa sang các lĩnh vực dịch vụ nhất định (xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan);

- FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng phạm vi tự do về dịch vụ, đầu tư.

Hiệp định thương mại tự do thế hệ mớilà khái niệm mang tính tương đối, phản ánh quá trình phát triển ngày càng mạnh và đa dạng của vấn đề tự do hóa thương mại và liên kết sản xuất trên toàn thế giới thông qua kênh các hiệp định thương mại khu vực, trong bối cảnh thỏa thuận đa phương toàn cầu chưa khắc phục được sự bế tắc cùng với sự nảy sinh những quan ngại, thậm chí là chống lại quá trình toàn cầu hóa ở không ít quốc gia. Các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng hơn, có cả những quy định "ngoài kinh tế" hay "kinh tế chính trị". Các FTA này khi có hiệu lực sẽ ảnh hưởng rất mạnh tới thể chế của các bên liên quan.

Đến nay,Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 13 FTA đã ký kết và đi vào hiệu lực, 01 FTA đã ký kết và chờ phê chuẩn (FTA Việt Nam - EU) và 03 FTA đang đàm phán (Gồm các FTA: RCEP (ASEAN+6); Việt Nam - EFTA và Việt Nam - Israel). Các FTA này đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và có quan hệ thương mại với trên 230 thị trường, trong đó có FTA với 60 nền kinh tế, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp (DN) của Việt Nam mở rộng tiếp cận thị trường toàn cầu, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Chiều 30/6, tại Hà Nội, Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU gồm

Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA) vừa được ký kết sau 9 năm đàm phán. (Ảnh: TTXVN)

Được xem là “những hiệp định của thế kỷ 21”, các FTA thế hệ mới hướng tới một sân chơi mới nhằm tạo ra các tiêu chuẩn mới cho thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế, sẽ tạo điều kiện cân bằng lại quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực thị trường nhất định… Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do các FTA đem lại.Với các cam kết sâu và rộng hơn WTO, các hiệp định cũng sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, từ đó hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng. Do hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này sẽ có tác dụng rất tốt để thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính.

Rõ ràng, với các FTA thế hệ mới, chúng ta sẽ có điều kiện tăng tốc mở cửa với thế giới, tạo lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó - cơ sở để xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh. Khung khổ pháp lý của các hiệp định sẽ là khuôn mẫu cho việc vận hành các nền kinh tế trong thế kỷ XXI, với những quy phạm, quy định cao hơn, toàn diện hơn. Đây là một cơ hội thực sự vì chưa bao giờ Việt Nam có được một vị thế tốt như hiện nay. Tác động tổng thể đối với nền kinh tế Việt Nam là rất tích cực, song không có nghĩa đúng với mọi ngành, mọi DN. Cơ hội có khi lại trở thành thách thức nếu thiếu các chính sách vĩ mô thích hợp và những cải cách bên trong cần thiết

Khác với các FTA mà Việt Nam đang ký kết với các nước, FTA thế hệ mới đặt ra những đòi hỏi cao hơn nhiều: tháo gỡ hết mọi rào cản thương mại, tự do hoá tối đa các hoạt động đầu tư, dịch vụ, yêu cầu cao về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường và cả những vấn đề nhạy cảm đối như: bình đẳng không phân biệt đối xử với các loại DN trong và ngoài nước, vấn đề DN Nhà nước, vấn đề quyền lập hội, vấn đề mua sắm của Chính phủ… Những vấn đề đó các nước lớn đã thực hiện xong hoặc cơ bản xong trong các FTA đã ký. Việt Nam chỉ thỏa thuận được thời hạn bảo lưu hợp lý. Trên thực tế, để thực thi các cam kết, sẽ phải cải cách khá nhiều luật lệ để đạt các tiêu chuẩn có thể chấp nhận được. Nếu không có những định hướng rõ ràng, thống nhất cũng như các kế hoạch cụ thể, áp lực trong thực hiện cam kết rất có thể sẽ lại là rào cản của những cơ hội mới.

Thực thi các FTA, xung đột lợi ích luôn luôn xảy ra vì cơ hội của ngành này lại có thể là thách thức của ngành kia và ngược lại. Đây cũng là điều thường xuyên xảy ra trong nền kinh tế dù Việt Nam có tham gia FTA hay không. Cơ hội và thách thức của mỗi DN khác nhau, phụ thuộc vào quy mô, ngành hàng, thị trường xuất khẩu và đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ đối mặt với thực tiễn ngày càng gia tăng các vụ kiện phòng vệ thương mại, chống trợ cấp, tự vệ, chống bán phá giá.

Thực thi các hiệp định cũng có thể gây ra một số hệ quả về mặt xã hội.Những ngành vốn được bảo hộ nhiều và DN kém cạnh tranh sẽ phải giảm sản xuất, thậm chí thu nhỏ hoặc phá sản. Với những ngành hàng được xem là có lợi thế cũng có thể vấp phải không ít rào cản, đây cũng chính là thách thức lớn nhất đặc biệt đối với ngành nông nghiệp khi mà sản xuất còn manh mún, năng suất thấp, chất lượng chưa đảm bảo cạnh tranh mạnh mẽ với một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Nhìn lại chặng đường đã qua, bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung quá trình hội nhập vẫn chưa thực sự nói hết được những tác động tích cực, mang tính dài hạn. Khả năng thích ứng với kinh tế thị trường, khả năng chủ động khai thác cơ hội của chúng ta còn yếu. Tính tích cực, chủ động trong hội nhập chưa cao, tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Mới đơn thuần tận dụng được lợi ích tĩnh mang tính ngắn hạn, chưa tận dụng được các lợi ích động mang tính dài hạn, đặc biệt là việc tạo động lực cho đổi mới và sáng tạo, phát huy tối đa nội lực nhằm “bước lên” các vị trí có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế còn chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế địa kinh tế, chính trị của đất nước... Bài học từ việc gia nhập WTO hay các hiệp định thương mại khác vẫn được các chuyên gia nhắc đến như một lời cảnh báo, khi có không ít ngành đã phải chịu sự tổn thương do không có sự chuẩn bị tốt khi hội nhập. Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được hưởng lợi về thuế, song với những vấn đề không thuộc về thuế, đặc biệt là các rào cản bảo hộ mà nhiều nước đặt ra, nếu DN không đáp ứng được thì nguy cơ bị loại ra khỏi cuộc chơi là hoàn toàn có thể.

2. Tác động của các FTA thế hệ mới đến xuất khẩu của Việt Nam

Sự gia tăng xuất khẩu do hàng hoá của Việt Nam trở nên rẻ hơn so với trước khi được giảm thuế và thay thế hàng hoá của các nước đối tác FTA trên chính thị trường của các nước này được quan niệm là gia tăng do tạo lập thương mại. Còn sự gia tăng của xuất khẩu do hàng hoá của Việt Nam rẻ hơn so với hàng hoá của các nước khác trên thị trường các nước đối tác FTA được xem là gia tăng do chệch hướng thương mại. Dự báo tác động đến xuất khẩu của Việt Nam sang các nước đối tác FTA từ kết quả mô phỏng SMART của đề tài cấp Nhà nước mã số ĐTĐL.XH.07/16 cho thấy:

- Xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng mạnh và cao nhất, sau đó đến EU và CPTPP. Gia tăng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước EAEU thấp nhất và thấp hơn nhiều so với mức tăng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước và khu vực khác.

Bảng 1. Gia tăng xuất khẩu của Việt Nam theo FTA

Khu vực/Quốc gia

Giá trị

tăng thêm(1.000 USD)

Tỷ trọng (%)

Tăng trưởng (%)

Tác động tạo lập

Tác động

chệch hướng(1.000 USD)

1.000 USD

%

1. Giai đoạn 1

(2019-2026)

5.042.804

100,00

6,01

2.719.526

53,93

2.323.278

EU

1.640.803

32,54

4,95

742.242

45,24

898.561

CPTPP

1.146.226

22,73

3,17

535.479

46,72

610.746

Hàn Quốc

2.194.645

43,52

17,56

1.409.584

64,23

785.061

EAEU

61.131

1,21

2,80

32.221

52,71

28.910

2. Giai đoạn 2

(2027 - 2029)

275.057

100

0,31

146.547

53,28

128.510

EU

0.00

-

-

-

-

0.00

CPTPP

275.057

100,00

0,73

146.547

53,28

128.510

Hàn Quốc

0.00

-

-

-

-

0.00

EAEU

0.00

-

-

-

-

0.00

Nguồn: Đề tài cấp Nhà nước mã sốĐTĐL.XH.07/16

-Gia tăng xuất khẩu của 08 nhóm hàng Nông sản; Thủy sản; Dệt may; Điện thoại và linh kiện điện tử; Giày dép; Máy móc thiết bị; Phương tiện và thiết bị vận tải và Gỗ & sản phẩm gỗlên đến hơn 4,3 tỷ USD, chiếm 81,94% tổng xuất khẩu tăng lên của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của 08 nhóm hàng nghiên cứu cũng cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam sang các nước đối tác (6,63% so với 6,33%).

Bảng 2. Gia tăng XK của Việt Nam sang các nước đối tác FTA theo nhóm hàng

Nhóm sản phẩm

Giá trị

tăng thêm (1.000 USD)

Tỷ trọng (%)

Tăng trưởng (%)

Tác động tạo lập

Tác động chệch hướng (1.000 USD)

1.000 USD

%

Thủy sản

311.072

5,85

13,06

206.651

66,43

104.421

Nông sản

409.922

7,71

10,66

325.418

79,39

84.504

Dệt may

1.979.611

37,23

16,76

1.061.004

53,60

918.607

Điện thoại và linh kiện điện tử

354.381

6,66

1,19

170.500

48,11

183.881

Giày dép

1.085.240

20,41

15,64

444.868

40,99

640.372

Máy móc thiết bị

65.174

1,23

0,77

31.303

48,03

33.870

Phương tiện và thiết bị vận tải

72.366

1,36

7,25

47.943

66,25

24.423

Gỗ và sản phẩm gỗ

79.466

1,49

5,82

49.128

61,82

30.339

Tổng 08 nhóm

4.357.232

81,94

6,63

2.336.816

53,63

2.020.416

Tổng XK

5.317.861

100,00

6,33

2.866.073

53,90

2.451.788

Nguồn: Đề tài cấp Nhà nước mã số ĐTĐL.XH.07/16

Tác động của04 FTA thế hệ mới EVFTA, CPTPP, VKFTA và EAEU dựa trên mô hình SMART cũng cho thấy xuất khẩu của Việt Nam sang các nước đối tác FTA sẽ tăng chủ yếu trong giai đoạn 2019 - 2026. Dệt may là nhóm hàng Việt Nam tăng xuất khẩu nhiều nhất, tiếp đến là Giày dép. Ngoài ra, xuất khẩu Nông sản, Điện thoại và Linh kiện điện tử, Thủy sản gia tăng ở mức độ tương đối. Xuất khẩu Máy móc thiết bị, Phương tiện và thiết bị vận tải, Gỗ & sản phẩm gỗ tăng không đáng kể.

Tuy nhiên, những lợi thế cạnh tranh về giá do Việt Nam tham gia 04 FTA thế hệ mới có thể sẽ không dài hạn và phụ thuộc nhiều vào tiến trình hội nhập của các quốc gia khác trên thế giới.

Lễ ký Bản thỏa thuận kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc ngày 29 tháng 3 năm 2015.

(Ảnh: TTXVN)

3. Định hướng và giải pháp cho thời gian tới

Thế giới đang trải qua những thay đổi to lớn. Ba xu hướng đang tác động mạnh lên nền kinh tế các nước: sự chững lại của quá trình toàn cầu hóa; bùng nổ các ứng dụng công nghệ và sự xuất hiện ngày càng nhiều các biến cố gây bất ngờ và xáo trộn mọi dự tính.

Hậu đại dịch Covid-19 sẽ chứng kiến sự lên ngôi của Chủ nghĩa dân tộc (Nationalism) và ở chiều ngược lại là bước thụt lùi của Quản trị toàn cầu (Global governance). Theo nhận định của một số chuyên gia nước ngoài: thế giới hậu đại dịch là một thế giới bớt cởi mở, kém thịnh vượng và ít tự do hơn. Khi vai trò của các quốc gia được đề cao, thì điều này cũng đồng nghĩa với vai trò và ảnh hưởng của các thiết chế đa phương trong quản trị toàn cầu như UN, WTO, WB, IMF, WHO... lại giảm đi một cách tương ứng và ngược lại. Điều đó sẽ tác động sâu sắc đến việc thay đổi nhận thức về "kịch bản toàn cầu hóa mới 2.0", trong đó xuất hiện làn sóng dịch chuyển, sắp xếp lại lớn nhất và với tốc độ nhanh nhất mà thế giới chưa từng chứng kiến về đầu tư, sản xuất, thương mại, cung ứng, hậu cần, dịch vụ... những nhân tố cấu thành nền kinh tế chuỗi của quá trình toàn cầu hóa 1.0 hiện nay.

Xu hướng chung là không từ bỏ, nhưng liên kết và hội nhập sẽ được các quốc gia tiến hành một cách thận trọng và có kiểm soát chứ không để phát triển tràn lan, vô tổ chức như hiện nay với những hệ quả khôn lường. Khuynh hướng "phi Trung Quốc", tức là thoát hoặc giảm tối đa sự lệ thuộc vào một thị trường hoặc một đối tác có tính chi phối như Trung Quốc nhiều khả năng sẽ được đẩy mạnh. Xu hướng đa dạng hóa và chuyển dịch đầu tư, sản xuất ra khỏi Trung Quốc cũng đồng nghĩa với việc sẽ hình thành một làn sóng chuyển dịch đầu tư sang các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á và một số khu vực khác.

Ngày nay, tự do hóa thương mại không còn mang nghĩa đơn thuần mua bán giữa các nước - nó còn là sự đổi chác mang tính địa chính trị. Cuộc chơi thương mại ngày càng khốc liệt và bất quy tắc. Sự xung đột Mỹ - Trung ở thế kỷ 21 này chắc sẽ không kém phần khốc liệt do quy mô và tác động của hai quốc gia lên toàn cầu đều rất lớn.

Các lợi thế không phải nghiễm nhiên sẽ từ trên giấy trở thành hiện thực, thành công ăn việc làm, thành thu nhập. Các FTAs từng hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội, nhưng phần lợi ích thực sự đạt được của chúng ta còn khiêm tốn. Riêng các lợi ích từ ưu đãi thuế quan, trung bình chúng ta mới chỉ tận dụng được chưa đầy 40% và chủ yếu thuộc về các DN đầu tư nước ngoài (FDI). Hơn 60% còn lại, vì nhiều lí do khác nhau, đã tuột khỏi tay DN Việt Nam. Nếu vẫn đi theo sản phẩm cũ, thói quen sản xuất cũ thì sẽ không tiến đến đâu cả, cho dù chúng ta ký kết nhiều FTA.

Dù muốn dù không chúng ta cũng phải chuẩn bị cho một giai đoạn mà trong đó vai trò sản xuất hàng gia công cho các nước khác không còn là xu thế chủ đạo nữa. Chúng ta cũng phải chuẩn bị cho một giai đoạn mà hàng rào thuế quan và kỹ thuật được dựng lên khắp nơi trên thế giới. Những diễn biến hiện nay cho thấy thị trường thế giới ngày càng trở nên bất định, khó lường… Để thực thi các FTA, đáp ứng nhu cầu hội nhập, tham gia vào các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu, cần tập trung vào một số công việc cấp bách sau :

3.1. Về thể chế kinh tế

Không thể phát triển nếu không có sự đánh đổi. Tuy nhiên cần, phải thống nhất được về nguyên tắc mức độ có thể chấp nhận để sự đánh đổi là phát triển chứ không phải là sự hủy hoại tài nguyên, môi trường,…

Hội nhập đòi hỏi phải chấp nhận luật chơi và cách chơi khi tham gia thị trường quốc tế. Không có hệ thống pháp luật phù hợp, không có môi trường kinh doanh thì không thể khai thác được lợi thế của các FTA. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang bắt đầu thực hiện ở nước ta, với nhiều vấn đề mới nảy sinh mà chưa có pháp luật điều chỉnh. Do đó, cần có cách tiếp cận thích hợp để không lấy luật pháp hiện hành điều chỉnh hành vi mới và không căn cứ vào luật pháp hiện hành để coi hành vi mới là vi phạm luật pháp, bởi cả hai cách ứng xử đó đều cản trở đổi mới và sáng tạo.

Đổi mới thể chế phải là một khâu đột phá, gắn kết việc đổi mới thể chế trong nước với thể chế hội nhập. Cải cách thể chế là thay đổi nội dung, chứ không phải chỉ thay đổi hình thức, thay đổi trình tự, thủ tục. Làn sóng cải cách lần này phải thị trường hơn nữa và nhà nước đương nhiên phải thay đổi. Thực tế cho thấy môi trường kinh doanh mặc dù đã được cải thiện song tự do hoá với bên ngoài chưa thực sự đi kèm với tự do hoá các nguồn lực bên trong.

Cải cách thể chế môi trường kinh doanh cần có bước đi phù hợp, nhưng phải đặt trong mối quan hệ hệ thống .Việc làm trước phải mở đường cho việc làm sau, không tạo ra xung đột pháp lý và mâu thuẫn chính sách,làm sao để nền kinh tế tiếp cận nhanh với các chuẩn mực, thông lệ kinh doanh của thế giới mà các nước đi trước phải mất hàng trăm năm mới có.Nếu chỉ loay hoay bỏ mấy điều kiện kinh doanh, cải cách hành chính thì không thể mở rộng được quy mô thị trường, không thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực để tạo ra động lực tăng trưởng, thúc đẩy nền kinh tế bứt phá. Vì thế cần đẩy nhanh việc xây dựng thị trường các nhân tố sản xuất.

Thay đổi tư duy trong bộ máy hành chính là một nội dung quan trọng. Thủ tục hành chính cũng phải được thể chế hóa và đòi hỏi thực thi nghiêm minh. Bên cạnh đó cũng rất cần một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực, được đào tạo cơ bản, có đạo đức nghề nghiệp.

Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý rất cần bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật thuế xuất, nhập khẩu cũng cần được sửa đổi cho thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và các bộ luật hiện hành; tương thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán. Cùng với đó, cần tháo gỡ các vướng mắc, bất cập, chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất, đầy đủ, đồng bộ và khả thi.

Luật Đầu tư và Luật DN (sửa đổi) cần quy định cách tiếp cận mới để kịp thời xử lý các hành vi kinh doanh mới của nền kinh tế số, vừa để không xảy ra khoảng trống pháp lý, vừa tạo thuận lợi cho hành vi kinh doanh mới được thực hiện và phát triển.

Thời gian tới, các bộ, ban, ngành cần tạo đột phá mới về cải cách điều kiện kinh doanh. Theo đó, DN được chủ động, tự chịu trách nhiệm khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện kinh doanh. Hoạt động hậu kiểm được thực hiện trong suốt quá trình hoạt động của DN. Đồng thời cần thiết lập kênh ghi nhận phản hồi từ DN một cách công khai, minh bạch và bảo đảm an toàn cho DN...

Khi Nhà nước giảm sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của DN thì vai trò của hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết. Nội dung hoạt động của hiệp hội cần hướng vào:

- Phối hợp tốt với Chính phủ và các cơ quan công quyền khác để xây dựng và thực hiện các chiến lược tham gia mạng lưới sản xuất, phân phối toàn cầu.

- Nghiên cứu, tổng hợp các yêu cầu về thông tin của các DN hội viên và tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin chuyên ngành cho các DN hội viên theo yêu cầu, đồng thời có phương án hợp tác, chia sẻ và trao đổi thông tin với các tổ chức xúc tiến thương mại khác...

- Tổ chức các diễn đàn cho các thành viên gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau.

- Hỗ trợ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật, xúc tiến tham gia các liên kết trong GPDN (mạng lưới sản xuất, phân phối toàn cầu - Global production and distribution network - GPDN)....

- Tư vấn cho Chính phủ trong việc hoạch định các chính sách có liên quan tới việc tham gia của DN và sản phẩm vào GPDN.

- Phổ biến các tiến bộ kỹ thuật, khoa học và công nghệ, những kinh nghiệm về tổ chức quản lý GPDN tiên tiến của các DN thành công trên thế giới.

- Hiệp hội phối hợp với các chi hội đánh giá khả năng, điều kiện tham gia của DN và sản phẩm vào GPDN để hướng dẫn, hỗ trợ hiệu quả cho việc tham gia của các DN và sản phẩm.

Thực thi việc xã hội hóa việc điều phối ngành hàng cho các Hiệp hội DN kiểu mới - được trao nhiều quyền lực hơn trong định hướng sản xuất cũng như xuất khẩu. Người sản xuất phải làm theo hợp đồng, người xuất khẩu phải tham gia hiệp hội ngành nghề , tuân thủ luật chơi chung tránh bán phá giá.

Rất cần có bộ máy chuyên môn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng ,thực thi việc theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu lực của pháp luật và thể chế.

3.2.Về cải cách và đổi mới DN

Xét ở góc độ phạm vi sản xuất kinh doanh, cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 cho phép mức độ tự do và linh hoạt cao hơn. Cuộc CMCN 4.0 chỉ mang lại những thay đổi tích cực cho các DN khi có sự chuẩn bị tốt để nắm bắt được làn sóng này. Doanh nghiệp phải đương đầu với nhiều vấn đề cốt lõi như: sự tin cậy (trust), bảo mật (security) và thông tin cá nhân (privacy). Nếu vẫn giữ nguyên mô hình hoạt động, chất lượng nhân công và công nghệ lạc hậu như hiện nay, thì trong dài hạn việc khủng hoảng thừa lao động sẽ trở thành vấn đề đặc biệt nghiêm trọng.

Tái khởi nghiệp được hiểu là là quá trình DN đổi mới sáng tạo và phát triển mô hình kinh doanh, cơ cấu tổ chức, quy trình hoạt động nhằm tạo ra những giá trị mới, đáp ứng đòi hỏi của khách hàng về trải nghiệm những dịch vụ mới, giá trị mới từ phía DN. Trên thực tế, không ít các DN thường quá chủ quan, hoặc quá tập trung cho các vấn đề vận hành trong khi các dấu hiệu lão hóa hình thành, không được xử lý, khiến cho bài toán tái khởi nghiệp trở nên rất khó khăn. Khi đó điều quan trọng với các DN là phải từng bước thay đổi. Không nên vội vã làm điều gì bất thường nhưng cũng không nên quá chủ quan mà phải liên tục lắng nghe, theo dõi và có những thử nghiệm.

Thực thi việc tái khởi nghiệp, DN có thể áp dụng đổi mới sáng tạo trên ba cấp độ. Cấp độ 1: cải tiến hoặc đột phá kiến tạo lại giá trị cho khách hàng với giải pháp truy xuất nguồn gốc. Cấp độ 2: đổi mới sáng tạo lại mô hình kinh doanh kiến tạo và chuyển giao giá trị tới khách hàng; thực thi các giải pháp kết nối giữa khách hàng và các đại lý. Cấp độ 3: cấu trúc hoặc thay đổi lại các chức năng trên chuỗi giá trị DN đang thực hiện như các phương thức tiếp thị, quản lý KPI (chỉ số đo lường hiệu quả công việc) .

Những cách thức thành công cũ như dùng đòn bẩy qua khả năng tiếp cận nguồn vốn rẻ và lượm lặt thông tin bên trong nhờ các mối quan hệ… sẽ không còn đáng tin cậy trong tương lai. Nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần phải học cách thích nghi thông qua việc thay đổi phong cách lãnh đạo, quy trình làm việc nội bộ để dần chuẩn hóa tổ chức bộ máy theo chuẩn quốc tế.Đ ể đối mặt và giải quyết các vấn đề mới một cách hiệu quả, nhà quản trị cần tạo điều kiện cho các thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định, khuyến khích sự đa dạng trong cách suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề của các các nhân viên, chấp nhận sự khác biệt giữa các ý kiến, các quan điểm.

Một trong những thách thức đối với việc xây dựng, kiểm soát và điều chỉnh chiến lược kinh doanh (CLKD) của các DN chính là khả năng nhận biết và đánh giá đúng tác động của hội nhập và biến động thị trường tới hoạt động kinh doanh của mỗi DN. Một chiến lược đúng thì các thành tố cấu thành: mục tiêu,hướng đi, cách thức đi,những nguồn lực cần thiết ,phương thức vận hành chiến lược theo từng giai đoạn phải phù hợp. Mô hình chiến lược được DN chọn nên theo dạng mở,luôn điều chỉnh theo sát thực tế và những thay đổi của môi trường kinh doanh. Kết hợp chặt chẽ giữa vấn đề phác thảo và vận hành, điều chỉnh mô hình quản lý cho phù hợp với chiến lược. Bốn vấn đề trong đổi mới quản trị chiến lược của DN để hướng tới phát triển bền vững cần được chú trọng: Hiệu quả về mặt kinh doanh, lợi nhuận thiết thực cho phát triển DN cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; Tinh thần thượng tôn pháp luật, không những về kinh tế mà điều chỉnh cả về môi trường và xã hội; Xây dựng và quy chuẩn đạo đức kinh doanh và trách nhiệm với xã hội và cuối cùng là Có những cam kết mạnh mẽ trong hoạt động từ thiện, chia sẻ những khó khăn, thiên tai trong cộng đồng và trên thế giới.

Khả năng bị kiện hay trả đũa sẽ gia tăng trong thời gian tới, vì vậy việc chuẩn bị và minh bạch hoá sổ sách, kế toán, theo dõi thông tin, phối hợp công bố thông tin, nhân lực am hiểu luật lệ, vận động hành lang, ngoại giao... sẽ là những vấn đề DN phải chuẩn bị. Vai trò của Việt kiều cần được phát huy cao độ để hàng Việt Nam có thể lách chân vào các thị trường ngách.

3.3. Đổi mới công tác thông tin thị trường và xúc tiến thương mại

Sớm hình thành cơ chế phối hợp thông tin không chỉ giữa các cơ quan quản lý, các hiệp hội ngành hàng,mà cần thiết lập kênh truyền tải thông tin tới DN, nông dân. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới nhằm cung cấp kịp thời tình hình chính trị, thị trường, chính sách, biện pháp quản lý xuất nhập khẩu, rào cản...Theo đó đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ DN trong việc tìm kiếm đối tác, thị trường mới, mặt hàng mới, thâm nhập các kênh phân phối, tham dự hội chợ, triển lãm...

3.4. Chuẩn bị nguồn nhân lực

Trong khối ASEAN, Việt Nam nằm ở nửa cuối của bảng xếp hạng đánh giá về phát triển nguồn nhân lực. Để góp phần thúc đẩy sự tham gia của các DN Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, cần phải có nguồn nhân lực đủ kỹ năng và năng lực cần thiết để sẵn sàng làm việc. Ctrọng đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề. Việc đào tạo cần theo hai hướng, trước mắt, đối với người lao động cần thuần thục về kỹ năng và chuyên môn hoá sâu. Mặt khác phải chú trọng đặc biệt tới đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của nhân loại cho phát triển của Việt Nam về lâu dài

3.5. Rà soát các tiêu chuẩn và xây dựng hàng rào kỹ thuật

Thực thi các biện pháp quyết liệt nhằm nâng cao uy tín và chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam. Đổi mới nhanh công nghệ, thiết bị, áp dụng quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt...để sản xuất sản phẩm xuất khẩu hợp chuẩn quốc tế.Rà soát lại 5.600 tiêu chuẩn hiện hành (hiện mới chỉ có khoảng 24% tiêu chuẩn bảo đảm hài hoà với tiêu chuẩn quy định của quốc tế và khu vực).Bên cạnh đó,cần chuẩn bị, xúc tiến việc xây dựng hàng rào kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn mới nhằm bảo vệ thị trường nội địa.

3.6. Vấn đề xây dựng thương hiệu

Theo đánh giá của các chuyên gia, có tới 85 - 90 % lượng hàng nông sản của ta vào thị trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các “thương hiệu” nước ngoài. Vì vậy giá thấp, bị o ép... sẽ vẫn là những câu chuyện thường ngày đối với hàng Việt Nam khi “vượt biên” xuất ngoại.

Thực tế cho thấy hầu hết DN vẫn chưa thương hiệu hoá không chỉ trên thị trường quốc tế mà cả ở thị trường trong nước do hai nguyên nhân chính: phần nhiều DN Việt Nam chưa tạo ra sản phẩm riêng biệt của mình để từ đó xác lập thương hiệu có tính thuyết phục và như một bảo đảm bền vững và một số DN Việt Nam đã tạo ra được thương hiệu của mình nhưng lại chưa thực sự tìm được "pháp thuật" để làm cho thương hiệu của mình được lan toả một cách sâu rộng nhất. Chiến lược phát triển thương hiệu cần thống nhất xác định trong thời gian dài và có sự đảm bảo nhất định về tài chính để có đủ khả năng ổn định phát huy thế cạnh tranh năng động cho một vài nhóm sản phẩm với phân khúc thị trường mục tiêu rõ ràng. Sự hiện diện một cách lâu dài trên thị trường của một sản phẩm cũng là một nguyên nhân vô cùng quan trọng làm nên thương hiệu.

Chúng ta đang ở giai đoạn đặt nền móng đầu tiên cho ngôi nhà Việt Nam tương lai. Nỗ lực xây dựng nền móng của Việt Nam trong năm 2020 sẽ là chỉ báo quan trọng cho thấy Việt Nam sẽ xây dựng một ngôi nhà ở tầm vóc nào và sẽ đi được bao xa trong hành trình đưa đất nước tiến tới kỷ niệm 100 năm độc lập vào ngày 2/9/2045. “Va đập lớn” thường sẽ có rạn nứt, thậm chí đổ vỡ, nhưng cũng sẽ là cơ hội để những ai đủ sức chịu đựng, vượt qua được sức ép đó vươn lên. Liệu Việt Nam có thể vượt qua sức ép để nắm lấy cơ hội từ “cuộc va đập lớn” đó?

Phát triển, mở rộng hợp tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ, củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 phạm vi: quốc gia - DN - sản phẩm, thực thi tự do hoá thương mại với những bước đi và tốc độ phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình… có thể nói đó chính là “kim chỉ nam” để Việt Nam có thể rút ngắn con đường phát triển của mình mà lịch sử thế giới phải trải qua hàng trăm năm mới có. Đây cũng có thể xem là “lối mở” hợp quy luật đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay./.

Tiêu Hải Vân

Trung tâm Tư vấn, Đào tạo Công nghiệp và Thương mại - VIOIT

Từ khóa » Tiêu Luận Về Fta